Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xuất khẩu hàng thủy sản việt nam vào thị trường mỹ thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Xuất khẩu hàng thủy sản việt nam vào thị trường mỹ thực trạng và giải pháp

.PDF
123
224
116

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một hoạt động quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của mỗi quốc gia, nhất là với những nước đang phát triển như Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh..." và "Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ..." [17, tr. 199]. Thủy sản là mặt hàng chủ lực có lợi thế của Việt Nam, trong hơn thập kỷ qua đã thu được nhiều thành công rực rỡ. Từ mức 550,5 triệu USD xuất khẩu vào năm 1995 thì đến năm 2004 đã đạt 2,4 tỷ USD. Mỗi năm bình quân tăng trên 130 triệu USD, với tỷ lệ bình quân là 14,5% mỗi năm. Hiện nay thị trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) đã được mở rộng trên 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng thủy sản Việt Nam đã có chỗ đứng khá vững chắc trên những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản... và chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của cả nước. Thủy sản đang thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta (1994). Đặc biệt từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam Mỹ (BTA) được ký kết và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, là một bước đột phá và cơ hội lớn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, cũng như những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường Mỹ không chỉ là vấn đề cấp thiết về lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách trước mắt có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Các doanh nghiệp XKTS Việt Nam đã xác định thị trường Mỹ là một thị trường rất quan trọng, có khả năng tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm thủy sản có chất lượng và giá trị cao. Đây là một thị trường lớn và đầy tiềm năng triển vọng, nhưng còn rất mới đối với các doanh nghiệp của Việt Nam. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam tiếp tục phát triển vững mạnh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả chọn đề tài: "Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết xung quanh vấn đề này. Cụ thể như: - GS.TS Chu Văn Cấp: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. - GS.TS Võ Thanh Thu: Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. - TS. Bùi Ngọc Sơn: Một số biện pháp để thâm nhập thành công vào thị trường Mỹ, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 4, 2003. - GS.TS Hoàng Đức Thân: Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Đề tài: Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Mã số: 97-78-060 của Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại. - Nguyễn Văn Hoàn: Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ những điều cần biết, Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam, số 2/2003. - Dự án STAR Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương: Đánh giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về mặt lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Từ đó thấy được những thành công và hạn chế, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian tới có hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ đặc điểm thị trường Mỹ và những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ. - Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Là đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị, do đó luận văn chú ý tới các vấn đề chung có tính chất định hướng ở tầm vĩ mô. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời điểm từ 1994 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tế, cùng với phương pháp hệ thống, điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những thông tin trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả trước. 6. Những đóng góp của luận văn Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản, các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy sản. Đề xuất được những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn về hoạt động xuất khẩu thủy sản 1.1. vai trò và nội dung của Hoạt Động Xuất Khẩu Thủy Sản 1.1.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu thủy sản 1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm xuất khẩu thủy sản * Khái niệm xuất khẩu thủy sản ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, người ta lại có định nghĩa khác nhau về xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau: Xuất khẩu là việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là mua bán trao đổi hàng hóa. Khi sản xuất hàng hóa phát triển và trao đổi giữa các quốc gia mở rộng đã mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia thì hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của một quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp, sản xuất ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa thủy sản để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Các sản phẩm hàng hóa đa dạng do ngành thủy sản sản xuất ra bao gồm như: cá các loại, tôm các loại, nhuyễn thể các loại và các thủy hải sản đặc biệt khác [19, tr. 198]. Ngành thủy sản gồm hai bộ phận sản xuất chủ yếu là: ngành nuôi trồng và ngành công nghiệp thủy sản. Ngoài ra, để phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn có các hoạt động sản xuất phụ trợ và phục vụ khác. Cơ cấu ngành thủy sản có thể được minh họa như sau: Ngành thủy sản Ngành nuôi trồng thủy sản Ngành công nghiệp thủy sản - Nuôi thủy sản Các ngành phụ trợ và phục vụ nước ngọt - Đóng sửa tàu thuyền - Nuôi thủy sản - Sản xuất dụng cụ đánh bắt nước lợ - Dịch vụ vận chuyển, cảng, kho - Nuôi trồng hải lạnh sản - Sản xuất nước đá, thức ăn cho nuôi trồng - Sản xuất giống Ngành khai thác - Đánh bắt hải sản - Khai thác các sản phẩm nuôi trồng Xuất khẩu Ngành chế biến - Đông lạnh - Đồ hộp - Hàng khô, xông khói, Nội địa Hình 1.1: Mô hình cơ cấu ngành thủy sản Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: Xuất khẩu thủy sản là việc bán những sản phẩm thủy sản trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước. Xuất khẩu thủy sản là một ngành sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào nguyên liệu từ khai thác và nuôi trồng thủy sản trong nước. * Bản chất của xuất khẩu thủy sản Thực chất của xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ là sự trao đổi lao động kết tinh giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hóa. Trong đó, những nước đang phát triển xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình sang thị trường các nước phát triển nhằm phát huy tối ưu lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc gia mình trong trao đổi và buôn bán quốc tế. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ cũng vậy. Hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ được kết tinh bởi lao động hao phí của những ngư dân và lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu của Việt Nam. Do đó, trong trao đổi ngang giá, cả Việt Nam và Mỹ đều thu được lợi. Việt Nam đã nhận được ngoại tệ mạnh để có thể mua máy móc, thiết bị và kỹ thuật hiện đại nhằm thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH, phát triển đất nước. Người tiêu dùng Mỹ được mua hàng thủy sản giá rẻ, chất lượng cao. Chính vì vậy mà D. Ricardo cho rằng, xuất khẩu đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia và làm tăng sản xuất, tiêu dùng quốc tế. * Các hình thức xuất khẩu thủy sản Có nhiều hình thức xuất khẩu thủy sản, nhưng có hai hình thức xuất khẩu chủ yếu là: Xuất khẩu trực tiếp: Là việc các nhà sản xuất kinh doanh bán hàng thủy sản trực tiếp cho người mua hàng không thông qua trung gian. Xuất khẩu gián tiếp: Là xuất khẩu hàng thủy sản thông qua trung gian thương mại. Ngoài ra còn có các hình thức XKTS khác: - Hoạt động tái xuất khẩu: Là hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản đã nhập về trong nước thông qua chế biến (sơ chế và tái chế). - Xuất khẩu hàng đổi hàng: Là một phương thức xuất khẩu mà trong đó người XKTS đồng thời là người nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký hợp đồng, thanh quyết toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung. - Xuất khẩu tại chỗ: Là hoạt động cung cấp hàng thủy sản cho đối tượng là người nước ngoài đang ở nước sở tại như các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế… Trong trường hợp này hàng thủy sản có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm được chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. * Đặc điểm của xuất khẩu thủy sản Thứ nhất, thủy sản là loại hàng hóa mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết ngư trường nên XKTS cũng mang tính thời vụ. Đối tượng của XKTS là cá và sinh vật sống dưới nước. Vì vậy để đảm bảo cho nguồn nguyên liệu cung cấp đều đặn, liên tục cho XKTS đòi hỏi phải tăng khai thác hải sản song song với việc bảo vệ nguồn lợi, tiến hành nuôi trồng và phát triển các giống loài để phục vụ cho việc xuất khẩu lâu dài. Công việc này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, trình độ công nghệ và nỗ lực của con người. Cũng do đối tượng là các sinh vật sống dưới nước, trữ lượng khó xác định một cách chính xác, đồng thời các sinh vật có thể di chuyển tự do; bên cạnh đó là các điều kiện khí hậu, thời tiết, dòng chảy, địa hình, thủy văn... tạo nên tính mùa vụ phức tạp cả về không gian và thời gian nên việc XKTS cũng mang tính thời vụ. Ngày nay, nhờ phát triển nuôi trồng thủy sản nên các doanh nghiệp trong ngành thủy sản đã hạn chế được tính mùa vụ từ nguyên liệu khai thác. Bên cạnh đó, sản phẩm thủy sản lại có tính chất mau hư hỏng và ươn thối, sản phẩm thủy sản khi đưa ra thị trường đã phải trải qua quá trình từ tươi sống, đông lạnh, rã đông và đem bán như thủy sản tươi tại quầy. Việc cấp đông đặc biệt quan trọng để ngăn ngừa sự ươn hỏng vì tốc độ ươn hỏng ở thủy sản cao hơn hai lần so với các loại Protein khác như thịt gà, thịt bò hay thịt lợn. Chính điều này làm cho giá trị thủy sản giảm rất nhanh, thậm chí trong vài giờ nếu nhiệt độ tăng lên trên 0oC. Để khắc phục điều này đòi hỏi các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu (TSXK) phải có hệ thống kho lạnh trữ lạnh nguyên liệu lâu dài đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu của thị trường nước ngoài. Thứ hai, XKTS là ngành đòi hỏi có tính hỗn hợp, tính liên ngành cao. XKTS bao gồm nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo một chuỗi mắt xích từ khâu: khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng, thậm chí còn lồng ghép vào nhau. Với điều kiện như vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra còn ít, chất lượng thấp và chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động trên được chuyên môn hóa ngày càng cao và có tính độc lập tương đối. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm TSXK, tính liên kết vốn có của các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thủy sản lại đòi hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hóa hẹp nói trên trong một tổng thể thống nhất, ở trình độ cao hơn mang tính liên ngành. Như vậy, để tạo ra một sản phẩm TSXK có chất lượng cao đòi hỏi phải có tính liên ngành, tính hỗn hợp cao của các hoạt động sản xuất vật chất tương đối khác gồm nuôi trồng, khai thác, chế biến TSXK là đặc điểm của ngành XKTS. Ngoài những đặc điểm chung như trình bày trên, XKTS Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: Một là, thủy vực và nguồn lợi thủy sản Việt Nam đa dạng và khá phong phú. Nếu không kể tiềm năng mặt nước và nguồn lợi thủy sản nội địa, ta còn có tiềm năng về biển cho phát triển thủy sản. Biển Đông của Việt Nam có diện tích 3.447 ngàn km2, độ sâu trung bình 1.140 m và bờ biển dài trên 3.260 km, khá dồi dào về nguồn lợi sinh vật biển...[19, tr. 21]. Với tiềm năng mặt nước lớn và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam hoàn toàn có thể phát huy lợi thế của mình trong việc XKTS, nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường nước ngoài và đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao. Hai là, XKTS Việt Nam đang ở trình độ thấp, có mặt còn lạc hậu, đang trong quá trình đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế. Việc phát triển nuôi trồng thủy sản vẫn thiếu ổn định do còn nhiều hạn chế về giống và thủy lợi, chưa thực hiện tốt chương trình quản lý chất lượng theo hệ thống phân tích mối nguy hiểm và các điểm kiểm soát tới hạn (HACCP) và quản lý dư lượng một số chất độc hại (kiểm soát dư lượng và tiêu chuẩn vùng nuôi), đến ngày 5/01/2004, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIGAVED) mới chính thức được ra mắt và đi vào hoạt động. Về khai thác nguồn lợi thủy sản biển đến nay vẫn chậm đổi mới công nghệ, công cụ và phương thức khai thác lạc hậu so với một số nước trong khu vực; chưa có sự gắn kết chặt chẽ khai thác với bảo quản chế biến. Trình độ chế biến xuất khẩu còn lạc hậu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên năng lực cạnh tranh của hàng TSXK Việt Nam rất yếu. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. XKTS Việt Nam đang có nhiều thách thức nhưng cũng đang có nhiều cơ hội, điều đó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều nỗ lực, có phương pháp và bước đi thích hợp vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát triển. 1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với phát triển kinh tế - xã hội Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế nước ta. Những năm gần đây, thủy sản luôn là mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trong số các mặt hàng xuất khẩu, sau dầu thô và dệt may. Có thể nói, ngành thủy sản với xuất khẩu là động lực chủ yếu đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và phát triển các lĩnh vực khác trong ngành thủy sản như khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần. Có thể cụ thể hóa một số vai trò của XKTS như sau: Một là, XKTS tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ CNH, HĐH đất nước. Để tiến hành quá trình CNH, HĐH cần phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Các nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, hoạt động thu từ hoạt động du lịch... Trong đó nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Đối với những nước có tiềm năng về thủy vực và nguồn lợi thủy sản thì việc phát triển ngành thủy sản sẽ tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị và tăng thu ngoại tệ cho đất nước thực hiện quá trình CNH, HĐH. Trong những năm gần đây, XKTS đã đóng góp không nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội. Vai trò đó thể hiện rất cụ thể ở giá trị xuất khẩu của ngành ngày càng tăng (xem phụ lục 1). Hai là, XKTS góp phần phát huy lợi thế so sánh của đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế thủy sản phát triển. Nước ta có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ưu đãi, thuận lợi cho quá trình khai thác, nuôi trồng thủy sản. Tiềm năng, nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển và vùng nước nội địa Việt Nam rất phong phú, có nhiều loài có giá trị kinh tế cao phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, cần cù và thông minh, khéo léo. XKTS đã phát huy được lợi thế so sánh đó, tăng thu nhập ngoại tệ, góp phần giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Trong hơn hai thập kỷ qua, XKTS đã đóng vai trò "đòn bẩy" mở đường thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành kinh tế thủy sản từ khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến cho đến dịch vụ hậu cần nghề cá. Có thể nói rằng, XKTS không phát triển thì các lĩnh vực khác trong ngành thủy sản không thể phát triển. Chính sự lớn mạnh của XKTS đã tạo đầu ra sự phát triển không ngừng của công nghiệp khai thác và nuôi trồng thủy sản (xem phụ lục 2). XKTS đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong khai thác và nuôi trồng thủy sản theo hướng có giá trị xuất khẩu cao đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu đòi hỏi. Chính vì vậy, trong những năm qua ngành khai thác đã chú ý phát triển những mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, mực... còn trong nuôi trồng có: tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá tra, cá ba sa, cá song, cá giò, nhuyễn thể… Thực hiện các Quyết định 393/TTg, Quyết định 159/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc đầu tư đóng tàu khai thác xa bờ đã được phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng sản phẩm chế biến xuất khẩu từ nguồn nguyên liệu khai thác xa bờ tăng lên hàng năm. Góp phần chuyển dịch được một bộ phận ngư dân từ làm ăn cá thể sang làm ăn có tổ chức như các tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã. Năm 2003 đã thành lập mới được 527 hợp tác xã, tổ khai thác hải sản xa bờ với hơn 19.000 lao động trực tiếp trên biển. Ba là, XKTS đóng góp vào việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. XKTS đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất của toàn ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH đặc biệt là khu vực chế biến thủy sản. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản đã đi đầu trong số các ngành kinh tế trong công cuộc đổi mới và hội nhập khu vực và quốc tế với một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối cao. Sự ra đời hàng loạt nhà máy chế biến thế hệ mới bên cạnh các nhà máy được nâng cấp với quy mô lớn, công nghệ hiện đại đã góp phần đưa công nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam lên thứ hạng cao trên thế giới. Bên cạnh đó đã có hoạt động nghiên cứu, chế tạo các thiết bị và đã thành công ở các cơ sở Searefico, Năm Dũng, Hà Yên... như: thiết bị cấp đông IQF, gia nhiệt, mạ băng, thiết bị đóng gói... đã đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghiệp. Thêm vào đó, dù các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) là những yêu cầu rất cao đối với sản xuất nhưng nhiều nhà máy đã kịp thời nâng cấp, đổi mới, tiếp cận được trình độ của các nước tiên tiến đặc biệt là việc áp dụng HACCP. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản thì phương pháp nuôi công nghiệp đã được hình thành ở nhiều địa phương trên khắp cả nước. Có nhiều khu nuôi công nghiệp tập trung có diện tích trên 500 ha với những thiết bị hiện đại được trang bị cho nghề nuôi, sử dụng thức ăn công nghiệp. Hoạt động nuôi trồng được kiểm soát chặt chẽ, tuân thủ theo các quy định quốc tế như Quy phạm thực hành tốt (GAP  Good Aquaculture Practise). Trong lĩnh vực khai thác, ngư dân đã sử dụng các phương tiện đánh bắt hiện đại như phương tiện thông tin liên lạc, thiết bị tầm ngư, máy định vị… Đặc biệt, đội tàu khai thác hải sản xa bờ đã được trang bị các thiết bị hiện đại để có thể khai thác hiệu quả và dài ngày trên biển. Đến nay đã hình thành đội tàu khai thác hải sản xa bờ trên 6.000 chiếc, trong số đó dân tự đầu tư đóng trên 4.000 chiếc. Cùng với sự hiện đại hóa của ngành thủy sản, đội ngũ những người lao động nghề cá cũng trưởng thành nhanh chóng, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý các doanh nghiệp. Bốn là, XKTS có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Sự phát triển của XKTS kéo theo sự phát triển kinh tế thủy sản đã tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động từ sản xuất nguyên liệu đến dịch vụ cho sản xuất thủy sản, chế biến thủy sản. Hiện nay, theo thống kê của Bộ Thủy sản cho thấy, tổng số lao động trong ngành thủy sản hiện nay có khoảng gần 4 triệu người [12, tr. 7]. Nhìn chung, đời sống của người ngư dân ổn định và ngày càng được cải thiện. Công tác xóa đói giảm nghèo và bộ mặt nông thôn ven biển ngày càng đổi mới. Năm là, XKTS là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Phát triển của ngành thủy sản nói chung, của XKTS nói riêng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho quan hệ thương mại quốc tế. Nếu năm 1996, quan hệ thương mại quốc tế của ngành thủy sản mới chỉ dừng ở con số 30 nước thì đến năm 2001, hàng thủy sản Việt Nam đã có bán tại 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2004 con số này đã là 80 nước và vùng lãnh thổ. Quan hệ thương mại thủy sản được mở rộng tại Mỹ và các nước EU là một đóng góp đáng kể của ngành thủy sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế của nền kinh tế nước ta. Quan hệ thương mại thủy sản được mở rộng đã dẫn đến các quan hệ với nhiều ký kết song phương và đa phương với các nước Đan Mạch, Nhật Bản. Nga, Mỹ, Hàn Quốc với các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP, ADB, WB... Các ký kết này đã phát huy hiệu quả to lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của ngành thủy sản nói riêng của cả nước nói chung. Cũng trên cơ sở này, tạo điều kiện cho Việt Nam hiểu đầy đủ hơn về pháp luật và thông lệ quốc tế giúp cho nền kinh tế Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới. 1.1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu thủy sản Hoạt động XKTS cũng như hoạt động xuất khẩu những hàng hóa khác phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, từ việc nghiên cứu thị trường, lập và triển khai thực hiện phương án kinh doanh đề ra, thực hiện hợp đồng ký kết đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức thận trọng, linh hoạt. 1.1.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thủy sản Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện mà thương trường thủy sản quốc tế có những biến động hàng ngày và sự biến động đó ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động XKTS thì công tác nghiên cứu thị trường XKTS phải được xem như một khâu quan trọng nhất và được thực hiện ngay từ đầu. Nếu như hoạt động này được tiến hành tốt thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại mặt hàng thủy sản thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường. Thông thường việc nghiên cứu thị trường XKTS cần tập trung làm rõ những vấn đề căn bản sau:  Thị trường XKTS nào có triển vọng đối với hàng thủy sản Việt Nam.  Khả năng tiêu thụ những sản phẩm TSXK của thị trường đó.  Thị trường đó đang cần những mặt hàng TSXK nào.  Tình hình cung cấp thủy sản cho thị trường đó của các nước xuất khẩu.  Hệ thống luật pháp và các quy định bắt buộc khi đưa hàng TSXK vào thị trường đó.  Hệ thống phân phối tiêu thụ TSXK trên thị trường đó như thế nào. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính là: nghiên cứu tại văn phòng và nghiên cứu tại hiện trường. Kết quả của việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu sẽ là cơ sở giúp các doanh nghiệp xây dựng phương án xuất khẩu và lựa chọn phương thức giao dịch hiệu quả. 1.1.2.2. Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường XKTS, các doanh nghiệp lập phương án kinh doanh cho mình, phương án này là kế hoạch hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm: - Lựa chọn nguồn hàng TSXK: Muốn tạo được nguồn hàng thủy sản ổn định, các doanh nghiệp XKTS phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc tiếp cận thị trường. Việc nghiên cứu nguồn hàng TSXK nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc điểm riêng của từng loại mặt hàng thủy sản. Ngoài ra, việc nghiên cứu nguồn hàng TSXK còn nhằm xác định mặt hàng thủy sản dự định xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường xuất khẩu về ATVSTP hoặc theo các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp XKTS hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước họ. - Lựa chọn phương thức kinh doanh: Phổ biến và sử dụng nhiều nhất vẫn là phương thức kinh doanh trực tiếp không qua trung gian. Tuy nhiên, cần căn cứ vào đặc điểm thị trường và khả năng của doanh nghiệp để lựa chọn phương thức kinh doanh cho phù hợp. - Lựa chọn khách hàng: Việc chọn đối tác đúng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro, phiền toái trong hoạt động kinh doanh. Do vậy, bạn hàng cần phải quen biết, có uy tín trong kinh doanh, có thực lực tài chính và giữ chữ tín trong quan hệ làm ăn. 1.1.2.3. Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu thủy sản Trong đàm phán để ký kết hợp đồng XKTS, các bên tham gia phải tiến hành một loạt các công việc liên quan như: tổ chức đàm phán, soạn thảo hợp đồng kinh tế, chuẩn bị thực hiện hợp đồng; hai bên cần tiến hành đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp, hoặc thông qua điện thoại, Internet... Kết quả của đàm phán, các bên đi đến ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng XKTS phải đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc gia của hai nước và luật pháp quốc tế. Những điều khoản trong hợp đồng XKTS phải rõ ràng chặt chẽ như: Tên hàng (Commodity), Điều kiện phẩm chất (Quality), Điều kiện về số lượng (Quatity), Điều khoản giao hàng (Shipment/Delivery), Điều khoản giá cả (Price), Điều khoản thanh toán (settement payment), Điều khoản bao bì, ký mã hiệu (Packaging, marking), Điều khoản bảo hành (warranty), Bảo hiểm (Insurance), phạt bồi thường thiệt hại (Penalty)... Đồng thời trong hợp đồng XKTS phải xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên. 1.1.2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu thủy sản Việc thực hiện hợp đồng XKTS là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hợp đồng kinh doanh XKTS, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất cứ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hóa… dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Do đó, tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo nhằm nâng cao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1.2. Đặc điểm thị trường Mỹ và những nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 1.2.1. Một số đặc điểm về thị trường Mỹ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tiếng Anh là: United states of America - US) thường gọi là Hoa Kỳ hay Mỹ có diện tích 9.269.000 km2 với số dân 290 triệu người (năm 2003). Thu nhập bình quân đầu người là 36.300USD. Hiện nay, Mỹ được ví như là một thị trường "không đáy", một thị trường xuất khẩu khổng lồ của tất cả các nước trên thế giới. Để có thể thâm nhập thành công vào một thị trường như vậy trước hết cần phải tìm hiểu môi trường kinh doanh cũng như hệ thống pháp luật của Mỹ để từ đó có những cách thức tiếp cận phù hợp. Dưới đây là những đặc điểm nổi bật của thị trường Mỹ: 1.2.1.1. Đặc điểm về kinh tế Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay: Một là, về quy mô kinh tế. Hiện nay, dù không còn chiếm ưu thế tuyệt đối trên lĩnh vực mậu dịch và tiền tệ quốc tế, thậm chí còn ở vào tình trạng phải cạnh tranh gay gắt với các nền kinh tế khác, Mỹ vẫn giữ địa vị cường quốc số một về kinh tế và quân sự. Năm 2000, GDP của Nhật bằng 32% GDP của Mỹ, Đức bằng 19,4%, Pháp bằng 14,6% và Anh bằng 13,7%. Mỹ là nước có thu nhập quốc dân lớn nhất. Năm 2002 GDP của Mỹ là 10.450 tỷ USD chiếm trên 21% tổng thu nhập quốc dân toàn cầu [45, tr. 98]. Hai là, về tốc độ tăng trưởng. Từ thập kỷ 90 trở lại đây, Mỹ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó tốc độ của các nước G7 là 2,6%. Song từ năm 2000 trở lại đây tốc độ tăng GDP thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn so với mức bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể mức tăng năm 2000 là 5%; năm 2001 do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 nên tốc độ tăng chỉ còn 0,5%; năm 2002 là 2,2% và năm 2003 là 3,1%; năm 2004 khoảng 4 - 4,5% [45, tr. 98]. Ba là, về cơ cấu kinh tế. Mỹ hiện nay có tới 80% GDP được tạo ra từ ngành dịch vụ; công nghiệp chỉ chiếm 18% và nông nghiệp chỉ đóng góp 2%. Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng... Các sản phẩm nông nghiệp chính của Mỹ bao gồm: lúa mì, ngô, bông, thịt bò, gia cầm, lâm sản, cá, các loại ngũ cốc khác... [42, tr. 26]. Có thể nói, hiện nay nền kinh tế Mỹ phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức nhưng xét một cách tổng thể, thì địa vị số một về kinh tế của Mỹ đã tồn tại suốt trong nhiều thập kỷ qua và sẽ còn tiếp tục được duy trì trong thập kỷ tới. 1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị Mỹ là một Nhà nước được tổ chức theo chế độ cộng hòa dân chủ tư sản Tổng thống. Dựa theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập", quyền lực chính trị được thực thi theo nguyên tắc phân quyền và đối trọng qua ba cơ quan độc lập. Hiến pháp Mỹ quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao. Mỹ áp dụng chế độ đa đảng, mặc dù là chế độ đa đảng nhưng đảng cầm quyền ở Mỹ là Đảng Dân chủ (biểu tượng là con Lừa) và Đảng Cộng hòa (biểu tượng là con Voi). Vì vậy, đôi khi còn gọi là chế độ song đảng. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai đảng này là một đảng nắm chính quyền, còn đảng kia là đảng đối lập. Dù đảng cầm quyền là Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa, mục tiêu của họ đều phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản Mỹ và đều phấn đấu để đưa Mỹ trở thành cường quốc số một trên thế giới về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự. Một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Mỹ mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải chú ý là hoạt động vận động hành lang (Lobby). ở Mỹ, Lobby được coi là hoạt động hợp pháp và họ có cả một đạo luật về vấn đề này "Lobby Dislosure Act" năm 1995. Lobby là phương tiện dành cho mọi tổ chức chính trị - xã hội để làm rõ quan điểm và quyền lợi chính trị, kinh tế của mình đối với chính quyền và dư luận. Hầu hết các hiệp hội kinh doanh và các công ty lớn của Mỹ đều có đại diện của mình ở Thủ đô Washington DC và ở thủ phủ các bang mà họ có hoạt động kinh doanh để tiến hành các hoạt động hành lang đối với Quốc hội và chính quyền liên bang và bang. Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các công ty Mỹ đặc biệt quan tâm đến các vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Mỹ và các nước, họ thường xuyên vận động và thậm chí gây sức ép với Quốc hội và chính quyền liên bang để đảm bảo kết quả của các cuộc đàm phán thương mại quốc tế có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, vụ kiện cá tra, cá basa Việt Nam bán phá giá tại thị trường Mỹ thì CFA (Hiệp hội chủ trại cá nheo Hoa Kỳ) đã sử dụng Lobby để đạt được mục đích của mình. 1.2.1.3. Đặc điểm về pháp luật Hệ thống pháp luật của Mỹ thuộc loại đồ sộ và phức tạp nhất trên thế giới. Ngoài hệ thống luật liên bang, mỗi bang hay khu hành chính đều có hệ thống pháp luật riêng và nhiều khi lại rất khác. Mặc dù là cường quốc số một trên thế giới nhưng Mỹ vẫn sử dụng pháp luật như là một công cụ vũ khí sắc bén để bảo vệ duy trì và củng cố chế độ chính trị cũng như vị thế của Mỹ trên thế giới. Vì vậy, pháp luật thương mại của Mỹ thể hiện rất rõ nét yếu tố chính trị trong nội dung cũng như trong tên gọi của văn bản pháp luật. Luật thương mại của Mỹ rất nhiều và phức tạp. Hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ thể hiện một cách rõ ràng nhất ở chính sách nhập khẩu của Mỹ. Nằm trong tổng thể chính sách đối ngoại của Mỹ, chính sách nhập khẩu của Mỹ hoàn toàn phù hợp với chiến lược khuếch trương tự do hóa kinh tế và phục vụ cho lợi ích của quốc gia. Tuy nhiên, đứng ở góc độ của một nước có quan hệ thương mại với Mỹ thì có thể thấy được tính chất hai mặt của chính sách nhập khẩu. Một mặt nó mang "tính mở" về mặt tiếp cận thị trường do Mỹ muốn ép các nước khác mở thị trường cho hàng hóa Mỹ, mặt khác nó mang "tính đóng" đối với một số nước và một số khu vực do Mỹ lợi dụng triệt để công cụ tiếp cận thị trường nhằm phục vụ các lợi ích phi kinh tế và các lợi ích kinh tế khác của họ. Mọi thay đổi trong chính sách nhập khẩu của Mỹ đều thể hiện tính nhất quán với xu hướng trên. Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với các nước đang phát triển cũng được xây dựng trên nền tảng chung đó và chia làm bốn nhóm nước mà mỗi nhóm có những quy định khác nhau. Nhóm 1: Gồm những nước đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhóm 2: Gồm những nước chưa là thành viên WTO nhưng đã có hiệp định thương mại song biên với Mỹ. Điều lưu ý ở nhóm này là với từng hoàn cảnh, tính vững chắc của quy chế thương mại phụ thuộc nhiều vào biến động quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước (Việt Nam thuộc nhóm này). Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam vẫn nằm chung khuôn khổ chung của sân chơi quốc tế. Theo quy định trong BTA, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN) mà nay còn gọi là quy chế thương mại bình thường (NTR), tương đương với các nước đã là thành viên WTO về mặt thương mại. Chỉ có điểm khác là chế độ NTR phải xem xét lại hàng năm vào ngày 7-3, theo kết quả xét miễn áp dụng điều khoản Jackson - Vanik. Nhóm 3: Gồm những nước có quyền lợi đối nghịch với Mỹ, bị hạn chế gần như hoàn toàn trong quan hệ thương mại với Mỹ. Nhóm 4: Gồm những nước được hưởng những ưu đãi đặc biệt của Mỹ. Ngoài ra, để phục vụ lợi ích và tiêu dùng của mình, Mỹ thực thi chính sách nhập khẩu khá nghiêm ngặt xét về khía cạnh các tiêu chuẩn kỹ thuật và ATVSTP. Rào cản kinh tế của Mỹ được đánh giá là phức tạp nhất trong các rào cản kinh tế của các nước phát triển. Đối với hàng thủy sản phải chịu sự kiểm tra của Cơ quan Ngư nghiệp quốc gia thuộc Cục quản lý đại dương và môi trường và phải đạt tiêu chuẩn HACCP. Đây là một hệ thống quản lý chất lượng mang tính phòng ngừa (Preventice) nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm (Food quality) thông qua việc phân tích mối nguy hiểm và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. 1.2.1.4. Đặc điểm về văn hóa và con người Là một nước có diện tích đứng thứ ba trên thế giới với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác trên thế giới, Mỹ là một xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan