Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ...

Tài liệu Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ

.PDF
110
8
94

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN THÁI VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN THÁI VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải Hà nội - 2014 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Thái 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ 1.1. MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 6 Khái niệm và mục đích hình phạt tử hình 6 1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình 6 1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình 10 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển luật hình sự Việt Nam về hình phạt tử hình 11 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 12 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009 17 Thực trạng về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay và xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình 20 1.3.1. Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 20 1.3.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 27 1.3.3. Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình 28 1.2. 1.3. 4 Chương 2: CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC 34 TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM 2.1. Cơ sở quyền con người và nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự 34 2.1.1. Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam 34 2.1.2. Vấn đề quyền con người 37 2.1.3. Vấn đề oan sai khi áp dụng - thi hành hình phạt tử hình 41 Các cơ sở phòng ngừa tội phạm 48 2.2.1. Mục đích của hình phạt tử hình 48 2.2.2. Những nét đặc thù của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ 54 2.2.3. Hệ thống hình phạt đang áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ 60 2.2.4. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm ngoài hình phạt 61 2.2. Cơ sở trách nhiệm nhà nước - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam 62 2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với quản lý xã hội và người phạm tội 62 2.3.2. Xu hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam về loại bỏ hình phạt tử hình 64 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT 67 2.3. TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ 3.1. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự 3.1.1. Hình phạt chính 67 67 5 3.1.2. Hình phạt bổ sung 3.2. 71 Kiến nghị về hoạt động áp dụng hình phạt tử hình 77 3.2.1. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, có thể áp dụng nhưng không tiến hành thi hành án 78 3.2.2. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, nhưng không áp dụng 80 3.2.3. Loại bỏ quy định hình phạt tử hình theo lộ trình đối với từng tội danh và nhóm tội 80 3.3. Một số kiến nghị khác 83 3.3.1. Kiến nghị về hoạt động phòng ngừa tội phạm - trách nhiệm của xã hội; phòng ngừa tội phạm từ góc nhìn tôn giáo và nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân 83 3.3.2. Kiến nghị về hoạt động kiểm tra, kiểm soát, luân chuyển trong hoạt động công tác 89 3.3.3. Kiến nghị về hoạt động thay thế hình phạt cùng khung hình phạt qua quyết định của Hội đồng xét xử 91 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự PLHS : Pháp luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Tên bảng Trang Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình 27 Số hiệu bảng 1.1 trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ 1.2 Thống kế án tử hình tại một số nước trên thế giới từ năm 32 2007 đến năm 2012 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009 31 biểu đồ 1.1 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam trong những năm qua và dự báo trong thời gian tiếp theo, ngày 02/06/2005 Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nêu rõ định hướng chính sách hình sự của chúng ta: duy trì hình phạt tử hình nhưng "hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [16]. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và xu hướng giảm dần tới mức tối đa áp dụng hình phạt tử hình, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình là xu hướng chung thế giới. Trước những quan tâm của quốc tế và thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, ngày 19/06/2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự (BLHS) 1999, trong đó đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi chế tài của 08 tội danh đang được quy định và bổ sung 01 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 230a - Tội khủng bố). Theo đó, số tội danh còn giữ lại hình phạt tử hình trên tổng số các tội danh tại Phần các tội phạm của BLHS là 22/276 điều luật, chiếm tỷ lệ 7,97%. Ngày 12/11/2013, Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc với số phiếu tán thành cao nhất trong số 14 nước cùng được bỏ phiếu. Đáp ứng những yêu cầu của quốc tế và biến chuyển của đất nước, ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó đề cao quyền con người, quyền công dân khi chuyển từ Chương V Hiến pháp 1992 thành Chương II của Hiến pháp 2013. Theo đó, những quyền cơ bản của con người được pháp luật ghi nhận rất rõ và bảo hộ, cụ thể Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rõ: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ …" [40, Điều 19]. 9 Với những thay đổi hiến định về quyền con người, kinh tế, xã hội …, ngày 15/03/2014 Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999, tại đây các đại biểu đại diện Lãnh đạo Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân đã có các ý kiến tham luận tổng kết và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS, đặc biệt cùng có quan điểm: "Cần nghiên cứu bỏ một số tội tử hình thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước và đáp ứng tính nhân đạo chung của thế giới" [6]. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết về lý luận khoa học và tổng hợp thông tin thực tiễn nhằm bảo vệ quyền con người; thực tiễn công tác về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; truyền thống văn hóa nhân đạo của dân tộc; yêu cầu thực thi những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và yêu cầu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHS Việt Nam, tại luận văn này, tác giả đi sâu và nghiên cứu những cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ. Cụ thể, với đề tài: "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua đã có rất nhiều diễn đàn, hội thảo, công trình nghiên cứu về hình phạt tử hình, áp dụng và thi hành hình phạt tử hình. Đề tài loại bỏ hình phạt tử hình cũng đã được bàn luận, phân tích rất nhiều trong thời gian soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 như: Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2003; Hội thảo Việt Nam EU về án tử hình, Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Liên minh Châu Âu và Viện Nhân quyền Đan Mạch đồng tổ chức năm 2004; Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Phạm Văn Beo, năm 2007; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trần Thu Huyền, năm 2004; Hội thảo khoa học: 10 Vấn đề giới hạn hình phạt án tử hình trong một số tội phạm tại Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008; Tờ trình số 155/TTr-CP ngày 09/10/2008 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 gửi tới Quốc hội; Hội thảo khoa học: Nhận thức tác động của các quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức năm 2011. Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999 do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp tham gia chỉ đạo. Tuy nhiên, đa số các tài liệu này chỉ đề cập một cách khái quát, tổng kết lại những vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình và kiến nghị, đề xuất loại bỏ hình phạt tử hình đối với từng tội phạm riêng rẽ, mà chưa đưa ra được các cơ sở, căn cứ toàn diện cho việc loại bỏ hình phạt tử hình nói chung, cũng như loại bỏ tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ nói riêng. Chính vì vậy, việc chọn đề tài "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học là rất có ý nghĩa, có thể phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học, cũng như công tác thực tiễn, đáp ứng một phần yêu cầu của Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999 và tạo tiền đề lý luận cho hoạt động tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong tương lai. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, xu hướng áp dụng hình phạt tử hình của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ. Qua đó, đưa ra, phân tích tổng thể những cơ sở có tính thuyết phục nhằm "loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ". 11 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn của "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ", luận văn sẽ đi sâu làm sáng tỏ các vấn đề sau: - Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề chung về hình phạt tử hình; thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình và thực trạng áp dụng hình phạt tử hình về các tội xâm phạm trật tử quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ tại Việt Nam; Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình; - Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam; - Phân tích một số kiến nghị về pháp luật, xây dựng bộ máy Nhà nước, nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân khi loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình, thực trạng hình phạt tử hình tại Việt Nam và những cơ sở lý luận và thực tiễn để loại bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ. Những vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở khoa học pháp lý về pháp luật hình sự (PLHS), quy định của BLHS, các quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt này tại Việt Nam trong mối tương quan với xu hướng chung của các nước trên thế giới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 12 Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, suy luận lôgic v.v… 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5.1. Về mặt khoa học - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hai nhóm tội của BLHS. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm rõ thêm các quan điểm lý luận khoa học về định hướng xóa bỏ hay không xóa hình phạt tử hình trong hệ thống PLHS Việt Nam. - Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự. 5.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nhưng ý kiến hữu ích trong hoạt động lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các luật gia quan tâm đến những đề tài tương tự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt tử hình. Chương 2: Cơ sở loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị về vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình Tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là "death penalty" hay là "capital punishment". Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên "peine de mort" hay còn gọi là "peine capitale"; trong tiếng Đức nó có tên gọi là "todesstrafe". "Capital punishment" có nguồn gốc từ capitalis (tiếng Latin) trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu, là một hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu. Vì thế, hình phạt tử hình lúc khởi thủy, ở phương Tây, người ta thường dùng để chỉ hình phạt chém đầu. Còn theo Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc, "tử" ở đây được hiểu là chết, "hình" là hình phạt tội, bao gồm chữ "tỉnh" (giếng) và chữ "đao" (dao) ghép lại. Từ đó, có thể hiểu tử hình là hình phạt giết chết bằng cách thả xuống giếng hoặc chém bằng đao. Theo Từ điển tiếng Việt "tử hình" là "hình phạt phải chịu tội chết" [32]. Điều 35 BLHS 1999 quy định về hình phạt tử hình như sau: Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhằm tước bỏ mạng sống của người phạm tội. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37]. 14 Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khoa học pháp lý thì tử hình còn được hiểu là: "hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong tất cả các loại hình phạt và chỉ được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhằm tước bỏ sinh mạng của người bị kết án về tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự" [24], [9]. * Đặc điểm Từ các định nghĩa về hình phạt tử hình trên đây, chúng ta có thể hiểu hình phạt tử hình có các đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất: Là hình phạt nghiêm khắc nhất. Tử hình là hình phạt duy nhất tước đoạt trực tiếp đối với quyền được sống của người bị kết án theo Bản án có hiệu lực pháp luật. Do đó, hình phạt tử hình chỉ có tác dụng trừng trị, răn đe và phòng ngừa, mà không thể giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội bị thi hành hình phạt này. Hình phạt tử hình có vẻ như mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo - nguyên tắc xuyên suốt của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam nhưng thực chất hình phạt này vẫn đáp ứng được tính nhân đạo, thể hiện ở khía cạnh xã hội của nó, đó là tác dụng răn đe, phòng ngừa người khác phạm tội. Nhưng, đối với chính người thực hiện hành vi tội phạm thì đại đa số ý kiến vẫn cho rằng là vô nhân đạo, vi phạm quyền con người. Thứ hai: Là hình phạt được quy định trong BLHS. Giống như các hình phạt khác, tử hình là hình phạt được quy định trong BLHS - thể hiện tính hợp pháp và pháp chế của loại hình phạt này. Việc quy định này, được thể hiện rõ ở Điều 26 và Điều 35 BLHS hiện hành. Đồng thời, hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại mỗi điều luật, tương ứng với mỗi tội danh có thể áp dụng như: Điều 78, khoản 1 - Tội phản bội tổ quốc; Điều 79, khoản 1 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 80, khoản 1- Tội gián điệp v.v... Thứ ba: Là hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng. Đặc điểm này được quy định rõ ở Điều 26 BLHS 1999: "Hình phạt do Tòa án 15 quyết định" [37]. Ngoài Tòa án, không có bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào khác được phép quyết định áp dụng hình phạt tử hình với người phạm tội và chỉ khi Chủ tịch nước xem xét để ân xá cho người bị kết án tử hình theo quy định của pháp luật thì người đó mới không phải chịu hình phạt này. Thứ tư: Tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm hay khắc phục hậu quả của người phạm tội. Khi một người bị áp dụng thi hành hình phạt tử hình thì đương nhiên người này không thể tái phạm ở bất kỳ tình huống nào và bản thân họ cũng không thể tự mình khắc phục đối với những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà mình đã gây ra, mặc dù có thể họ đã rất hối hận và mong muốn khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả đối với những trường hợp này, thường được thực hiện trước khi thi hành hình phạt, thậm chí trước khi Tòa án án tuyên án và thường được thân nhân của người bị kết án thực hiện nhằm mục đích tạo tình tiết giảm nhẹ cho người thân của mình và cũng giảm bớt mặc cảm tội lỗi cho người đã thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. * Bản chất Trước hết, khi nghiên cứu hình phạt tử hình, tác giả nhận thấy hình phạt tử hình mang bản chất giai cấp sâu sắc. Từ hình là một trong những hình phạt có lịch sử phát triển lâu dài trong quá trình phát triển của xã hội có phân chia giai cấp, tồn tại, đồng hành và phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước và Pháp luật. Tử hình được sử dụng như một công cụ để đấu tranh với các loại tội phạm khác nhau nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ hệ thống chính trị của mỗi Nhà nước nhất định. Hình phạt tử hình tồn tại và phát triển khách quan cùng với Pháp luật và Nhà nước qua mỗi thời kỳ lịch sử nhằm bảo vệ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị trong xã hội. Điều này được thể hiện ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp đều có một hệ thống hình phạt tương ứng. Bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt, của hệ thống hình phạt nói chung, của từng hình phạt nói riêng do các điều kiện kinh tế, 16 chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống của hình thái kinh tế xã hội trong đó hình phạt tồn tại quyết định. Do đó, bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng được thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, vào sự thay đổi trong quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của các giai cấp thống trị. Dù hình phạt tử hình tồn tại trong xã hội nào đi nữa thì nó vẫn luôn luôn phản ánh các quan điểm của giai cấp thống trị trong xã hội đó về các biện pháp đấu tranh với tội phạm. Hình phạt tử hình bao giờ cũng xuất phát và dựa trên các quan điểm thống trị cơ bản trong xã hội. Mặt khác, hình phạt tử hình do các điều kiện xã hội, các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị và các lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định và phù hợp với các lợi ích đó. Khi nói về hình phạt, C.Mác viết: "Hình phạt không phải là cái gì khác là biện pháp tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm điều kiện tồn tại của nó, không kể đó là những điều kiện tồn tại như thế nào" [28]. Như vậy, C. Mác đã chỉ ra tính giai cấp sâu sắc của hình phạt, trong đó hình phạt tử hình là một trong những công cụ của giai cấp thống trị được dùng để đấu tranh với tội phạm. Tính giai cấp của hình phạt tử hình còn được thể hiện ở chỗ nó bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp nào, Nhà nước nào quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng vì quyền và lợi ích của giai cấp đó. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình được quy định và áp dụng là nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, dân tộc của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Khác với Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN tiến hành đấu tranh với tội phạm bằng nhiều phương thức, nhiều biện pháp khác nhau: kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức, giáo dục, pháp luật và kêu gọi rộng rãi quần chúng nhân dân cùng tham gia đầu tranh, bảo vệ trật tự của pháp luật. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp của chúng ta có nhiều điểm khác biệt với tính giai cấp của hình phạt tử hình 17 trong các xã hội bóc lột, cụ thể xã hội ta hình phạt tử hình được quy định để bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. 1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về hình phạt. Trong lịch sử nhân loại đã từng có những quan điểm, quan niệm khác nhau về bản chất, nội dung và mục đích của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng. Chúng ta có thể chia các quan niệm, quan điểm đó thành hai loại. Loại thứ nhất, coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ trả thù người phạm tội, đáp lại những hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung của người phạm tội. Loại quan điểm thứ hai coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ phòng ngừa tội phạm. Quan điểm thứ nhất, hình phạt là biện pháp được Nhà nước cho phép lấy oán trả oán, tương tự như giết người phải đền mạng, từ đó dẫn tới nỗi khiếp sợ của người phạm tội đối với sự trả thù, sự trừng trị đối với họ, khiến việc áp dụng các hình phạt cứng rắn trở lên rộng rãi như tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn dài. Điều này được thể hiện rất rõ trong lịch sử các chế độ bóc lột qua các biện pháp nhục hình man rợ như tùng xẻo, voi dày, đóng cọc vào ruột, đánh bằng trượng, tứ mã phanh thây,... Quan niệm trên đã phai dần qua các thời kỳ phát triển của xã hội và nhường chỗ cho những học thuyết tiến bộ, nhân đạo hơn, khi các quan niệm này nhìn nhận hình phạt như một trong những biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung). Quan niệm đó là thành quả của sự phát triển vật chất và sự giải phóng về tinh thần của nhân loại. Khoa học luật hình sự, PLHS nước ta đã dựa trên cơ sở vững chắc của những thành tựu đó. Đồng thời đó cũng là nền tảng tư tưởng và lý luận cho việc xây dựng quan niệm về mục đích của hình phạt, trong đó có mục đích của hình phạt tử hình. 18 Mục đích của hình phạt tử hình là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm và áp dụng hình phạt tử hình đối với cá nhân người phạm tội. Đối với Nhà nước ta, việc áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng không nhằm mục đích trừng trị là chủ yếu, mà nhằm mục đích ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng) và ngăn ngừa người khác phạm tội (phòng ngừa chung). Nếu so sánh mối tương quan giữa mục đích phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa chung của hình phạt tử hình, thì cần phải khẳng định rằng vai trò và chức năng chính của hình phạt tử hình là phòng ngừa riêng. Bởi lẽ các nguyên tắc của luật hình sự như: pháp chế XHCN, bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm cá nhân … không cho phép chúng ta lấy việc trừng trị người này là phương tiện chính để răn đe người khác, mà chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục và phổ biến rộng rãi trong xã hội về hậu quả của việc thực hiện tội phạm. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật xuất hiện là hiện tượng mang tính tất yếu khách quan với hai đặc tính: Là một phạm trù chủ quan (ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật) và nội dung của pháp luật được xác định bởi phạm trù khách quan (các điều kiện kinh tế - xã hội). Nói cách khác, pháp luật với ý nghĩa là nhân tố cơ bản của thượng tầng kiến trúc luôn chịu sự tác động bởi điều kiện kinh tế - xã hội với vai trò là các yếu tố của hạ tầng cơ sở. Điều đó lý giải tại sao trong tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam, các quy định về hình phạt tử hình mặc dù xuất hiện rất sớm, song mức độ ghi nhận chúng là không giống nhau qua các thời kỳ lịch sử, thậm chí là có sự khác nhau trên từng miền lãnh thổ trong cùng một thời kỳ lịch sử. 19 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở một trang sử mới cho lịch sử phát triển dân tộc. Tuy nhiên, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa và tiếp theo là sự nối gót của đế quốc Mỹ (năm 1954). Do đặc điểm lịch sử này, trước cuộc tổng tiến công nổi dậy Mùa xuân năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Hệ thống PLHS ở hai miền vì vậy càng có sự khác biệt. Những quy định về hình phạt tử hình không nằm ngoài sự thay đổi chung đó. * Giai đoạn 1945 - 1954 Sau tháng 8/1945, Nhà nước công nông non trẻ đã tích cực tiến hành hoạt động lập pháp hình sự, làm cơ sở để trấn áp bọn phản động, bảo vệ những thành quả của cách mạng. Song song với các quy phạm pháp luật mới được ban hành, Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Nhà nước cho phép tạm thời giữ các luật lệ cũ (gồm Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Bộ hình luật Pháp tu chính) với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa". Pháp luật hình sự trong giai đoạn này, chưa có văn bản nào chính thức quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên có thể thấy rằng hình phạt bao gồm hai loại là các hình phạt chính và các hình phạt phụ (hình phạt bổ sung). Tử hình là một hình phạt chính, áp dụng đối với tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại. Sắc lệnh số 146-SL ngày 02/03/1948 quy định xử lý nghiêm khắc những người phạm tội gián điệp, tội phản bội tổ quốc. Ngoài ra, đối với các tội phạm về bảo vệ đê điều, công trình thủy nông nếu hậu quả gây ra là thiệt hại cho nhiều tỉnh (Điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 16/11/1949); tội đầu hàng quân địch nếu người đầu hàng là một 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan