ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VÕ XUÂN ĐẠT
XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀNỘI-2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VÕ XUÂN ĐẠT
XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSLê Thị Thu Thủy
HÀ NỘI-2011
MỤC LỤCTrangTrang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU1
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM9
1.1.
KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTM9
1.2.SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
NHTM17
1.3.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM21
1.3.1.Xuất phát từ vai trò quan trọng của các ngân hàng trong việc duy
trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia23
1.3.2.Xuất phát từ sự chi phối lớn của Nhà nước đối với hoạt động của
ngân hàng27
1.3.3.Xuất phát từ tính rủi ro cao trong hoạt động của các NHTM28
1.3.4.Xuất phát từ tính đặc thù trong việc thanh toán các khoản nợ của
các NHTM 30
1.3.5.Xuất phát từ tính đặc thù về chủ nợ và con nợ trong hoạt động của
NHTM 32
1.4.NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 136
Chương 2:GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAMVÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
NHTM Ở VIỆT NAM37
2.1.ĐIỀU KIỆN XÁC ĐỊNH NHTM LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ
SẢN37
2.2.THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT PHÁ SẢNNHTM38
2.3.NHỮNG NGƢỜI CÓ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TRONG VIỆC
NỘP ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN39
2.4.THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM 43
2.4.1.Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản43
2.4.2.Mở thủ tục phá sản 45
2.4.3.Hội nghị chủ nợ50
2.4.4.Phục hồi hoạt động kinh doanh52
2.4.5.Thanh lý tài sản58
2.4.6.Ra quyết định tuyên bố NHTM bị phá sản64
2.5.THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM TRONG TRƢỜNG
HỢP ĐẶC BIỆT65
2.6.NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM68KẾT
LUẬN CHƢƠNG 270
Chương 3:KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
TRONG VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DƢNG, HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆTNAM71
3.1.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM71
3.1.1.Kinh nghiệm của Hòa Kỳ71
3.1.2.Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Nga75
3.1.3.Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp79
3.1.4.Kinh nghiệm của Cộng hòa Armenia81
3.2.MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU PHÁP
LUẬT CÁC NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT NHTM LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN90
3.2.1.Mô hình pháp luật điều chỉnh đối với việc giải quyết phá sản
NHTM là không giống nhau91
3.2.2.Tính chất của thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở các quốc gia là
khác nhau92
3.2.3.Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản NHTM được quy định
chặtchẽ hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác92
3.2.4.Thủ tục phục hồi NHTM lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán được tiến hành sớm; việc Tòa án mở thủ tục phá sản thường đồng
nghĩa với việc mở thủ tục thanh lý tài sản của NHTM đó93
3.2.5.Pháp luật các nước chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền khi NHTM bị phá sản94
3.2.6.Pháp luật các nước quy định vai trò can thiệp, hỗ trợ mạnh mẽ của
cơ quan quản lý hoạt động của NHTM và tổ chức BHTG vào quá trình
giải quyết phá sản các NHTM95
3.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM96
3.3.1.Phương hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM
ở Việt Nam96
3.3.1.1.Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật khi xử
lý NHTM lâm vào tình trạng phá sản98
3.3.1.2.Việc giải quyết phá sản NHTM cần được tiến hành một cách thận
trọng đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và kinh tế -xã hội
của đất nước98
3.3.1.3.Việc giải quyết phá sản NHTM cần tạo cơ chế đặc biệt bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền99
3.3.1.4.Việc xử lý phá sản NHTM cần được tiến hành một cách hiệu quả
và nhanh chóng101
3.3.2. Một số kiến nghị cụ thể 102
3.3.2.1.Về thủ tục phá sản102
3.3.2.2.Về trách nhiệm thông báo TCTD lâm vào tình trạng phá sản 106
3.3.2.3.Về những người có quyền và nghĩa vụ trong việc nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản 108
3.3.2.4.Về hoạt động kinh doanh của TCTD sau khi có quyết định mở
thủ tục phá sản110
3.3.2.5Sửa đổi quy đinh về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời112
3.3.2.6. Sửa đổi bổ sung các loại tài sản của NHTM112
3.3.2.7.Cần quy định đầy đủ hơn về việc xử lý các khoản nợ của khách
hàng đối với NHTM 114
3.3.2.8.Cần hướng dẫn cụ thể về thủ tục kiểm kê tài sản của NHTM116
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3119
KẾT LUẬN120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTG:Bảo hiểm tiền gửi
FDIC:Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang
NHNN:Ngân hàng nhà nước
NHTM:Ngân hàng thương mại
TCTD:Tổ chức tín dụng
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tàiPhá sản là một hiện tượng
khách quan và tất yếu trong quy luật phát triển của nền kinh tế thị
trường, kinh tế thị trường càng phát triển thì phá sản càng phổ biến. Phá
sản vừa là hiện tượng tích cực vừa là hiện tượng tiêu cực bởi vì phá sản
là hiện tượng và xu hướng tất yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc tự
nhiên nhằm loại trừ những doanh nghiệp yếu kém, kìm hãm sự phát triển
nền kinh tế, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Mặt khác phá sản doanh
nghiệp nói chung và cácngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng kéo
theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định, đặc biệt làm cho người
lao động mất việc làm, gây ra sự mất ổn định của nền kinh tế -xã
hội....Ngành ngân hàng đang đứng trước những áp lực cạnh tranh ngày
càng lớn từ các cam kết mở cửa thị trường tài chính -ngân hàng sau khi
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Mặc dù cho đến thời điểm này Việt Nam chưa có một ngân
hàng nào phải thực hiện các thủ tục phá sản, nhưng trên thế giới đã có
một số ngân hàng lớn lâm vào tình trạng phá sản và phải áp dụng thủ tục
giải quyết phá sản đối với những ngân hàng này, cho nên trong xu thế
hội nhập với nền kinh tế thế giới, với nhiều ảnh hưởng từ các nguyên
nhân chủ quan vàkhách quan dẫn đến sự phá sản các NHTM ở Việt Nam
là một hiện tượng có thể xẩy ra trong tương lai. Trên thế giới đối với các
ngân hàng mất khả năng thanh toán, lâm vào tình trạng phá sản, pháp
luật các nước đều có những quy định riêng biệt áp dụng để giảiquyết các
ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Đối với Việt Nam, Luật Phá sản
doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01 tháng 07 năm 1994 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện
về phá sản doanh nghiệp. Tiếp đó Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15
tháng 06 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2004
thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 (sau đây gọi chung là
Luật Phá sản năm 2004) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp
dụng thủ tục phá sản đối với cácdoanh nghiệp, hợp tác xã nói chung, các
NHTM nói riêng. Sự ra đời của Luật Phá sản năm 2004 đã góp phần
quan trọng trong việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt
động xử lý nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ nợ và con nợ, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, làm cho môi trường
kinh doanh trở nên lành mạnh hơn. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị
trường các doanh nghiệp, hợp tác xã ra đời, tồn tại và hoạt động sản
xuất, kinh doanh nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, do đó vị thế
của các doanh nghiệp, hợp tác xã trong nền kinh tế cũng có sự khác
nhau. Đối với những doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh những ngành
nghề đặc thù có ảnh hưởng rất lớn tới những lĩnh vực quan trọng của đời
sống kinh tế -xã hội của đất nước như lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm...., đòi hỏi Nhà nước cần phải có những quy
định pháp luật đặc thù để xử lý các doanh nghiệp, hợp tác xã này khi
lâm vào tình trạng phá sản, chứ không thể áp dụng những quy định
chung về giải quyết phá sản các doanh nghiệp thông thường khác.
Khoản 2 Điều 2 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Chính phủ quy định
cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt
trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực
khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết
yếu”. Với quy định này, Chính phủ có thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể
hóa việc áp dụng Luật Phá sản đối với các doanh nghiệp đặc thù, trong
đó có các tổ chức tín dụng (TCTD).Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm,
lĩnh vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội của các doanh
nghiệp đó mà việc phá sản các doanh nghiệp này có những khác biệt so
với quy trình phá sản các doanh nghiệp thông thường khác. Hơn nữa, có
thực tế là mặc dù cùng thuộc nhóm các doanh nghiệp đặc biệt (an ninh,
quốc phòng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...), song do tính chất hoạt
động, lĩnh vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội mà việc phá
sản của những doanh nghiệp thuộc nhóm đặc biệt này cũng không giống
nhau. Dưới góc độ này, việc phá sản các TCTD đòi hỏi cần có quy trình
phá sản đặc biệt để bảo đảm được quyền lợi của công chúng, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Phá sản
năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày
18 tháng 01 năm 2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 03 năm
2010, quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD (sau
đây gọi chung là Nghị định số 05/2010/NĐ-CP). Sự ra đời của Nghị
định số 05/2010/NĐ-CP là một bước đột phá mới trong lĩnh vực xây
dựng pháp luật nước ta, điều này thể hiện sự nhận thức về tầm quan
trọng và những điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động của TCTD nói
chung và NHTM nói riêng phải được tính đến khi đặt vấn đề giải quyết
phá sản loại hình tổ chức này.Việc giải quyết phá sản các NHTM cần
phải có những quy định đặc thù về trình tự, thủ tục, xuất phát từ tổ chức
và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này cũng như những ảnh hưởng
của việc giải quyết phá sản loại hình doanh nghiệp này mang lại đốivới
nền kinh tế -xã hội. Do đó chúng ta cần phải có những nghiên cứu
chuyên sâu để xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật liên
quan đến việc giải quyết phá sản loại hình doanh nghiệp này là một vấn
đề hết sức cần thiết và có tính thực tiễn. Chính vì vậy, tôi quyết định
chọn đề tài“Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương mại ở Việt
Nam”làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. Về phương diện lý luận
và thực tiễn nó sẽ góp phần tốt hơn trong quá trình giải quyết những vấn
đề cấp thiết nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tàiVấn đề phá sản đang thực sự là một chủ đề
thu hút sự chú ý và nghiên cứu của nhiều luật gia và các nhà nghiên cứu
khoa học khác ở Việt Nam. Trong những năm gần đây cùng với những
áp lực đặt ra trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của một
nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế thì các
hoạt động nghiên cứu về pháp luật phá sản đã có thêm nhiều công trình
được thực hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều cấp độ khác nhau. Trong
đó, có công trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp
luật phá sản, nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh
nhất định liên quan đến pháp luật phá sản. Liên quan đến việc nghiên
cứu chủ đề này có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:Báo cáo
phúc trình Đề tài “Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích
để khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định
pháp luật có liên quan”, Dự án VIE/98-001 năm 2002; công trình nghiên
cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá
sản”năm 2004; công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt
Nam”của PGS-TS. Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản Tư pháp năm
2005.... Ngoài ra, nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau của pháp
luật phá sản có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu của một
số tác giã đã được đăng trên các tạp chí như: “Một số vấn đề về thực tiễn
phá sản doanh nghiệp”,của tác giả Trần Khắc Hoàng đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân số 6/2002; “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam
hiện nay”, của TS. Dương Đăng Huệ đăng trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 1/2003; “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị
phá sản”, của tác giả Hà Thị Thanh Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 5/2003 hay “Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh
nghiệp phá sản của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi”của tác giả
Trương Hồng Hải, đăng trên Tạp chí Luật học số1/2004;...
Đối với vấn đề nghiên cứu pháp luật về giải quyếtphá sản đối với TCTD,
có thể kể đến một số công trình như: “Định hướng xây dựng pháp luật
phá sản các TCTD”, của tác giả Nguyễn Văn Vân đăng trên Tạp chí
Khoa học pháp lý số 8/2002; “Một số vấn đề về áp dụng Luật Phá sản
năm 2004 đối với các TCTD”, của tác giả Viên Thế Giang đăng trên Tạp
chí Ngân hàng số 2/2005; Khóa luận tốt nghiệp “Áp dụng pháp luật về
phá sản doanh nghiệp đối với TCTD”của Đặng Thanh Bình, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ luật học “Những quy định
đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD”của Cao Đăng Vinh, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009.... Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu trên được thực hiện trước khi Chính phủ ban hành Nghị định
số 05/2010/NĐ-CP.Nhìn chung, chủ đề nghiên cứu về những đặc thù
trong việc giải quyết phá sản đối với TCTD nói chung và NHTM nói
riêng vẫn chưa được nhiều nhà khoa học pháp lý và những người làm
công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc.
Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quyđịnh
việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD cho đến nay vẫn chưa có
một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về văn bản pháp luật này
cũng như các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết phá sản các TCTD.
Mặc dù Nghị định 05/2010/NĐ-CP đã được Chính phủ ban hành, nhưng
nhiều vấn đề xung quanh việc giải quyết phá sản các TCTD nói chung
và NHTM nói riêng còn chưa được làm rõ, và có phương án xử lý phù
hợp. Chính vì vậy,việc tiếp tục nghiên cứu các nội dung liên quan đến
pháp luật quy định về việc giải quyết phá sản NHTM nhằm phân tích
một cách đầy đủ và toàn diện về những đặc thù trong việc giải quyết phá
sản đối với loại hình doanh nghiệp này để từ đó đưa ra những kiến nghị
nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản TCTD nói chung và
NHTM nói riêng là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài-Đối tượng
nghiên cứu:nghiên cứu những quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung và NHTM nói
riêng; ngoài ra,tác giả còn nghiên cứu những quy định của pháp luật một
số nước trên thế giới về phá sản NHTM.-Phạm vi nghiên cứu:nghiên
cứu pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam có thể nói là một chủ đề
khá rộng, có nhiều khía cạnh liên quan đến chủ đề này cần được nghiên
cứu làm sáng tỏ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác
giả không có tham vọng nghiên cứu hết tất cả các vấn đề xung quanh các
quy định pháp luật về giải quyết phá sản NHTM mà chỉ tập trung vào
việc nghiên cứu, phân tích một số nội dungchủ yếu của các quy định
pháp luật Việt Nam liên quan đến việcgiải quyết phá sản NHTM như
thẩm quyền giải quyết phá sản, những người có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản và thủ tục giải quyết phá sản NHTM...; phân tích
tổng quát các quy định pháp luật của một số nước về vấn đề giải quyết
phá sản NHTM.-Mục đích nghiên cứu:trên cơ sở đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài này tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
sau: làm rõ khái niệm phá sản NHTM; sự cần thiết phải xây dựng
pháp luật về phá sản NHTM; cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy
định pháp luật về phá sản NHTM; nội dung của pháp luật về phá sản
NHTM; nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản của các quy định
pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết phá sản NHTM như điều
kiện xác định NHTM lâm vào tình trạng phá sản, thẩm quyền giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản, những người có quyền và nghĩa vụ trong việc
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thủ tục giải quyết phá sản NHTM;
tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây dựng
pháp luật về phá sản NHTM. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ đưa ra một số
kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiệnnhững quy định đặc thù trong thủ
tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tàiLuận văn được thực hiệntrên cơ sở
quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, kết hợp với việc vận dụng chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.Các phương pháp
cụ thể được tác giả vận dụng khi thực hiện đề tài này là phương pháp
phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp luật học so
sánh. Tác giả đã dùng phương pháp so sánh để so sánh các quy định
pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới với mục đích tìm ra
những mô hình pháp lý điển hình áp dụng cho việc giải quyết NHTM
lâm vào tình trạng phá sản; bên cạnh đó tác giả còn dùng phương pháp
so sánh để so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục giải
quyết phá sản NHTM so với các quy định pháp luật về vấn đề này ở một
số nước trên thế giới. Trong Luận văn này tác giả cũng tiến hành phân
tích và tổng hợp các quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam về
phá sản cũng như các văn bản pháp luật có liên quan để đánh giá thực
trạng, rút ra những hạn chế trong các quy định của pháp luật liên quan
đến việc giải quyết NHTM lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở phân
tích, so sánh, tổng hợp tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận vănLuận văn là một công trình nghiên
cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện pháp luật về phá sản
NHTM ở Việt Nam. Về cơ bản, Luận văn này đã có những đóng góp
mới quan trọng sau:-Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng các quy định pháp luật đặc thù trong việc
giải quyết các NHTM ở Việt Nam lâm vào tình trạng phá sản;-Nghiên
cứu, phân tích sự cần thiết của việc ban hành các quy định pháp luật về
phá sản NHTM ở Việt Nam;
-Trình bày và phân tích một cách khoa học những quy phạm pháp luật
thực định liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung, NHTM nói
riêng ở Việt Nam. Thông qua việc đánh giá, phân tích này góp một cách
nhìn có tính chất khái quát, toàn diện về những điểm đã đạt được và
những hạn chế, thiếu sót cần phải sửa đổi bổ sung trong các quy định
pháp luật quy định về thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam,
trên cơ sở đó kiến nghị phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vănKết quả nghiên cứu của Luận
văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏnhững vấn đề lý luận
và thực tiễn của pháp luật về giải quyết phá sản NHTM. Những kiến
nghị đưa ra trong luận văn là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.
Ngoài ra Luận văn còn có giá trị là tư liệu tốt cho sinh viên cũng như
những người say mê nghiên cứu khoa học pháp lý tham khảo khi nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến đề tài này.
7. Kết cấu của luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo thì nội dung luận văn gồmba chương:
Chương 1:Một số vấn đề chung về xây dựng pháp luật về phá sản
NHTM.
Chương 2:Giải quyết phá sản NHTM theo quy định của pháp luật Việt
Nam và những vấn đềđặt ra đối với việc xây dựng,hoàn thiện pháp luật
về phá sản NHTM ở Việt Nam.
Chương 3:Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây
dựng pháp luật về phá sản NHTM và một số kiến nghị nhằm xây
dựng,hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.
Chƣơng 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
1.1.KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTMPhá sản không còn là một khái niệm
xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam nữa bởi hiện nay phá sản đang
ngày càng trở thành một hiện tượng phổ biến, đó là hệ quả tất yếu của
quy luật cạnh tranh, nhất là trong thời đại mới khi cả thế giới đang từng
bước hòa vào xu thế chung“khu vực hóa, toàn cầu hóa”.Danh từ phá sản
bắt nguồn từ chữ “ruin”trong tiếng La tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”.
Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của
một doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.Trong thuật ngữ tiếng Anh,
phá sản là “Bankruptcy”, trong từ điển Tiếng Việt thì “phá sản là tình
trạng tài sản chẳng còn gì, và thường là vỡ nợ, do kinh doanh thua lỗ,
thất bại”[23, trang 25]. Trong tiếng Việt, vỡ nợ, khánh tận, mất khả năng
thanh toán hay phá sản được dùng để chỉ tình trạng không trả được nợ.
Phương cách giải quyết vỡ nợ gắn liền với cách hành xử của người Việt
về may rủi, “sa cơ lỡ vận” và cùng đường không trả được nợ.Theo định
nghĩa của luật phá sản nhiều nước trên thế giới hiện nay thìphá sản là
tình trạng doanh nghiệp (pháp nhân hay thể nhân) không có khả năng
nộp thuế, không thanh toán công nợ đến hạn trong thời gian quy định.
Tuy nhiên khái niệm phá sản hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và theo
pháp luật của mỗi quốc gia khái niệm phá sản cũng được hiểu khác
nhau, chưa đi đến thống nhất được thành một khái niệm chung nhất.Ở
Việt Nam thuật ngữ phá sản xuất hiện khá sớm, ban đầu Bộ luật thương
mại Sài Gòn (1972) sử dụng thuật ngữ “khánh tận”. Như đã nói ở trên,
cụm từ này bắt nguồn từ chữ “ruin”trong tiếng La tinh, khái niệm này
dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi.Đến năm 1990 thuật
ngữ “phá sản”lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp tư
nhân và Luật Công ty: Công ty, Doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm
tổng số trị giá các tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh toán
tổng số các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng
phá sản[13, Điều 17] -[ 14, Điều 24].Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 ra đời ngày 30 tháng 12 năm 1993 quy định: “Doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”[15, Điều 2]. Khái
niệm này được hướng dẫn cụ thể tại Nghị địnhsố 189/1994/NĐ-CP ngày
23 tháng 12 năm 1994 hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993. Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 189/1994/NĐ-CP thì
doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản khi: thua lỗ trong 2 năm liên
tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương
cho người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong
3 tháng liên tiếp. Điều đó có nghĩa là tình trạng khó khăn về tài chính,
mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp không còn là tình trạng
nhất thời nữa.Sau 10 năm thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 đã thể hiện những bất cập mà vấn đề đầu tiên đó là điều kiện xác
định tình trạng phá sản của doanh nghiệp như trên là rất phức tạp, gây
nhiều khó khăn cho việc mở thủ tục phá sản. Trên thực tế cho thấy nhiều
doanh nghiệp thua lỗ trong hai năm liên tiếp, trong thời gian đó doanh
nghiệp đã phải huy động mọi khả năng về tài chính, áp dụng các biện
pháp cần thiết để phục hồi, vì vậy khi mở thủ tục giải quyết phá sản thì
tài sản của doanh nghiệp không còn gì, thậm chí còn không đủ tiền để
thanh toán các chi phí cần thiết cho thủ tục giải quyết phá sản. Với tình
trạng này, việc mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp gần
như chỉ còn là để thanh lý chứ không phải là để phục hồi doanh
nghiệp. Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 ngày 25 tháng 12 năm 2004 Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10
đã ban hành Luật Phá sản 2004 (sau đây gọi chung là Luật Phá sản năm
2004), theo Điều 3 của luật này quy định:“Doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí để xác
định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã được quy định đơn
giản hơn trước, dễ thực hiện vì không căn cứ vào thời gian thua lỗ,
nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ
tục phá sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, điều này có ý nghĩa quan
trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành
công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay thủ tục phục hồi.Cũng như các
văn bản pháp luật trước đó Luật Phá sản năm 2004 cũng không đưa ra
định nghĩa thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra khái niệm doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Chúng ta cũng thấy rằng không
phải bất cứ doanh nghiệp, hợp tác xã nào lâm vào tình trạng phá sản
cũng đều dẫn tới sự phá sản, cho dù phá sản là một hiện tượng tất yếu
của nền kinh tế thị trường, nó không phải là một đặc trưng riêng của bất
kỳ nền kinh tế nào. Tuy nhiên, không phải bao giờ và ở đâu tìnhtrạng
phá sản cũng như nhau, nhưng quy luật chung là ở đâu cạnh tranh càng
trở nên gay gắt và sâu sắc thì ở đó phá sản cũng sẽ ngày càng phổ biến
và nghiêm trọng hơn.
Nguyên nhân dẫn đến phá sản hết sức đa dạng, đó có thể là do sự yếu
kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh; là do
sự vi phạm chế độ, thể lệ quản lý; là do sự thiếu khả năng thích ứng với
những biến động trên thị trường; ngoài ra, còn có nguyên nhân khách
quan là do sự bất trắc và biến động khách quan trên thị trường cũng có
thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Phá sản
là một hiện tượng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường. Ở
những mức độ và phạm vi khác nhau, phá sản luôn kéo theo những hậu
quả kinh tế, xã hội nhất định. Phá sản gâyảnh hưởng rất nhiều mặt tới
đời sống kinh tế, xã hội mà trực tiếp là ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ
nợ và những người làm công. Hậu quả đáng lưu ý nhất gắn liền với phá
sản là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động. Chính vì vậy đây
luôn là mộttrong những vấn đề thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
về phá sản. Bằng những quy định cụ thể, pháp luật về phá sản xác định
cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế những thiệt
thòi vật chất mà sự phá sản có thể gây ra cho người laođộng.Phá sản
ngoài những tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế -xã hội thì nó còn có
những ý nghĩa tích cực. Xét về mặt kinh tế, bản thân nó là một giải pháp
rất hữu hiệu trong việc“cơ cấu lại”nền kinh tế, góp phần hình thành và
duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều
kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Chính vì vậy chúng ta cũng không
nên có thành kiến coi phá sản như là một “thảm họa”, một hiện tượng
chỉ thuần túy đưa lại những hậu quả tiêu cực, những xáo trộn trong đời
sống kinh tế -xã hội mà hãy coi đó là cơ hội để cho các doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả rút ra khỏi thương trường một cách có trật tự.Như
vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của nền kinh tế thị
trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước
vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai
thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước
có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, từ đó đảm bảo được sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, xã
hội.Pháp luật phá sản một số nước trên thế giới có đối tượng điều chỉnh
tương đối rộng, theo đó bất kỳ pháp nhân hay thể nhân nếu lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Phá sản. Nhưng ở Việt Nam Luật Phá sản năm 2004 đối tượng thuộc
phạm vi điều chỉnh chỉ là các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, nếunhững
đối tượng nàylâm vào tình trạng phá sản. Đối với các doanh nghiệp đặc
biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã
hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các
lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích thiết yếu thìviệc áp dụng thủ tục phá sản do Chính phủ quy định cụ
thể. Sỡ dĩ Luật Phá sản năm 2004 quy định như vậy vì đây là những lĩnh
vực đặc thù, các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực này
có ảnh hưởng rất lớn tới nhiều nghành, nhiều lĩnh vực khác và đặc biệt
nó có thể gây ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển kinh tế -xã hội của
đất nước. Thực hiện quy định trên của Luật Phá sản năm 2004 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 07 năm
2006 để hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc
biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản; tiếp đến
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 11
năm 2008, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khoán và tài chính khác; cho đến thời điểm này Chính phủ đã ban hành
được Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Phá sản
đối với các TCTD.Cũng như Luật Phá sản năm 2004, Nghị định số
05/2010/NĐ-CP không đưa ra khái niệm thế nào là phá sản TCTD mà
chỉ quy định về điều kiện để xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản
theo đó thì: “TCTD không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi Ngân hàng nhà nước(NHNN)Việt Nam
đã có văn bản không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục
hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì
được coi là lâm vào tình trạng phá sản”[6, Điều4]. Cho đến nay tác giả
cũng chưa thấy một văn bản pháp luật hay một công trình nghiên cứu
nào ở Việt Nam đưa ra khái niệm phá sản NHTM nói chung và TCTD
nói riêng. Việc xây dựng khái niệm phá sản NHTM như thế nào là một
vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Theo chúng tôi khái niệm phá sản
NHTM là một khái niệm không thể đồng nhất với khái niệm phá sản các
doanh nghiệp thông thường khác vì NHTM có những đặc thù riêng trong
tổ chức và hoạt động của mình. Sự không đồng nhất giữa khái niệm phá
sản doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng thể hiện ở chỗ: -Thứ
nhất:Đối với các NHTMhiệu quả kinh doanh không hoàn toàn là yếu tố
duy nhất quyết định tình trạng khả năng thanh toán của nó. Không loại
trừ những ngân hàng lớn hoạt động có lãi liên tục qua các năm cũng có
thể bị lâm vào tình trạng tạm thời mất khả năng thanh toán và có thể dẫn
đến phá sản. Không thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể có nhiều
lý do, ví dụ: Thua lỗ, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ quốc
tế, khu vực hoặc đơn giản có khi chỉ là những tin đồn nhảm làm cho
người gửi tiền nao núng bất an và họ đồng loạt đến rút tiềnmàngân hàng
- Xem thêm -