• Công nghệ chế tạo
bê tông polime sử
dụng nhựa phuran
Tính cấp thiết của bê tông
polime
Bê tông là vật liệu xây dựng thông dụng nhất trên
hành tinh chúng ta. Hiện nay, khoảng 5-8% lượng
CO2 do con người thải ra có nguồn gốc từ ngành
công nghiệp sản xuất xi măng Portland, một chất
kết dính không thể thiếu của bê tông thông
thường.
Xi măng Portland là một trong những vật liệu
được sản xuất rộng rãi nhất trên Trái đất. Sản
lượng xi măng Portland trên toàn thế giới hiện tại
đã vượt qua ngưỡng 2,6 tỉ tấn một năm và hàng
năm tăng trung bình 5%.
Để có thể kìm hãm tốc độ ô nhiễm đã lên tới
mức cảnh báo như hiện nay đòi hỏi chúng ta
phải có biện pháp thay thế một phần bê tông sử
dụng CKD xi măng pooc lăng bằng loại bê tông
sử dụng CKD polime.Bê tông polime sử dụng
các loại thải phẩm từ nhà máy than đá,lọc
dầu.Sử dụng các loại CKD làm từ nhựa như
polieste,epoxy,phuran,xelulozo vv.Trong bài viết
này đề cập đến nhựa phuran.
Bê tông polyme có rất nhiều ưu điểm so với bê
tông thông thường. Trước hết, về căn bản nó có
khả năng "hạn chế" lượng khí thải CO2 đồng
thời có thể tạo ra một cơ sở hạ tầng có khả năng
sử dụng qua hàng trăm năm..
So sánh với xi măng Portland thông thường (OPC),
bê tông polyme (GPC) có nhiều tính năng tốt hơn
(khả năng chống ăn mòn hóa học, chịu nhiệt (tới
2400oF), chịu nén và có độ bền kéo, sự co ngót...).
Các tính chất của nhựa phuran
Các loại nhựa phuran nhận được trên cơ sở
rượu phurphuril, phurphurol và rượu
phurphuril hoặc phurphurol và axeton.Phụ
thuộc vào loại monome được sử dụng khi
chế tạo chúng mà phân ra nhựa
phurphurol,phuril,phurphurol- axeton
.Trong sản xuất vật liệu và cấu kiện xây
dựng trong số các nhựa phuran phổ biến
hơn cả là phurphurol axeton monome (PA)
và phuril oligome.
I, Tính chất của polime phuran
1, Phurphurol –axeton (PA)
PA ở nhiệt độ bình thường là chất
lỏng màu vàng tím có nhiệt độ sôi 160 – 200
℃,chúng không tan trong kenton, cả trong
polieste phức tạp và polieste etilelglicol.
Monome
Bảng tính chất chính của của monome PA
Tỷ trọng,kg/m3
Độ axit ( tính theo axit
sunphuaric),không lớn hơn ,%
Mức độ hòa tan trong axeton
Độ nhớt ở 20℃,không lớn hơn
,Pa.s
Độ ẩm,không lớn hơn ,%
Thời gian keo hóa trên bếp ở
nhiệt độ 170-180 ℃ với sự có
mặt của 3% benzene sunphua
axit
1090 - 1170
0,1
Hoàn toàn
0,5
2,5
30-110
Bảng các tính chất của PA -15
Độ nhớt theo Osvald 50%
dung dịch trong axeton ở
nhiệt độ 20 ℃,Pa.s
20 - 40
Nhiệt độ tạo giọt theo
Ubellod, ℃
80-120
Độ ẩm,không lớn hơn , %
10
2, Oligome - Phuril
Bảng
các tính chất của Oligome PL -20
Phần khô,không nhỏ hơn ,%
65
Tốc độ keo hóa ở 250 ℃, không lớn
hơn,s
350
Độ nhớt theo thiết kế NK-4, không lớn
hơn ,s
350
Chất đóng rắn, chất độn và
chất hóa dẻo đi với nhựa
phuran
Một số hình ảnh về chất hóa dẻo và đóng rắn
Monome PA đóng rắn trong điều kiện lạnh hoặc
khi đốt nóng với sự tham gia của chất xúc tác
axit: benzen sunphua axit( BSA), ntoluolsunphua clorit…benzen sunphua axit là
sản phẩm dạng tinh thể có khối lượng tinh thể
tương đối 158.18. Axit này hòa tan tốt trong
nước, axeton, phurphurol và rượu etyl.
Khi đóng rắn các sản phẩm ban đầu cẩu quá
trình ngưng kết hoặc các polime hòa tan độ nhớt
khác nhau chịu ảnh hưởng của các axit hoặc đốt
nóng chuyển sang trạng thái không hòa tan,
không đúc được.
Oligome PL-2 đóng rắn ở nhiệt độ 120-140 độ C
có sự tham gia của axit malein và một số chất xúc
tác axit khác. Trong điều kiện lạnh chúng đóng
rắn dưới tác động của tiếp xúc Petrov, của muối
aniline, axit sunphuaric và axit clohydic và một
số chất xúc tác khác.
Các oligome phuran không đóng rắn hòa hợp tốt
với các chất dẻo, các polyme nhiệt hóa khác
nhau, cao su tự nhiên và nhân tạo, các atfan.
Khi có mặt các axit khoáng hóa mạnh chúng biến
thành màu đen nhanh, đóng rắn và trở nên giòn
không đúc được. Các axit yếu hơn( malenin,
savel, phốt phát ) tác động chậm và oligome mềm
trong thời gian dài.
Để chúng đóng rắn trong điều kiện nhiệt độ
bình thường tốt nhất sử dụng axit benzene và
toluolsunphua; ở điều kiện này tốc độ đóng
rắn đủ lớn.
Sự đóng của các oligome phuran kéo theo sự
tăng đáng kể tỷ trọng của chúng ( từ 1100
đến 1500 kg/m3) và vì thế có độ co lớn, làm
giảm độ bám dính của chúng. Vì vậy polime
phuran được sử dụng kết hợp với các chất
độn khoáng dạng bột mịm hoặc dạng sợi,
chúng không những làm giảm độ co mà giúp
chúng làm việc được ở nhiệt độ cao.
Đã từ lâu chúng ta biết rằng điều kiện cần thiết
để tăng tác động của chất độn có độ mịn cao
khi đưa chúng vào polime là sự gần của các
tính chất phân tử của bề mặt chất độn và chất
dẻo tổng hợp.
Trong khi đó đa số các chất độn khoáng thông
thường về tính hút nước không thể hiện tính
hoạt tính của mình, thể hiện ở sự tăng các tính
chất cơ lý của chúng. Độ bền bám dính của
polime và độ bền bám dính của hệ polimechất độn phụ thuộc vào bản chất của sự tương
tác phân tử.
Một số phụ gia dạng bột phổ biến có nguồn
gốc tự nhiên như trepel, diatomit, opoki,
puzolan, bọt pemza, tù, diabaz hoặc có nguồn
gốc nhân tạo như xỉ lò cao dạng viên, tro bay,
hồ nhephelin, bột gạch samot nghiền mịn…
Các phụ gia rắn trong hỗn hợp có thể tồn tại
không những ở dạng bột khoáng không hòa
tan, còn sử dụng loại phụ gia rắn trong hỗn hợp
chúng dễ tạo thành dung dịch hoặc chất nóng
chảy. Chúng có thể là các muối không tan,
kiềm và các chất điện giải và chất không điện
giải khác.
Một số chất độn khoáng sử dụng cho bê tông
polime
Một số hình ảnh về cốt liệu sử dụng cho bê tông
polime
Sỏi sông
Gạch vỡ chịu axit
- Xem thêm -