Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ l...

Tài liệu Bài tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình việt nam ở nước ta hiện nay

.PDF
22
1
95

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TIỂU LUẬN CÁ NHÂN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TÊN ĐỀ TÀI: “GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY” Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: MSSV: Lớp: Ths. Bùi Văn Tuyển Nguyễn Ngọc Quỳnh 21510101470 KT21/A4 Mã lớp HP: 000013001 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÀI TIỂU LUẬN MÔN: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học Họ và tên sinh viên: Nguyễn Ngọc Quỳnh Mã số sinh viên: 21510101470 Mã lớp học phần: 000013001 ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN Ghi bằng số Ghi bằng chữ Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1 Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2 Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 17 tháng 12 năm 2022 Sinh viên nộp bài Nguyễn Ngọc Quỳnh 6 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1 B. PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..................................................................................... 2 1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình ................................................................ 2 1.1. Khái niệm gia đình ................................................................................................ 2 1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội ............................................................................. 2 1.3. Chức năng cơ bản của gia đình ............................................................................. 4 2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ............................ 6 2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội ............................................................................................ 6 2.2. Cơ sở chính trị - xã hội .......................................................................................... 6 2.3. Cơ sở văn hóa ........................................................................................................ 6 2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ ........................................................................................ 7 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ...................................................................... 8 1. Những thành tựu đạt được sau 35 năm xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ............................................................................................. 8 1.1. Về số lượng ........................................................................................................... 8 1.2. Về chất lượng ........................................................................................................ 8 1.3. Về kinh tế .............................................................................................................. 9 1.4. Về chính sách và hệ thống pháp luật ................................................................... 10 2. Những hạn chế trong vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ............................................................................................................. 10 2.1. Vấn đề bạo lực gia đình ....................................................................................... 10 2.2. Vấn đề ly hôn ...................................................................................................... 11 2.3. Vấn đề trọng nam khinh nữ ................................................................................. 11 2.4. Ý thức giáo dục con cái trong gia đình ............................................................... 12 3. Nguyên nhân của thực trạng trên: ........................................................................... 12 3.1. Nguyên nhân khách quan: ................................................................................... 12 3.2. Nguyên nhân chủ quan ........................................................................................ 13 7 4. Những vấn đề đặt ra ................................................................................................ 13 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ........ 14 1. Một số quan điểm quán triệt của Đảng và Nhà nước trong việc gia đình xây dựng gia đình hòa thuận, bình đẳng hạnh phúc. ..................................................................... 14 2. Gia đình mới hiện đại ra đời trên sự kế thừa những truyền thống và tiếp thu những tiến bộ của gia đình mới hiện đại ................................................................................... 15 3. Liên hệ bản thân ......................................................................................................... 16 C. KẾT LUẬN ................................................................................................................... 17 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 18 8 A. PHẦN MỞ ĐẦU Gia đình, một khái niệm quen thuộc gắn liền với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Trong gia đình có mối liên kết với nhau từ quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Là nơi mà những con người gắn kết sinh sống với nhau, tạo nên mối quan hệ mật thiết. Gia đình là hình ảnh phản ánh của một xã hội thu nhỏ. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với nhiều thế hệ con người và những chuẩn mực đạo đức có giá trị cao quý. Những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp được gìn giữ vun đắp và phát triển trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay đổi, nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn luôn tồn tại. Gia đình là một nền tảng không thể thiếu đối với sự phát triển của từng cá nhân, con người. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và thành nên nhân cách, lối sống, lối suy nghĩ, cách đối nhân xử thế của một cá nhân. Chính vì vậy, vai trò của gia đình là vô cùng quan trọng, cần được hiểu rõ và tiếp nhận một cách sâu sắc hơn. Xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp nhất của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại chính là tạo nên gia đình văn hóa. Đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta thời gian qua, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu cũng như vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế chế. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, em xin lựa chọn đề tài “Gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam ở nước ta hiện nay” để làm sáng tỏ vấn đề trên. 1 B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình 1.1. Khái niệm gia đình Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”1. Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý. Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái, còn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô, dì, chú bác với cháu v.v.. 2 Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi (người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình. Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành và duy trì củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. 1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội 1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, Tập 3, Tr.41 Quốc hội, Luật Hôn nhân và Gia đình, 2014. 1 2 2 những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”3. Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người, gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “…nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình”4. 1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình.Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển.Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội.Chỉ trong môi trường yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở thành con người xã hội tốt. 1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau mà không cộng đồng có được và có thể thay thế. Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình, mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác, ngoài các thành viên trong gia đình. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành viên của xã hội. Không có cá nhân bên ngoài gia đình, cũng không thể có cá nhân bên ngoài xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, Tập 21, Tr.44 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, Tập 9, Tr.531. 3 4 3 Gia đình cũng chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội. 1.3. Chức năng cơ bản của gia đình 1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động của xã hội. Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng nó không chỉ là việc việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, nó quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt đời sống của xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp. 1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại đều có ý nghĩa rất quan trọng đối với một đời người.Vì vậy, gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời, từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục. 1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng 4 Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình tái sản xuất rasức lao động cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động cho xã hội, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như sinh hoạt gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trỉ sở thích, sắc thái riêng của mỗi người. 1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi người, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người.Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có y nghĩa quyết định đến sự ổ định và phát triển của xã hội.Khi các quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ. 1.3.5. Chức năng khác Chức năng văn hóa: Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi ưu giữ mà còn là nới sáng tạo và thực hiện những giá trị đạo đức, văn hóa. Chức năng chính trị: Gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình cũng là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. 5 2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội Cơ sở kinh tế -xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ,tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong trong xã hội. V.I. Lênnin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô lớn”5. 2.2. Cơ sở chính trị - xã hội Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền xô viết là chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho nam giới. Chính quyền xô viết, một chính quyền của nhân dân lao động, chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giớ đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông trong gia đình…”6. 2.3. Cơ sở văn hóa Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây dựng 5 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, Tập 42, tr. 464. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, Tập 40, tr. 182. 6 6 chủ nghĩa xã hội. Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế, chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao. 2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ 2.4.1. Hôn nhân tự nguyện Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là khát vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế. Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”7. Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn. 2.4.2. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người - vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”8. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v.. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, Tập 21, Tr.125 C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, Tập 21, Tr.118. 7 8 7 của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái. nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc. 2.4.3. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhânlợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thảo mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Những thành tựu đạt được sau 35 năm xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.1. Về số lượng Cùng với sự phát triển dân số là quá trình hạt nhân hóa gia đình. Số lượng gia đình Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới đất nước. Tốc độ gia tăng về tỷ lệ hộ gia đình qua các cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở các năm 1989, 1999 và 2019 cho thấy, số hộ gia đình vào ngày 1-4-1989 là 12.927.297, tăng 3,1% so với đợt tổng điều tra ngày 1-10-1979. Đến ngày 1-4-1999, số lượng hộ gia đình cả nước là 16.661.666, tăng 2,5% so với ngày 1-4-1989. Tiếp đó, đến ngày 1-4-2009, Việt Nam có 22.444.322 hộ gia đình, tăng 3,0% so với ngày 1-41999. Và đến ngày 1-4-2019, cả nước có 26.870.079 hộ gia đình, tăng 4,4 triệu hộ so với cùng thời điểm năm 2009, tỷ lệ tăng là 1,8%(1). Như vậy, sau 30 năm, số lượng hộ gia đình nước ta năm 2019 tăng gấp 2,07 lần so với năm 1989. Việc thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội về gia đình cùng với nhận thức của người dân được nâng cao đã tạo nên xu hướng gia đình hạt nhân có quy mô nhỏ. Quá trình hạt nhân hóa gia đình, bên cạnh những ưu điểm của gia đình hai thế hệ (cha mẹ - con cái), cùng với sự hình thành và phát triển của loại hình gia đình mới (gia đình độc thân, gia đình cha/mẹ đơn thân, sống chung không kết hôn), thì cũng có những khó khăn nhất định trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động, chuyển đổi nghề nghiệp và di cư hiện nay. 8 1.2. Về chất lượng Các chức năng cơ bản của gia đình có sự biến đổi. Trong thời kỳ đổi mới, sự biến đổi cấu trúc và quy mô gia đình kéo theo sự biến đổi về cách thức thực hiện các chức năng gia đình. Sự biến đổi chức năng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, đô thị hóa có những điểm khác biệt so với giai đoạn trước đổi mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại là cơ sở để đa dạng cách thức thực hiện chức năng kinh tế của gia đình. Cơ cấu loại hình gia đình có sự biến đổi. Sự biến đổi thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình cũng ảnh hưởng đến sự biến đổi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là mối quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ và con cái ngày càng dân chủ hơn, vợ chồng tôn trọng nhau, cha mẹ lắng nghe con Hình thành những chuẩn mực gia đình mới. Biến đổi xã hội cũng có nghĩa là sự mất đi của một số giá trị, chuẩn mực không còn thích hợp và hình thành nên những giá trị, chuẩn mực xã hội mới, cùng với quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, đã làm giàu thêm các giá trị, chuẩn mực của văn hóa Việt Nam. Điều này tác động tích cực đến đời sống văn hóa gia đình, đời sống văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú, các thành viên trong gia đình có nhiều lựa chọn và thụ hưởng văn hóa. Những thành tựu của khoa học và công nghệ nói chung và trong lĩnh vực y học nói riêng tạo nên những tiến bộ trong công tác gia đình. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về khoa học và công nghệ trong y học, có một số thành công sánh ngang các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu có con của những cặp vợ chồng hiếm muộn, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe các tầng lớp dân cư, nâng cao tuổi thọ của người dân, giảm tỷ lệ tử vong của người mẹ và con, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho hàng triệu gia đình. 1.3. Về kinh tế Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Theo Ngân hàng Thế giới, những thành tựu sau hơn 35 năm qua đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ năm 2002 đến năm 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. 9 Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Trong bối cảnh đó, kinh tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hằng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở phát triển. Ngày càng có nhiều gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn hóa, cụm dân cư văn hóa, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. 1.4. Về chính sách và hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình và liên quan đến gia đình ngày càng hoàn thiện. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Những năm qua, việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và lấy ngày 28-6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam đã khẳng định vai trò của gia đình đối với sự phát triển xã hội và sự quan tâm của xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Những hạn chế trong vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2.1. Vấn đề bạo lực gia đình Bạo lực gia đình còn nghiêm trọng, trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với người vợ, đang là vấn đề được sự quan tâm của xã hội. Số liệu điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam năm 2010 cho thấy, có 58,3% phụ nữ tham gia khảo sát đã trải qua ít nhất một hình thức bạo hành về thể chất, tinh thần hoặc tình dục, trong đó 27% đã trải qua ít nhất một hình thức bạo lực trong vòng 12 tháng trước cuộc điều tra. Có 32% phụ nữ có chồng cho biết, họ từng trải qua bạo lực về thể chất; 6% trong số đó trải qua bạo lực trong vòng 12 tháng trở lại. Bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực của chồng đối với vợ đã gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc nghiêm trọng cho phụ nữ và trẻ em. Xét về mặt xã hội, tổn thất kinh tế liên Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới 55 quan đến các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ có thể chiếm đến 1,78% GDP hàng năm. Trong khi đó, hầu hết các vụ bạo lực gia đình vẫn diễn ra âm thầm đằng sau cánh cửa gia đình, sự can thiệp của Nhà nước và các tổ chức xã hội còn hạn chế. Cũng còn thiếu sự thấu hiểu, thông cảm, lắng nghe và nhường nhịn nhau của những người trong cuộc. Cùng gây ảnh hưởng tổng hợp duy trì các 10 hành vi bạo lực gia đình, còn có: thói quen sử dụng rượu và chất gây nghiện; ngoại tình; thái độ nín nhịn vì giữ thể diện gia đình và xấu hổ; sự dung thứ của cộng đồng đối với các hành vi bạo lực; sự gia trưởng; sự bất bình đẳng về kinh tế; nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng xử lý các tình huống của các cán bộ có liên quan còn hạn chế, v.v.. Như vậy, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, mặc dù đã được ban hành và có hiệu lực từ năm 2008, đến nay vẫn chưa thực sự là sự đảm bảo pháp lý có ảnh hưởng sâu rộng đối với mọi tầng lớp nhân dân. 2.2. Vấn đề ly hôn Số liệu thống kê cho thấy số lượng các cuộc ly hôn tăng dần qua các năm và tỷ lệ nữ đứng đơn ly hôn ngày càng nhiều hơn nam giới. Việc đứng đơn ly hôn của người phụ nữ phần nào cho thấy địa vị của người phụ nữ đã thay đổi, nhận thức về quyền của họ đã được nâng lên, người phụ nữ đang ngày càng tự chủ hơn trong đời sống hôn nhân của mình. Tuy nhiên, đằng sau các lá đơn ly hôn, kể cả khi phụ nữ đứng tên, cũng phản ánh một sự thật là ngày nay, tác động của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào đời sống gia đình, nhiều khi chi phối cả mối quan hệ giữa chồng và vợ và dẫn đến những cuộc ly hôn đáng tiếc. Hậu quả lớn của các cuộc ly hôn chính là sự phát triển thiếu toàn diện của con cái cũng như sự thiếu tôn trọng của con cái đối với cha mẹ sau này. Số vụ ly hôn ở Việt Nam hiện ở mức 60.000 vụ/năm, tương đương 0,75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, có nghĩa rằng, cứ 4 cặp vợ chồng đi đăng ký kết hôn thì một đôi ra tòa. Cuộc sống với nhiều mâu thuẫn khiến không chỉ các cặp đôi trẻ mà nhiều cặp đôi đã chung sống với nhau lâu năm cũng đi đến quyết định này. 2.3. Vấn đề trọng nam khinh nữ Theo kết quả Điều tra thanh niên và vị thành niên Việt Nam 2009, vẫn còn 12,6% thanh niên lứa tuổi 14 - 25 cho rằng cần phải có con trai. Việc phân biệt đối xử giữa con trai và con gái dẫn đến tình trạng chọn lọc giới tính thai nhi. Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam đang có xu hướng tăng, từ 110,5 bé trai/100 bé gái vào năm 2009 đến 111,2 năm 2010; 111,9 năm 2011 và 112,3 năm 2012. Với xu hướng này, nếu không có sự can thiệp, thì tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam sẽ sớm đến mức 115 bé trai /100 bé gái vào năm 2015 và chắc chắn chưa dừng lại ở đó. Theo xu hướng này, chỉ vài thập niên sau tình trạng không có đủ phụ nữ cho đàn ông lấy làm vợ sẽ xảy ra ở nước ta (giống như tình trạng đang xảy ra ở các nước và một số vùng lãnh thổ của Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hiện nay). Nhưng khi tình trạng khủng hoảng “thừa nam thiếu nữ” xảy ra thì sự nguy hại không chỉ đến với nam giới, mà còn dành sẵn để chờ người phụ nữ: họ sẽ trở thành đối tượng bị tranh cướp, thành vấn nạn mại dâm và buôn bán phụ nữ, và nhất là nguồn lao động của đất nước sẽ bị thiếu hụt ở một số lĩnh vực cần đến bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ tinh tế của phụ nữ. Đây 11 là một hiện tượng rất bất bình thường trong lịch sử phát triển dân số gia đình ở Việt Nam và cần được các nhà hoạch định chính sách phát triển xã hội, các bậc cha mẹ, nhất là những người đang trong độ tuổi sinh đẻ quan tâm 2.4. Ý thức giáo dục con cái trong gia đình Có một tỷ lệ không nhỏ các bậc cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 - 17 cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Việc giáo dục trẻ không đúng cách dẫn đến những hậu quả tiêu cực. Nhiều em đã có các hành vi như buồn bã, gây gổ đánh nhau, uống rượu, sử dụng chất gây nghiện, v.v.. Tình trạng này rất là nghiêm trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn từ phía gia đình và xã hội trong việc bảo vệ sức khỏe thiếu niên. Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái. Khó khăn này đòi hỏi phải thay đổi nhận thức và tăng cường kiến thức của cả cha mẹ và vị thành niên trong sự quan tâm đến trẻ vị thành niên - một giai đoạn hết sức quan trọng trong việc định hình và phát triển nhân cách con cái. 3. Nguyên nhân của thực trạng trên: 3.1. Nguyên nhân khách quan: Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh; sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục tác động đến không ít gia đình. Việc thực hiện các chính sách về gia đình chưa có trọng tâm, còn dàn trải, chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình trong quản lý phát triển xã hội. Sự phối hợp giữa các ngành trong giải quyết vấn đề của gia đình, nhất là trong phòng, chống bạo lực chưa hiệu quả. Bộ máy tổ chức thực hiện nhiệm vụ tham mưu quản lý nhà nước về gia đình các cấp chưa thống nhất và chưa ổn định. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, hội nhập quốc tế, cùng với đó là hội nhập văn hóa tạo ra những hiện tượng phức tạp, tiêu cực đối với gia đình như nguy cơ những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình bị đồng hóa, phá vỡ, lối sống thực dụng đề cao giá trị vật chất, tình trạng thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, buôn bán phụ nữ, trẻ em, môi 12 giới hôn nhân, bạo lực gia đình, các tệ nạn xã hội… làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sản xuất, kinh doanh, giáo dục, sức khỏe và chất lượng cuộc sống của mỗi gia đình. Thiết bị thông tin kết nối mạng internet và sự phát triển các mạng xã hội ngày càng nhiều, nhưng việc kiểm soát thông tin có mặt chưa chặt chẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đến các thành viên gia đình, nhất là trẻ em, thanh thiếu niên. 3.2. Nguyên nhân chủ quan Gia đình Việt Nam đang có biến đổi nhiều mặt về quy mô, cấu trúc, chức năng, thang giá trị, nhiều loại hình gia đình xuất hiện và tồn tại song hành với mô hình gia đình truyền thống. Khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư, các vùng địa lý ngày càng rộng, tỷ lệ tái nghèo còn cao, lõi nghèo tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chậm phát triển, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã tạo ra thách thức đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Việt Nam đang trong thời kỳ “dân số vàng” và đang chuẩn bị sang giai đoạn “già hóa dân số” với tốc độ nhanh; cùng với đó, tỷ lệ gia đình trẻ, gia đình khuyết thế hệ và gia đình chỉ có người cao tuổi tăng, tạo ra những thách thức về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa cho các cá nhân, gia đình, xã hội Một bộ phận gia đình do sự hấp dẫn từ lợi nhuận kinh tế đã mải mê lo làm giàu, kiếm tiền, sao nhãng thời gian dành cho gia đình, không quan tâm chăm lo việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hoá trong gia đình cho các thế hệ; ít quan tâm chú ý đến việc phụng dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ, giáo dục con cái. Một bộ phận gia đình bị ảnh hưởng bởi lối sống “thực dụng” dẫn đến sự lạnh lùng vô cảm xa rời lối sống truyền thống “thương người như thể thương thân”, “biết nhường cơm sẻ áo”, “sống tối lửa tắt đèn có nhau”, chưa nhiều cảm thông giúp đỡ người nghèo. 4. Những vấn đề đặt ra Thứ nhất, một bộ phận các cặp vợ chồng vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam, dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh, để lại những hậu quả xã hội ở nhiều lĩnh vực kinh tế, hôn nhân gia đình, an ninh, trật tự xã hội. Thứ hai, một số gia đình có biểu hiện coi trọng chức năng kinh tế, sao nhãng chức năng giáo dục con cái. Gia đình có xu hướng nhường dần chức năng giáo dục cho nhà trường. Mặc dù mức sống gia đình Việt Nam ngày càng được cải thiện, nhưng việc chuyển hướng ngành, nghề đối với những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Hàng nghìn gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm nghìn trẻ em nạn nhân của chất độc 13 da cam đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau gần nửa thế kỷ vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thứ ba, mặc dù mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng dân chủ và bình đẳng hơn trước, nhưng vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực của chồng đối với vợ. Bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, và bạo lực trên cơ sở giới không dễ giải quyết ngày một ngày hai. Bên cạnh những nguyên nhân do bất bình đẳng giới, ngoại tình, rượu chè, cờ bạc, thì cần phải nói thêm một nguyên nhân quan trọng nữa là đa số người vợ khi bị bạo lực lại tự nhận mình có lỗi, chứ không phải lỗi của người chồng có hành vi bạo lực. Do đó, cần nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội cùng chung tay góp phần phòng, chống bạo lực gia đình. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Một số quan điểm quán triệt của Đảng và Nhà nước trong việc gia đình xây dựng gia đình hòa thuận, bình đẳng hạnh phúc. Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình: Các cấp ủy đảng, chính quyền, công đoàn và các đoàn thể xã hội cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình. Cần lồng ghép công tác gia đình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và kế hoạch 5 năm của các bộ, ban, ngành, địa phương, từ trung ương đến cơ sở. Để công tác gia đình thực hiện được hiệu quả, cần có đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác gia đình được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và nguồn kinh phí thích hợp với tầm quan trọng của gia đình, coi đầu tư cho gia đình là đầu tư cho phát triển bền vững. Bảo đảm đủ nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Tiếp tục củng cố và ổn định các cơ quan: Tổng cục Dân số (Bộ Y tế), Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Cục Trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) và các cơ quan thuộc lĩnh vực này ở các cấp, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp cơ sở; đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và phối hợp liên ngành về công tác gia đình. Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình: Cần rà soát lại hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến gia đình; sửa đổi, điều chỉnh và hoàn thiện cho phù hợp với quá trình phát triển của xã hội và sự biến đổi gia đình. Xây dựng, phát triển hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các loại hình gia đình hiện nay. Có chính sách quan tâm đến những hộ gia đình bị 14 ảnh hưởng bởi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, di dân để xây dựng các công trình thủy điện, đường cao tốc, khu công nghiệp, khu chế xuất. Cần quan tâm hơn đến các gia đình chính sách (hộ nghèo, gia đình có công; thương binh, liệt sỹ), nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán, thiên tai khắc nghiệt, bão lũ, đại dịch COVID-19. Mở rộng và nâng cao hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; bảo đảm cho các gia đình có cơ hội tiếp cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm sóc người cao tuổi. 2. Gia đình mới hiện đại ra đời trên sự kế thừa những truyền thống và tiếp thu những tiến bộ của gia đình mới hiện đại Thứ nhất, để xây dựng gia đình mới phải ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, mạnh dạn lựa chọn và xử lý đúng đắn những yếu tố mới nãy sinh, và quan trọng hơn, là biết tiếp thu những nội dung tiến bộ của thời đại. Xử lý và tiếp thu những vấn đề của thời đại không phải là cách tân đơn giản mà phải phù hợp với truyền thống của dân tộc, của gia đình và sự phát triển chung của xã hội. Thứ hai, để duy trì cuộc sống vợ chồng gia đình hạnh phúc thì việc chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, là cơ sở cơ bản cho Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. Kế hoạch hóa gia đình một trong những vấn đề cấp bách nằm trong chính sách lớn của Nhà nước nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm trẻ em sinh ra được nuôi dạy tốt góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Thứ ba, vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau, có quyền được thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố đã chết. Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ hoặc chồng sau khi đã ly hôn có điều kiện cấp dưỡng phải cấp dưỡng cho người kia đang trong tình trạng cần cấp dưỡng. Nhiệm vụ cấp dưỡng và quyền được cấp dưỡng đặt ra bình đẳng giữa hai người đã từng là vợ chồng. Như vậy vợ và chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình cũng như ngoài xã hội là một nguyên tắc nhất quán trong quan hệ Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật Hôn nhân và gia đình đã tạo ra cơ sở pháp lý cho quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội, giải phóng người phụ nữ ra khỏi những tàn dư của sự kìm hảm của tư tưởng gia đình phong kiến, đồng thời bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng ( đặc biệt là vợ ) được sống và phát triển trong một gia đình dân chủ, hạnh phúc tham gia công tác chính trị, xã hội. Nâng cao mối quan hệ giữa vợ và chồng: 15 - Tôn trọng pháp luật, nghiêm túc chấp hành chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Đây là chế độ phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên, với tâm lý, tình cảm và đạo đức con người, do vậy là cơ sở đảm bảo xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. - Thực hiện bình đẳng trong mọi khía cạnh của đời sống gia đình như: cùng chia sẻ công việc gia đình, chăm sóc con cái; được thỏa mãn những nhu cầu cá nhân như: giải trí, học tập, tham gia hoạt động xã hội, cộng đồng; được bàn bạc, trao đổi, tham gia vào quá trình ra quyết định trong gia đình cũng như bình đẳng, tôn trọng trong đời sống tình dục hay kế hoạch hóa gia đình. - Gia đình được gây dựng nên nhờ hôn nhân, hôn nhân là sự kết hợp thiêng liêng trên cơ sở tình yêu, Do vậy, việc duy trì tình yêu trong hôn nhân là yếu tố then chốt để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Có thể duy trì tình yêu bằng cách chăm sóc, tôn trọng, trung thực trong đời sống thường ngày, thăm hỏi, động viên, chia sẻ mỗi khi người vợ/chồng gặp khó khăn, đau ốm, không giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. - Bên cạnh đó, quan hệ hôn nhân cũng cần có sự đảm bảo về tài chính. Mỗi thành viên cần phải nỗ lực để mang lại một cuộc sống ổn định, đảm bảo các nhu cầu sống và phát triển để người vợ/ chồng không cần phải vất vả gánh vác gánh nặng kinh tế một mình Nâng cao mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái -Cần thể hiện tình yêu với con cái thường xuyên hơn để chúng biết rằng cha mẹ yêu chúng nhiều đến thế nào. Tránh để trẻ trưởng thành trong một môi trường thiếu sự yêu thương, dẫn đến hình thành tính cách tự ti, bệnh tâm lý. Giao tiếp nhiều với con để con có thể học được cách xây dựng các mối quan hệ ngoài gia đình, ghi nhận quan điểm, chia sẻ những vướng mắc, khó khăn mà con đang gặp phải - Tôn trọng quan điểm, góc nhìn của con cái, không nên áp đặt cách nuôi dạy con của người khác lên con cái của mình vì mỗi cá nhân sẽ có những thế mạnh, điểm yếu khác nhau. - Cần tạo ra một không gian an toàn cho con cái, ở đó, con cảm thấy được bảo vệ và chăm sóc. Thỏa mãn nhu cầu được lắng nghe, được quan tâm, thấu hiểu. Đảm bảo với con là con có thể tin tưởng rằng dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, con vẫn luôn có gia đình đứng sau ủng hộ. - Không dùng bạo lực để răn dạy con cái vì điều đó có thể khiến trẻ có xu hướng trở nên bạo lực, bạo lực nối tiếp bạo lực. Ngoài ra, bạo lực còn có thể đem lại tổn thương về mặt thể xác và mặt tinh thần, làm cho trẻ luôn có những suy nghĩ tiêu cực, tâm trạng buồn bã, chán nản, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất