BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGUYÊN NGỌC DIỆP
NGUYỄN NGUYÊN NGỌC DIỆP
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI CÁC HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC HÀNH
NGHỀ LUẬT SƯ – TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
KHÓA 30
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI CÁC HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC HÀNH
NGHỀ LUẬT SƯ – TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380102
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts Phan Nhật Thanh
Học viên: Nguyễn Nguyên Ngọc Diệp
Lớp: Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Khóa: 30
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Bằng sự khiêm tốn, trung thực của mình, tôi xin cam đoan rằng: Luận văn
Thạc sĩ Luật học với đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư – Từ thực tiễn tại Thành phố
Hồ Chí Minh” là kết quả của quá trình tự nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng
dẫn khoa học của Pgs.Ts Phan Nhật Thanh. Luận văn có kế thừa, trích dẫn một số
luận điểm khoa học đối với các vấn đề nghiên cứu của một số tác giả và được dẫn
nguồn theo đúng quy định. Các thông tin, số liệu xử phạt dùng để đánh giá, phân
tích, chứng minh được tác giả thu thập từ các cơ quan có thẩm quyền đều rõ ràng,
khách quan, trung thực./.
Tác giả
Nguyễn Nguyên Ngọc Diệp
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG
8
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các vi phạm hành chính cụ thể liên quan đến hành vi vi
phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
8
1.1.1. Khái niệm hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
8
1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
17
1.1.3. Nhận diện các vi phạm hành chính cụ thể liên quan đến hoạt động tổ chức
hành nghề luật sư
1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
21
31
31
1.2.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
32
1.2.3. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
33
1.3. Các nội dung chủ yếu của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư.
35
1.3.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
1.3.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy
định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư.
1.3.3. Hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
1.3.4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về
hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
1.3.5. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
35
40
43
44
48
50
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN
2.1. Tình hình vi phạm hành chính về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và nguyên nhân
2.1.1. Tình hình vi phạm hành chính về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.2. Nguyên nhân của vi phạm hành chính về hoạt động tổ chức hành nghề
luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
52
52
52
55
2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
57
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
59
phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.2.2. Thực trạng về hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức 61
hành nghề luật sư
2.2.3. Thực trạng về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
63
phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.2.4. Thực trạng về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
64
phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.3. Đánh giá thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn Thành phố HCM
2.3.1. Những mặt tích cực và nguyên nhân
2.3.2. Những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân
2.3.2.1. Các đánh giá chung
2.3.2.2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.3.2.3. Về hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề
luật sư
2.3.2.4. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy
định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
65
65
66
66
69
72
80
2.3.2.5. Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy
định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.3.2.6. Một số hành vi diễn ra phổ biến nhưng chưa được quy định là hành vi
vi phạm hành chính hoặc khó xác định hành vi vi phạm hành chính
2.4. Giải pháp hoàn thiện xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1 Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1.1 Giải pháp về quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1.2 Giải pháp về quy định hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả
trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ
chức hành nghề luật sư
2.4.1.3 Giải pháp về quy định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1.4 Giải pháp về quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1.5 Nghiên cứu bổ sung một số hành vi diễn ra phổ biến trên thực tế nhưng
chưa được quy định là hành vi vi phạm hành chính; bổ sung hoặc xem xét nghĩa vụ
thực hiện của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài để thống nhất với quy định xử
phạt
82
83
88
88
88
88
90
91
92
2.4.2 Giải pháp hoàn thiện áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối
93
với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
2.4.2.1 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của tổ chức hành
93
nghề luật sư
2.4.2.2 Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện xử phạt vi
94
phạm hành chính về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
2.4.2.3 Hoàn thiện Hệ thống quản lý quốc gia về lĩnh vực luật sư
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
KẾT LUẬN CHUNG
95
97
98
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
Viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung
Luật Luật sư
năm 2012
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Xử lý vi phạm hành
sửa đổi, bổ sung năm 2020
chính
Tổ chức hành nghề luật sư
TCHNLS
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
1
2
Số hiệu
Tên bảng
bảng
Bảng so
sánh
Bảng I
Loại hình doanh nghiệp nói chung và tổ chức
hành nghề luật sư
Số liệu xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2017 đến năm
2020
3
4
Bảng II
Số liệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí từ ngày 11/11/2013 đến ngày 30/7/2017
Bảng III
Số liệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí từ ngày 01/9/2020 đến ngày 01/4/2022
Số liệu xử phạt vi phạm hành chính của Thanh
5
6
Bảng IV
Bảng V
tra Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động của tổ
chức hành nghề luật sư
Bảng so sánh số liệu xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động
của tổ chức hành nghề luật sư và các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực do Sở Tư pháp quản lý của
Thanh tra Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh
Trang
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các
nguyên tắc về bảo vệ quyền con người, về bình đẳng, công bằng trong hoạt động tư
pháp cần được tôn trọng và có cơ chế vững chắc để bảo đảm thực hiện. Nhằm đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực,
hiệu quả, hiệu lực của hoạt động tư pháp, Nhà nước ta đã từng bước thể chế hóa các
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp nói chung, về chế định luật sư nói riêng
trong các văn bản pháp luật. Chế định luật sư đã từng bước phát triển và ngày càng
khẳng định vị thế, tầm quan trọng của lĩnh vực luật sư trong đời sống xã hội, bắt
đầu từ công cuộc đổi mới với việc ban hành các Pháp lệnh về luật sư và gần đây
nhất là Luật Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 22 tháng 6 năm 2006, bắt
đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, sửa đổi, bổ sung năm
2012. Từ đó, Luật Luật sư đã góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của luật sư; tạo
cơ sở pháp lý thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư, góp
phần nâng cao hình ảnh của đội ngũ luật sư trong xã hội, nâng cao vai trò của tổ
chức hành nghề luật sư.
Bên cạnh đó, từ khi Luật Luật sư ra đời, Nhà nước đã có những kế hoạch
nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Theo đó,
ngày 05/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 và Quyết định số
123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ
hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020”. Như vậy, có thể thấy rằng,
chế định luật sư đang ngày càng nhận được sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước cũng
như sự kỳ vọng của xã hội.
Về phát triển tổ chức hành nghề luật sư, số lượng tổ chức hành nghề luật sư
tăng từ 2.928 năm 2011 lên hơn 4.400 tổ chức năm 2020, trong đó tại Thành phố Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 2/3 số luật sư trên cả nước (Thành phố Hà
Nội có 4.752 luật sư và Thành phố Hồ Chí Minh có 6.489 luật sư, còn lại các địa
phương khác là 4.893 luật sư)1. Với số lượng luật sư ngày càng tăng và việc thành
Báo Lao động, “Cả nước có hơn 16.000 luật sư, 4.000 tổ chức hành nghề luật sư,
[https://amp.laodong.vn/phap-luat/ca-nuoc-co-hon-16000-luat-su-4000-to-chuc-hanh-nghe-luat-su987234.ldo]
1
2
lập, phát triển thêm nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã tạo điều kiện cho cá nhân, tổ
chức thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với dịch vụ của luật sư, nhất là tại 02 trung
tâm kinh tế lớn của cả nước là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Công
tác quản trị, điều hành của các tổ chức hành nghề luật sư tiếp tục được hoàn thiện
theo hướng chuyên nghiệp với việc đầu tư nghiêm túc cho hoạt động hành nghề; tập
trung vào các lĩnh vực chuyên sâu. Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu phát
huy được thế mạnh, xây dựng được thương hiệu của mình, cũng như tạo được sự tín
nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế, trở thành “đối tác”
cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, được các tạp chí uy tín
trong khu vực xếp hạng và số lượng đang ngày một gia tăng với nhiều gương mặt
mới2. Các tổ chức hành nghề luật sư này cũng là nơi tập hợp đông đảo đội ngũ luật
sư giỏi, thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, tập quán thương mại quốc tế, có
khả năng giúp Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức giải quyết các vụ việc phức tạp
liên quan hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư Việt
Nam trong lĩnh vực này. Bên cạnh hoạt động của luật sư trong nước, hoạt động của
tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam đã có những đóng góp tích cực
trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam3, giúp các luật sư Việt Nam có thêm cơ hội tiếp cận, nâng cao kiến thức và kỹ
năng hành nghề tư vấn pháp luật đầu tư thương mại quốc tế4.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển nhanh chóng về tổ chức hành nghề luật sư
như trên, mặc dù các chế định về luật sư đã cố gắng từng bước hoàn thiện để kịp
thời sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhưng thực trạng áp
dụng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc mà vẫn chưa được giải quyết kịp
thời, gây ra các ảnh hưởng xấu đến hoạt động luật sư nói chung, đến các bên sử
dụng dịch vụ nói riêng. Bởi lẽ, do tính chất đặc thù của ngành nghề mà việc vi
Bộ Tư pháp, Báo cáo số 05/BC - BTP ngày 08/01/2021, Kết quả thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư
đến năm 2020 và Đề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020:
Các tạp chí Tạp chí IFLR, Legal 500, Asian Mena Counsel đã xếp hạng công ty luật có uy tín trong lĩnh vực đầu
tư, kinh doanh, thương mại: Công ty luật TNHH Quốc Tế Việt Nam (Vilaf - Hồng Đức), Công ty luật TNHH
YKVN, Văn phòng luật sư Phạm và Liên danh, Công ty luật TNHH Leadco... đã được một số tạp chí có uy tín của
nước ngoài (Tạp chí IFLR tại Châu Á, Tạp chí Legal 500, Tạp chí Asian Mena Counsel) vinh danh.
3
Bộ Tư pháp, Báo cáo số 05/BC - BTP ngày 08/01/2021: Việc thành lập thêm nhiều tổ chức hành nghề luật sư
Hàn Quốc, Nhật Bản đã kéo theo sự gia tăng đầu tư nước ngoài từ hai quốc gia này, cụ thể Hàn Quốc: từ 05 tổ
chức năm 2014 lên 16 tổ chức năm 2020; Nhật Bản: 01 tổ chức năm 2010 lên 11 tổ chức năm 2020.
4
Bộ Tư pháp, Báo cáo số 05/BC - BTP ngày 08/01/2021: Các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài đã tiếp nhận
và đào tạo hàng trăm người tập sự hành nghề luật sư; tham gia đóng góp ý kiến, giảng dạy các lớp bồi dưỡng kiến
thức hội nhập kinh tế quốc tế cho luật sư Việt Nam.
2
3
phạm đối với các hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư có thể gây ra những hậu
quả nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Trong những năm vừa qua, xử phạt vi phạm hành chính là một trong những
chế định quan trọng của pháp luật nhằm góp phần điều chỉnh hoạt động của tổ chức
hành nghề luật sư. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng
được mục đích răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy khi phát hiện các hành vi vi phạm quy định về
hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, một số cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
còn nhiều lúng túng khi áp dụng các quy định của pháp luật để xử phạt trong khi ý
thức chấp hành pháp luật của bộ phận tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong các hoạt động có liên quan đến luật sư còn chưa cao. Điều này có thể thấy rõ
nhất là tại 02 địa phương có đội ngũ luật sư, số lượng tổ chức hành nghề luật sư lớn
là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư – Từ thực tiễn tại Thành
phố Hồ Chí Minh” là vấn đề cần thiết, cấp bách nhằm góp phần đề ra những giải
pháp về hoàn thiện quy định pháp luật cũng như tăng cường các biện pháp tổ chức
thực hiện nhằm xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm quy định về hoạt
động tổ chức hành nghề luật sư.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính
trong từng lĩnh vực cụ thể. Đối với lĩnh vực luật sư, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh chưa có bài viết nào nghiên cứu về các hành vi vi phạm quy định
về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư. Qua tham khảo, tại Trường có một số bài
nghiên cứu về lĩnh vực luật sư như sau:
- Bùi Đăng Vương, Xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề
luật sư, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
2013.
- Cao Thị Ngọc Hà, Bàn về quyền thu thập chứng cứ của luật sư trong tố
tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, 2015.
4
- Nguyễn Phương Thảo, Bồi thường chi phí luật sư trong tranh chấp về hành
vi xâm phạm quyền tác giả, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, 2019
- Phạm Hồng Du, Chi phí thuê luật sư trong bồi thường thiệt hại theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, 2021.
Nếu xét riêng về đối tượng nghiên cứu là tổ chức hành nghề luật sư, tác giả
nhận thấy có các bài nghiên cứu sau:
- Đỗ Hà Hồng, Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2010
- Phan Thanh Tùng, Thanh tra chuyên ngành tư pháp đối với các tổ chức
hành nghề luật sư, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2016
- Nguyễn Văn Bốn, Hình thức tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam thực
trạng và một số đề xuất, kiến nghị, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, 2017.
- Trần Văn Công, Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề luật
sư theo Luật luật sư, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, 2019.
Tuy không có điều kiện tiếp cận toàn bộ nội dung các bài viết nêu trên nhưng
nếu tóm gọn nội dung thể hiện qua tên đề tài có thể nhận thấy, các bài viết chỉ đề
cập đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực luật sư, vai trò luật sư trong các hoạt động
tố tụng, xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động hành nghề luật sư, không
chuyên sâu nghiên cứu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy
định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, tác giả nhận thấy một số
bài biết nghiên cứu nêu trên cách đây đã lâu (thời điểm Nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực luật sư năm 20205 chưa có hiệu lực). Do vậy, tác
giả thấy rằng với việc áp dụng Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Luật sư và
Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực luật sư năm 2020, đề tài
Luận văn “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã
5
5
động tổ chức hành nghề luật sư – Từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ đảm
bảo được tính mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài hướng đến việc hoàn thiện lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối
với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư; hoàn thiện các quy
định pháp luật về hành vi, hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với các vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư, bảo đảm sát thực tế; là tiền
đề, cơ sở giúp các nhà quản lý, người làm công tác thực tiễn có thêm nguồn tài liệu
khoa học để nâng cao, phát triển tiếp những vấn đề còn hạn chế của đề tài, góp phần
hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính nói chung, công tác xử phạt vi
phạm hành chính về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư nói riêng, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu chung đã nêu trên, các mục tiêu cụ thể của luận văn
được xác định cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ, bổ sung các vấn đề lý luận còn khiếm khuyết
trong xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức
hành nghề luật sư so với lý luận về xử phạt vi phạm hành chính nói chung;
- So sánh, phân tích, đánh giá, làm rõ các quy định pháp luật về xử phạt vi
phạm hành đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư hiện
hành và trước đó, thực tiễn xử phạt ở một số địa phương nhằm thấy được tính hợp
lý và chưa hợp lý ở các khung phạt cũng như hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp
khắc phục hậu quả; những hành vi không còn được xem là vi phạm hành chính,
hành vi mới phát sinh;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành
nghề luật sư, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn xử phạt vi phạm hành
chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
6
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật hiến
pháp và luật hành chính, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật và
thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định về hoạt
động tổ chức hành nghề luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, luận văn sẽ
nghiên cứu các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020), Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp;
hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã và thực tiễn trong công tác của chính tác giả tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như:
- Phương pháp phân tích: toàn bộ nội dung hoàn chỉnh của đề tài (luận đề)
được chia nhỏ thành các mục gọi là luận điểm, trong các mục có thể có một hoặc
các luận điểm nhỏ hơn. Mỗi luận điểm thường thể hiện hoàn chỉnh dưới dạng một
đoạn văn. Mục đích chia nhỏ để làm sáng tỏ từng vấn đề, nhằm nghiên cứu toàn
diện các khía cạnh của vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sử dụng để nghiên cứu các văn bản, tài
liệu có liên quan đến nội dung đề tài nhằm phát hiện ra những vấn đề chưa được
nghiên cứu hay những vấn đề còn hạn chế, bất cập cần phải tiếp tục nghiên cứu
hoàn thiện.
- Phương pháp khảo sát thực tế: sử dụng để điều tra, khảo sát thực trạng vi
phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề
luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh và các đúc kết trong quá trình công tác.
- Phương pháp so sánh: đây là quá trình nhận thức dựa trên các suy luận về
những điểm tương đồng và khác biệt của đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở
những thông số về lượng và về chất. Phương pháp này áp dụng để so sánh các quy
định pháp luật, cụ thể về hành vi, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả
giữa các văn bản đang có hiệu lực và các văn bản trước đó đã bị thay thế đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: sử dụng để thống kê, phân tích các số
liệu có liên quan trong quá trình khảo sát thực tiễn.
7
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu có giá trị cho những cá
nhân muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về xử phạt vi phạm hành chính đối với các
hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư. Quá trình nghiên cứu, tác
giả sẽ phân tích và làm rõ trong đề tài những vấn đề pháp lý và thực tiễn xử phạt vi
phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật
sư. Bên cạnh đó, tác giả sẽ đưa ra những bất cập, nguyên nhân cũng như đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả xử phạt vi
phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động tổ chức hành nghề luật
sư. Do đó, nội dung của đề tài còn là một cơ sở dữ liệu có giá trị tham khảo, góp
phần phổ biến kiến thức pháp lý cho sinh viên, học viên, nhà nghiên cứu cũng như
những người làm công tác thực tiễn về lĩnh vực này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có hai chương, gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư.
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh và giải pháp hoàn thiện.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các vi phạm hành chính cụ thể liên quan đến
hành vi vi phạm quy định về hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm hoạt động tổ chức hành nghề luật sư
Sự phát triển của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư luôn gắn liền với sự
hình thành, phát triển của hệ thống chính trị nói chung và pháp luật nói riêng, là cầu
nối giữa chính quyền Nhà nước và Nhân dân. Do vậy, luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu trong đời sống xã hội. Tại các nước
phương Tây, hoạt động luật sư đã xuất hiện sớm trong phương thức tố tụng, bắt
nguồn từ nền pháp chế La Mã cổ. Tuy nhiên, tại các nước Châu Á nói chung và
Việt Nam nói riêng, do ảnh hưởng bởi lịch sử, chế độ chính trị, tư tưởng lập pháp
mà hoạt động luật sư ở nước ta xuất hiện khá muộn và được đưa vào hệ thống pháp
luật tại nước ta từ khi bị thực dân Pháp xâm lược6. Trải qua thời gian dài với những
chuyển biến lịch sử, nền chính trị và sự thay đổi cơ cấu của các cơ quan tư pháp,
chế định luật sư chính thức được ghi nhận tại nước ta theo các văn bản quy phạm
pháp luật lần lượt như sau: Pháp lệnh Tổ chức luật sư được Hội đồng Nhà nước7
thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1987; Pháp lệnh Luật sư được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 7 năm 2001 và đến nay Luật Luật sư được Quốc
hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 20128). Qua đó cho
thấy, hiện nay chế định luật sư tại Việt Nam đang dần hoàn thiện và ngày càng phát
triển để bắt kịp với xu thế của xã hội; xây dựng được hành lang pháp lý vững chắc
để hoạt động nghề nghiệp luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ngày càng đi vào nề
nếp, hoạt động ổn định và tạo dựng được niềm tin trong xã hội.
Để phân tích hoạt động tổ chức hành nghề luật sư, chúng ta cần hiểu khái niệm
luật sư, bởi lẽ luật sư và tổ chức hành nghề luật sư là hai khái niệm có mối quan hệ
mật thiết, tạo tiền đề cho nhau. Có thể nói luật sư là một bộ phận quan trọng để hình
Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, “Tổ chức hoạt động luật sư ở Việt Nam quá trình hình thành và phát
triển”,[https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/70TuPhapVietNam/Pages/tu-lieu-nganh.aspx?ItemID=27]
7
Nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội
8
Được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20
tháng 11 năm 2012
6
9
thành và thành lập một tổ chức hành nghề luật sư, còn tổ chức hành nghề luật sư là
tổ chức kinh tế tập hợp các luật sư hành nghề để cung cấp dịch vụ pháp lý. Do vậy,
để hiểu rõ hơn khái niệm tổ chức hành nghề luật sư (sau đây gọi tắt là TCHNLS) và
các hoạt động của tổ chức, trước hết chúng ta cần hiểu rõ khái niệm và vai trò của
luật sư.
Dựa trên quy định pháp luật và thực tiễn hành nghề luật sư ở các nước trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khái niệm luật sư còn mang tính định lượng
hơn là một khái niệm mang tính hàn lâm khoa học. Điều đó có nghĩa là đến nay,
khái niệm luật sư hầu hết không đi vào hướng phân tích nội hàm của “luật sư” mà
đưa ra các tiêu chuẩn, điều kiện, lĩnh vực hoạt động để phân tích khái niệm luật sư.
Do vậy, khái niệm luật sư có thể hiểu theo các khía cạnh khác nhau. Theo đó, Pháp
lệnh đầu tiên9 về chế định luật sư đã không đưa ra định nghĩa luật sư, mà chỉ quy
định điều kiện để trở thành luật sư10. Tiếp đến Pháp lệnh luật sư năm 2001, khái
niệm luật sư lần đầu tiên đã được quy định trong văn luật11 và đến nay, khái niệm
luật sư được quy định hoàn chỉnh tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006, được sửa đổi,
bổ sung tại Luật Luật sư năm 2012 (sau đây gọi tắt là Luật Luật sư) như sau:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau
đây gọi chung là khách hàng)”
Theo Điều 10 Luật Luật sư quy định tiêu chuẩn luật sư: “Công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự
hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật
sư.”
Theo Điều 11 Luật Luật sư quy định điều kiện hành nghề luật sư: “Người có
đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải
có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.”
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu chỉ được gọi một người là luật sư khi
người đó đảm bảo các điều kiện bao gồm: (i) được cấp Chứng chỉ hành nghề luật
sư, (ii) được cấp Thẻ luật sư và (iii) thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Từ
đó, có thể diễn giải khái niệm luật sư tại Việt Nam như sau:
Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987
Điều 11 Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987
11
Điều 1 Pháp lệnh luật sư năm 2001
9
10
10
Luật sư là người có quốc tịch Việt Nam, có bằng cử nhân luật, có chứng nhận
đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo, trải qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, đạt kết quả của Kỳ kiểm tra hết tập sự hoặc được giảm, miễn đào tạo và
miễn tập sự theo quy định của pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, đã gia nhập một Đoàn Luật sư, được cấp Thẻ
Luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng trong tổ chức hành nghề luật
sư hoặc với tư cách cá nhân12
Tuy nhiên, ngoài việc quy định về luật sư, các văn bản quy phạm pháp luật về
chế định luật sư không quy định cụ thể về khái niệm TCHNLS mà chỉ quy định gián
tiếp thông qua việc hành nghề luật sư trong TCHNLS; đồng thời quy định hình thức
và các điều kiện để thành lập, hoạt động TCHNLS.
Theo Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, Hội đồng Nhà nước Việt Nam
chưa đặt ra khái niệm cũng như đề cập đến việc luật sư được hành nghề bằng hình
thức nào như hành nghề cá nhân hay hành nghề trong tổ chức hành nghề, việc thành
lập tổ chức hành nghề, loại hình tổ chức,… Do vậy, tại Pháp lệnh Tổ chức luật sư
năm 1987 chưa xuất hiện khái niệm tổ chức hành nghề luật sư mà chỉ quy định
chung như sau:
Điều 1: “Tổ chức luật sư ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là các
Đoàn luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị
hành chính tương đương để giúp công dân và các tổ chức về mặt pháp lý”;
Điều 7: “Đoàn luật sư là tổ chức nghề nghiệp của các luật sư. Khi có từ hai
người trở lên có đủ điều kiện làm luật sư quy định ở Điều 11 của Pháp lệnh này đề
nghị và được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc
đơn vị hành chính tương đương giới thiệu, Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định
cho phép thành lập Đoàn luật sư, sau khi đã thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư
pháp.
Căn cứ vào quyết định của Ủy ban nhân dân, những người có đề nghị nói ở
đoạn 1 của Điều này tổ chức hội nghị thành lập Đoàn luật sư. Hội nghị thông qua
Điều lệ và bầu ra các cơ quan của Đoàn theo Quy chế Đoàn luật sư.”
Điều 12: “Người mới được gia nhập Đoàn luật sư phải qua một thời gian tập
sự từ 6 tháng đến 2 năm và một kỳ kiểm tra mới được công nhận là luật sư…”
12
Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư, Học viện tư pháp, Nxb. Tư pháp, 2016, tr53
11
Như vậy, có thể thấy Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 không đặt ra yêu
cầu, quy định về hình thức hành nghề của các luật sư mà chỉ quy định Luật sư được
hành nghề sau khi tham gia thành lập Đoàn luật sư của tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Sau khi Đoàn Luật sư được thành lập, các luật sư mới chỉ cần gia nhập
Đoàn luật sư, trải qua tập sự và kỳ kiểm tra tập sự thì có thể được hành nghề luật sư.
Cũng theo pháp lệnh này, tổ chức luật sư (hay TCHNLS) là khái niệm gần như
đồng nhất với Đoàn luật sư, do vậy có thể nói giai đoạn này chưa có một hình thái
rõ ràng về tổ chức kinh tế hành nghề luật sư.
Tương tự như khái niệm luật sư, khi Pháp lệnh Luật sư năm 2001 được ban
hành, lần đầu tiên vấn đề “hình thức tổ chức hành nghề luật sư” chính thức được
đặt ra và điều chỉnh bởi văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Pháp lệnh này đã
quy định có hai hình thức TCHNLS là Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp
danh13. So với Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 có
sự thay đổi tiến bộ hơn khi đã ràng buộc về hình thức hoạt động của Luật sư, quy
định cụ thể điều kiện thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh. Từ đó, có
thể thấy người đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện của luật sư, gia nhập một Đoàn luật sư
tại thời điểm này chưa đủ điều kiện để hành nghề luật sư mà phải thành lập, tham
gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc ký hợp đồng lao động
với Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh mới được hành nghề theo quy định.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là đã có sự tách bạch giữa “Tổ chức luật
sư” (thuật ngữ được sử dụng tại Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987) và “Đoàn
luật sư”, cụ thể quy định Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các luật
sư14, đồng thời, đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư15 để tránh
nhầm lẫn, chồng chéo với công tác quản lý Nhà nước về luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Vì vậy, tại thời điểm này có thể khẳng định TCHNLS chỉ bao gồm
Văn phòng luật sư và Công ty luật Hợp danh, còn Đoàn luật sư không phải
TCHNLS.
Đến nay, Luật Luật sư vừa kế thừa, vừa mở rộng đối tượng của TCHNLS để
phù hợp với nhu cầu và thực tế hoạt động trong lĩnh vực luật sư, cụ thể so với Pháp
lệnh luật sư năm 2001, công ty luật đã được bổ sung thêm hai loại hình là công ty
Điều 3 Pháp lệnh Luật sư năm 2001
Khoản 1 Điều 32 Pháp lệnh Luật sư năm 2001
15
Điều 33 Pháp lệnh Luật sư năm 2001
13
14
12
trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên16. Các loại hình này ngoài việc bị điều chỉnh bởi Luật Luật sư thì vẫn là
một loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi pháp luật về doanh nghiệp.
Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Doanh nghiệp là tổ
chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký
thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”
Như vậy, từ quy định theo Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp, TCHNLS có
thể được hiểu như sau: Tổ chức hành nghề luật sư là tổ chức có tư cách pháp nhân,
do một hay nhiều Luật sư đứng ra thành lập, có tên gọi, trụ sở riêng, được điều
chỉnh theo quy định của Luật Luật sư và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan, hoạt động với mục đích cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Trong đó,
TCHNLS hoạt động dưới 02 hình thức, bao gồm: Văn phòng luật sư với địa vị pháp
lý giống như loại hình doanh nghiệp tư nhân và Công ty luật gồm công ty luật hợp
danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty luật trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên. Hai loại hình hoạt động này cùng có chung lĩnh vực
hành nghề và điều kiện thành lập17. Đặc điểm cơ bản về hai loại hình hoạt động của
tổ chức hành nghề luật sư như sau:
Văn phòng luật sư là TCHNLS do một luật sư thành lập và hoạt động theo loại
hình doanh nghiệp tư nhân, Luật sư thành lập đồng thời cũng là Trưởng văn phòng
và là người đại diện theo pháp luật18. So với loại hình Công ty luật, Văn phòng luật
sư được thành lập đơn giản, quy mô gọn nhẹ nên thời gian đầu khi Luật Luật sư ra
đời19, đông đảo Luật sư đều hướng tới thành lập TCHNLS theo mô hình này. Tuy
nhiên, do đây là loại hình chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản, trong khi nghề luật sư
mang tính rủi ro cao, trách nhiệm lớn nên dần dần loại hình Văn phòng luật sư ít
được phổ biến và một số văn phòng đã chuyển đổi sang loại hình Công ty luật trách
nhiệm hữu hạn.
Đối với loại hình Công ty luật, trước hết xem xét đến loại hình Công ty luật
hợp danh. Cùng với loại hình Văn phòng luật sư, có thể nói Công ty luật hợp danh
là một trong các loại hình công ty luật xuất hiện từ sớm, bởi lẽ xét theo tư duy pháp
lý của nhà làm luật trước đây và ở góc độ khách hàng, việc cung cấp dịch vụ pháp
lý đòi hỏi sự uy tín và sự đảm bảo, vì vậy 02 loại hình này đều chịu trách nhiệm
Điều 34 Luật Luật sư
Điều 32 Luật Luật sư
18
Điều 33 Luật Luật sư
19
Ngày 29 tháng 6 năm 2006
16
17
- Xem thêm -