BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CAO THỊ THANH HƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380102
Người hướng dẫn khoa học : TS. Thái Thị Tuyết Dung
Học viên
: Cao Thị Thanh Hương
Lớp
: Cao học Luật, khóa 30
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp
huyện trong việc cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử (từ thực tiễn TP.
Hồ Chí Minh)” này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung và kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn đảm bảo tính trung thực. Để hoàn thành Luận văn tôi
có tham khảo, sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như các số liệu của các tác
giả, cơ quan tổ chức khác và đều tuân thủ các quy định về trích dẫn và chú thích
nguồn gốc.
Nếu không đúng với cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài
của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Người thực hiện luận văn
Cao Thị Thanh Hương
năm 2022
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
CQNN
Cơ quan nhà nước
2
CTTĐT
Cổng thông tin điện tử
3
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
4
UBND
Ủy ban nhân dân
STT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP
THÔNG TIN TRÊN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN.................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông
tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện ........................................................ 8
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử của
Ủy ban nhân dân cấp huyện .................................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử của
Ủy ban nhân dân cấp huyện ................................................................................ 18
1.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông
tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện ...................................................... 21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng
thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện ........................................... 34
1.4. Quy định pháp luật quốc tế về trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng
thông tin điện tử .................................................................................................. 39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1........................................................................................ 42
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CUNG CẤP THÔNG TIN TRÊN CỔNG
THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ..................................................................................................... 44
2.1. Thực trạng cung cấp thông tin trên công thông tin điện tử của Ủy ban
nhân dân cấp huyện (từ thực tiễn TP. HCM) ................................................... 48
2.2. Nhận xét trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử của
Ủy ban nhân dân cấp huyện ............................................................................... 59
2.3. Kiến nghị hoàn thiện về cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử
của Ủy ban nhân dân cấp huyện ........................................................................ 75
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2........................................................................................ 81
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống con người, nhu cầu thông tin là một nhu cầu rất cơ bản. Nhu
cầu đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong xã hội.
Mỗi người sử dụng thông tin lại tạo ra thông tin mới. Các thông tin đó lại được
truyền cho người khác trong quá trình thảo luận, truyền đạt mệnh lệnh, trong thư từ
và tài liệu, hoặc qua các phương tiện truyền thông khác. Thông tin được tổ chức
tuân theo một số quan hệ logic nhất định, trở thành một bộ phận của tri thức, đòi hỏi
phải được khai thác và nghiên cứu một cách hệ thống.
Trong thực tiễn pháp luật, quyền được thông tin của người dân cũng là một
đề tài đang nhận được sự quan tâm lớn. Quyền được thông tin của người dân đòi hỏi
một nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan nhà nước nắm giữ các thông tin. Đó là
nghĩa vụ cung cấp thông tin. Quyền được thông tin của người dân có thể bị hạn chế
bằng các hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin hoặc sử
dụng các rào cản kỹ thuật và pháp lý để hạn chế khả năng có được thông tin của
người dân. Vì thế, để bảo đảm quyền tìm kiếm thông tin, nhà nước cần có cơ chế
tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, và cá nhân có thể thực hiện được quyền này.
Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp nhận thông tin. Thiếu các cơ chế về nghĩa vụ cung cấp thông
tin của Cơ quan nhà nước đồng nghĩa với việc không bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin của công dân. Hậu quả của việc thiếu cơ nghĩa vụ cung cấp thông tin của Cơ
quan nhà nước là tình trạng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí
công tác dễ dàng tiếp cận thông tin, gây nên sự bất bình đẳng, bất công bằng trong
xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai và kinh doanh. Vì vậy, quyền tiếp nhận
thông tin của người dân cũng gắn liền với quyền yêu cầu nhà nước có trách nhiệm
bảo đảm rằng các loại thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải
luôn sẵn sàng cho việc tiếp cận1.
Việc cơ quan quản lý thông tin chủ động công khai thông tin ngay cả khi
không có yêu cầu tìm kiếm của người dân là một biểu hiện của nhà nước dân chủ tự
do. Một đặc điểm chung trong pháp luật của hầu hết các quốc gia là đều có quy định
các cơ quan chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định
một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và
1
Thái Thị Tuyết Dung (2014), Quyền được thông tin của công dân ở việt nam hiện nay, luận án tiến sĩ
2
thông tin các cán bộ lãnh đạo của chính phủ, nội dung của các đạo luật và quy định,
các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các đạo luật về
tiếp cận thông tin mới ban hành có xu hướng quy định rõ danh mục các loại thông
tin cần phải công bố. Việc công khai thông tin một cách chủ động và tích cực như
trên, ngoài việc bảo đảm cho công dân được chủ động tiếp cận với các thông tin cần
thiết, còn mang lại những lợi ích nhất định cho cơ quan nhà nước. Cụ thể, nó có thể
làm giảm gánh nặng hành chính khi phải trực tiếp trả lời những câu hỏi và yêu cầu
cung cấp thông tin thông dụng và có thể trực tiếp cải thiện tính hiệu quả của các cơ
quan nhà nước như nhận định của Hội đồng Liên minh Châu Âu “các tài liệu mà
công chúng có thể tiếp cận trực tiếp càng tăng lên thì số lượng các yêu cầu tiếp cận
tài liệu sẽ càng giảm đi”2. Hoặc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ trong báo cáo năm 2002 đã
nêu rõ “nhiều cơ quan chính phủ đã làm giảm đáng kể các yêu cầu cung cấp thông
tin thông qua việc đăng công khai các tài liệu mà công chúng quan tâm trên trang
tin điện tử của mình”3.
Cơ quan quản lý thông tin phải đăng tải thông tin mà được phép công khai
trên trang thông tin điện tử của cơ quan, các cơ quan chính phủ có nghĩa vụ phải
công bố các loại thông tin nhất định trên trang thông tin điện tử của mình theo định
kỳ. Những thông tin này bao gồm ít nhất: thông tin hoạt động của cơ quan đó ví dụ
như mục đích, chức năng, tổ chức, các tiêu chí hoạt động, nội quy, giới thiệu hoạt
động, báo cáo tài chính, kiểm toán...
Ở Việt Nam, trách nhiệm cung cấp thông tin trên CTTĐT đã được quy định
trong Nghị định 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin
và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc CTTĐT của cơ quan nhà
nước. Mới đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022
Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cơ quan nhà nước
trên môi trường mạng có hiệu lực từ ngày 15/08/2022. Tuy nhiên, 02 Nghị định này
vẫn có những bất cập trong việc quy định về việc cung cấp thông tin trên CTTĐT của
Ủy ban nhân dân cấp huyện chưa thực sự đầy đủ cũng như đảm bảo tính kịp thời
trong việc cung cấp thông tin trên CTTĐT. Hơn thế nữa, từ năm 2011 đến nay, có rất
nhiều pháp luật chuyên ngành bao gồm: Luật cung cấp thông tin 2016, Luật an toàn
thông tin 2015, … cũng có những quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin trên
Xem Báo cáo thường niên của Hội đồng về Thi hành Quy chế EC số 1049/2001 của Nghị viện và Hội đồng
Châu Âu ngày 30/5/2001 về Tiếp cận của công chúng đối với các tài liệu của Nghị viện, Hội đồng và Uỷ ban
Châu Âu ngày 7/3/2003.
3
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, Tóm tắt các báo cáo thường niên về Luật tự do thông tin cho năm tài chính 2002
2
3
CTTĐT của CQNN. Do đó, Nghị định 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về
trách nhiệm cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử
hoặc CTTĐT của cơ quan nhà nước có những quy định bất cập và lỗi thời, tác giả
muốn phân tích sâu hơn đối với các hạn chế này trong đề tài đồng thời đưa ra các
kiến nghị để hoàn thiện nội dung Nghị định. Nghị định 42/2022/NĐ-CP ngày
24/6/2022 Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cơ quan
nhà nước trên môi trường mạng được ban hành mới đây đã có nhiều điểm mới cũng
như khắc phục được nhiều bất cập từ Nghị định 43/2011/NĐ-CP. Trong phạm vi đề
tài này, học viên giới hạn phạm vi nghiên cứu là trách nhiệm cung cấp thông tin của
Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương tại địa bàn TP.HCM.
Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn vấn đề “Trách nhiệm của Ủy
ban nhân dân cấp huyện trong việc cung cấp thông tin trên Cổng thông tin
điện tử (từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh)” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin trên
CTTĐT nói chung và cung cấp thông tin trên CTTĐT của UBND cấp huyện nói
chung vẫn còn chưa được nghiên cứu sâu và toàn diện. Đã có một số công trình
nghiên cứu có đề cập đến trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước nói
chung một cách gián tiếp như:
Năm 2009, tác giả Mai Thị Kim Huế có bài viết với nhan đề “Phạm vi chủ
thể có trách nhiệm cung cấp thông tin” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số
Số 17(154)/2009, Văn phòng Quốc Hội. Bài viết tập trung vào phân tích quy định của
một số nước về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin. Trên cơ sở phân tích kinh
nghiệm của các nước trên thế giới, tác giả kiến nghị bổ sung quy định về chủ thể có
trách nhiệm cung cấp thông tin. Tuy nhiên, dù trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
đã được quy định, nhưng còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng và chưa có tính ràng buộc
trách nhiệm cao. Điều này dẫn đến tình trạng là chỉ một số cơ quan có trách nhiệm
công khai thông tin và những thông tin được công khai cũng chỉ giới hạn trong phạm
vi những thông tin theo các quy định của văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.
Do vậy, tác giả cho rằng quy định về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin phải
giải quyết được hai vấn đề: thông tin do chủ thể nào nắm giữ phải được công khai (tất
cả các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, Toà
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân như đã đề nghị ở trên); cơ quan nào có trách
4
nhiệm trực tiếp thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin. Những đóng góp của tác
giả trong vấn đề này đã góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện và bổ sung quy định
về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin.
Năm 2014, tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung có luận án tiến sĩ với nhan đề
“Quyền được thông tin của công dân ở việt nam hiện nay”, là một công trình
nghiên cứu chuyên sâu, kết quả nghiên cứu là sự bổ sung quan trọng về lý luận cũng
như thực tiễn vào việc đáp ứng QĐTT của công dân ở Việt Nam hiện nay. Trong đó
nêu rõ việc đáp ứng Quyền được thông tin của công dân cần được đảm bảo bởi
trách nhiệm cung cấp thông tin của Cơ quan nhà nước, quyền được thông tin của
công dân là khái niệm được sử dụng để nói đến quyền của công dân được tìm kiếm
thông tin, tiếp nhận thông tin do nhà nước đang quản lý, theo các cách thức trực tiếp
lẫn gián tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ
và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận; đồng thời quy định
nghĩa vụ của nhà nước phải bảo đảm cho tất cả mọi người được tiếp cận các nguồn
thông tin mà trước tiên là thông tin do chính bản thân các cơ quan nhà nước đang
nắm giữ hoặc quản lý. Do đó, công trình có giá trị tham khảo rất cao đối với tác giả,
phục vụ cho công tác nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Mới đây nhất, năm 2021, tác giả Tạ Thị Thùy Trang có bài viết với nhan
đề “Trách nhiệm công khai thông tin môi trường ở Việt Nam hiện nay” đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (440)/2021, Văn phòng Quốc Hội. Bài viết này
là một nghiên cứu khá công phu, liệt kê một số bất cập trong trách nhiệm cung cấp
thông tin về Môi trường. Trong tác phẩm, có một nội dung liên quan đến nghĩa vụ
pháp lý trong thống kê, lưu trữ số liệu, thông tin về môi trường. Trong nội dung
này, tác giả đã nghiên cứu tổng quan về quy định của pháp luật cũng như đưa ra
một số kiến nghị đối với trách nhiệm cung cấp thông tin trong lĩnh vực môi trường.
Những bài viết nói trên tuy không có nhiều nội dung liên quan đến chủ đề
Luận văn mà tác giả đã chọn, tuy nhiên thông qua việc nghiên cứu các bài viết này
cũng như các văn bản Luật, văn bản dưới Luật có liên quan đến trách nhiệm cung
cấp thông tin nói chung và cung cấp thông tin trên CTTĐT của UBND huyện nói
riêng, tác giả đã có nguồn tư liệu quý báu cần được lĩnh hội, kế thừa trong quá trình
nghiên cứu của những tác giả trong khi nghiên cứu. Hầu hết các công trình đã đề
cập, vấn đề cung cấp thông tin trên CTTĐT của UBND huyện thường được xem
xét, phân tích một cách gián tiếp thông qua các khía cạnh có liên quan, chứ chưa
được tập trung nghiên cứu như một nội dung độc lập và toàn diện.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ những quy định của pháp luật về trách nhiệm cung cấp
thông tin trên CTTĐT của UBND cấp huyện, phân tích những bất cập trong các quy
định của pháp luật Việt Nam và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những
quy định liên quan đến vấn đề cung cấp thông tin trên CTTĐT của UBND cấp
huyện. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm
đảm bảo trách nhiệm cung cấp thông tin trên CTTĐT của UBND cấp huyện được
quy định chặt chẽ, nâng cao tính hấp dẫn và hiệu quả của trách nhiệm cung cấp
thông tin trên CTTĐT của UBND cấp huyện.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung, vấn đề cung cấp thông tin trên CTTĐT được đặt ra khi xây dựng
CTTĐT, đây là vấn đề liên quan đến nhiều nội dung như cách thức cung cấp, thời
gian cung cấp, nội dung cung cấp cũng như chủ thể cung cấp thông tin. Những vấn đề
nói trên được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin, Nghị định 43/2011/NĐ-CP của
Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang
thông tin điện tử hoặc CTTĐT của cơ quan nhà nước, Nghị định 42/2022/NĐ-CP
ngày 24/6/2022 Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cơ
quan nhà nước trên môi trường mạng và các văn bản có liên quan. Với phạm vi rất
rộng của các quy định của pháp luật về việc cung cấp thông tin trên CTTĐT của
UBND cấp huyện, trong luận văn này tác giả sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu tập
trung vào các vấn đề liên quan đến về trách nhiệm cung cấp thông tin trên CTTĐT
của UBND cấp huyện, những cơ chế đặt ra nhằm đảm sự minh bạch, rõ ràng trong
công tác cung cấp thông tin, hạn chế sự tác động tiêu cực của các nhân tố khác có
liên quan ảnh hưởng đến việc cung cấp thông tin này.
Về thời gian, để tạo sự chiều sâu cần có cho các vấn đề được nghiên cứu,
luận văn sẽ nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng bắt
đầu từ năm 2011 (thời điểm Việt Nam ban hành Nghị định 43/2011/NĐ-CP của
Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên
trang thông tin điện tử hoặc CTTĐT của cơ quan nhà nước) cho đến nay.
Về không gian, nhằm giới hạn phạm vi khảo sát và có sự tập trung về dữ liệu,
luận văn sẽ tìm hiểu các thực tiễn về trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông
tin điện từ của UBND cấp huyện trên địa bàn TP.HCM.
6
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Tác giả áp dụng phương pháp phân tích để nghiên cứu các tài liệu, các quy
định của pháp luật Việt Nam cũng như các hệ thống pháp luật nước ngoài liên quan
đến cung cấp thông tin của Cơ quan có thẩm quyền. Từ đó và đưa ra bình luận của
tác giả về vấn đề được nghiên cứu, tổng hợp thành một hệ thống những lý thuyết
đầy đủ, logic và sâu sắc về đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng
xuyên suốt trong toàn bộ luận văn, nhưng tập trung ở Chương I nhằm làm rõ các
vấn đề cơ bản về cung cấp thông tin của Cơ quan có thẩm quyền.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
Phương pháp phân loại được sử dụng để phân loại kiến thức tìm hiểu được
cùng với việc hệ thống hóa một cách hợp lý làm cơ sở để nghiên cứu đề tài, được sử
dụng kết hợp cùng phương pháp phân tích tổng hợp trong quá trình nghiên cứu tài
liệu, cũng như xuyên suốt quá trình thực hiện luận văn. Phương pháp này được sử
dụng chủ yếu ở Chương 1 nhằm sắp xếp, tập hợp các vấn đề cơ bản có cùng bản
chất và hướng phát triển, tạo thành một hệ thống các vấn đề cơ bản logic và chặt
chẽ về cung cấp thông tin của Cơ quan có thẩm quyền.
- Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn nhằm tìm hiểu, phân tích
những quy định liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của Cơ quan có
thẩm quyền trong những giai đoạn khác nhau của pháp luật Việt Nam từ đó rút ra
những điểm tiến bộ cần giữ lại và phát huy cũng như những hạn chế, bất cập cần
loại bỏ, hoàn thiện trong pháp luật. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở
Chương II nhằm nêu ra những bất cập và đưa ra những phương án hoàn thiện hệ
thống pháp luật.
- Phương pháp so sánh luật học
Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm mục đích so sánh quy định của
pháp luật liên quan đến đến cung cấp thông tin của Cơ quan có thẩm quyền trong hệ
thống pháp luật của một số quốc gia khác với nhau và với Việt Nam, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Phương pháp này sử dụng chủ yếu ở chương II của đề tài để đưa ra những bài học
thực tiễn về kinh nghiệm hoàn thiện các quy định về đến cung cấp thông tin của Cơ
quan có thẩm quyền.
7
5. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Thông qua việc phân tích thực trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
hành và kinh nghiệm của một số quốc gia về lĩnh vực cung cấp thông tin của Cơ
quan có thẩm quyền, Luận văn sẽ có các đóng góp mới về mặt lý luận như sau:
Hoàn chỉnh hệ thống lý luận về trách nhiệm cung cấp thông tin trên CTTĐT
của UBND cấp huyện thông qua việc làm rõ nội hàm của khái niệm trách nhiệm
cung cấp thông tin của UBND cập huyện, phân tích cung cấp thông tin của Cơ quan
có thẩm quyền trong mối quan hệ giữa các bên.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
này có phần nội dung bao gồm 2 chương:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP
THÔNG TIN TRÊN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN
Chương 2. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP THÔNG TIN
TRÊN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
– NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM
CUNG CẤP THÔNG TIN TRÊN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng
thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm cung cấp thông tin trên cổng thông tin điện tử
của Ủy ban nhân dân cấp huyện
Thông tin là gì?
Trước khi Luật tiếp cận thông tin được ban hành, hệ thống pháp luật nước ta
chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm chung nhất về “thông
tin”. Tuy nhiên, có một số văn bản quy phạm pháp luật đã có định nghĩa về thông
tin trong các lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn định nghĩa về thông tin môi trường trong
Luật bảo vệ môi trường, thông tin về sử dụng dịch vụ bưu chính trong Luật bưu
chính, thông tin trong Luật công nghệ thông tin... Bên cạnh đó, cũng có một số văn
bản quy phạm pháp luật không quy định trực tiếp khái niệm thông tin thuộc lĩnh
vực điều chỉnh của văn bản mà chỉ đưa ra các khái niệm về những hình thức chứa
đựng thông tin như Luật lưu trữ quy định về tài liệu. Theo đó, tài liệu là vật mang
tin được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tài liệu
bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách,
biểu thống kê; âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi hình;
tài liệu điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật ký, hồi ký,
bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và vật mang tin khác và tài liệu
lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch
sử được lựa chọn để lưu trữ... Trên thực tế, do chưa có khái niệm chung và thống
nhất về “thông tin”, việc thực thi các quy định về tiếp cận thông tin theo các văn
bản quy phạm pháp luật còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Nhằm tạo ra cách hiểu thống nhất về “thông tin”, điều 2 Luật tiếp cận thông
tin định nghĩa: Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài
liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng,
đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra.
Ngoài ra còn có một số văn bản quy phạm pháp luật đã có định nghĩa về
thông tin trong các lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như:
9
- “Thông tin đối ngoại là thông tin quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con
người, lịch sử, văn hoá dân tộc Việt Nam; thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật, chính sách của Nhà nước Việt Nam ra thế giới và thông tin về thế giới vào
Việt Nam”. (Điều 2 Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại).
- “Thông tin môi trường là số liệu, dữ liệu về môi trường dưới dạng ký hiệu,
chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự” (Điều 3 khoản 29 Luật
bảo vệ môi trưởng năm 2014) với các nội dung “về thành phần môi trường, các tác
động đối với môi trường, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, hoạt động
bảo vệ môi trường” (khoản 1 Điều 128 Luật bảo vệ môi trường);
- Thông tin về sử dụng dịch vụ bưu chính gồm nội dung bưu gửi, thông tin về
họ tên, địa chỉ, số điện thoại (nếu có) của người gửi, người nhận và các thông tin có
liên quan (khoản 15 Điều 3 Luật bưu chính năm 2010).
- Thông tin số là thông tin được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu số
(khoản 2 Điều 4 Luật công nghệ thông tin năm 2006).
- Thông tin điện tử trên Internet được quy định tại Nghị định số 72/2013/NĐCP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet “Thông tin trên
mạng là thông tin được lưu trữ, truyền đưa, thu thập và xử lý thông qua mạng”
(khoản 13 Điều 3); trong đó chia làm các loại :
Thông tin công cộng là thông tin trên mạng của một tổ chức, cá nhân được
công khai cho tất cả các đối tượng mà không cần xác định danh tính, địa chỉ cụ thể
của các đối tượng đó” (khoản 14 Điều 3);
Thông tin riêng là thông tin trên mạng của một tổ chức, cá nhân mà tổ
chức, cá nhân đó không công khai hoặc chỉ công khai cho một hoặc một nhóm đối
tượng đã được xác định danh tính, địa chỉ cụ thể” (khoản 15 Điều 3);
Thông tin cá nhân là thông tin gắn liền với việc xác định danh tính, nhân
thân của cá nhân bao gồm tên, tuổi, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số điện thoại,
địa chỉ thư điện tử và thông tin khác theo quy định của pháp luật” (khoản 16 Điều 3).
Như vậy, khái niệm thông tin đã được định nghĩa tại điều 2 Luật cung cấp
thông tin 2016, ngoài ra có thể thấy một số văn bản pháp luật có quy định về khái
niệm thông tin thuộc lĩnh vực chuyên ngành. Đồng thời một số văn bản quy phạm
pháp luật không quy định về khái niệm thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của văn
bản, do đó, việc thực thi các quy định về cung cấp thông tin trong các lĩnh vực đó
còn gặp khó khăn.
10
Cổng thông tin điện tử
Trong Nghị định 43/2011/NĐ-CP quy định về thông tin chủ yếu trên CTTĐT
của các cơ quan nhà nước định nghĩa như sau:
1. Trang thông tin điện tử là trang thông tin hoặc một tập hợp trang thông tin
trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin.
2. CTTĐT là điểm truy cập duy nhất của cơ quan trên môi trường mạng, liên
kết, tích hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các ứng dụng mà qua đó người dùng
có thể khai thác, sử dụng và cá nhân hóa việc hiển thị thông tin.
Trong đó vai trò của CTTĐT của cơ quan nhà nước được hiểu là:
1. CTTĐT của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là cổng tích
hợp thông tin của toàn ngành, lĩnh vực do cơ quan quản lý và được tích hợp thông
tin dịch vụ công trực tuyến của tất cả các cơ quan, đơn vị trực thuộc.
2. CTTĐT của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là
cổng tích hợp thông tin các lĩnh vực quản lý nhà nước trên phạm vi địa bàn của tỉnh
và được tích hợp thông tin dịch vụ công trực tuyến của tất cả cơ quan chuyên môn
trực thuộc và Ủy ban nhân dân cấp huyện của tỉnh.
3. Thông tin đăng tải trên CTTĐT của cơ quan nhà nước là thông tin chính
thống của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng.
Trong Nghị định 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 Quy định về việc cung cấp
thông tin và dịch vụ công trực tuyến cơ quan nhà nước trên môi trường mạng định
nghĩa như sau:
CTTĐT là điểm truy cập của cơ quan trên môi trường mạng, liên kết, tích
hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các ứng dụng mà qua đó người dùng có thể
khai thác, sử dụng và cá nhân hóa việc hiển thị thông tin.
Như vậy có thể thấy, cả Nghị định 43/2011/NĐ-CP và Nghị định 42/2022/NĐCP đều có chung định nghĩa CTTĐT là là điểm truy cập của cơ quan trên môi trường
mạng, liên kết, tích hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các ứng dụng mà qua đó
người dùng có thể khai thác, sử dụng và cá nhân hóa việc hiển thị thông tin, chỉ khác
biệt trong giới hạn tại Nghị định 43/2011/NĐ-CP định nghĩa điểm truy cập duy nhất,
điều này được điều chỉnh bởi 42/2022/NĐ-CP giúp quy định trở nên thông thoáng
hơn, tạo nhiều kênh thông tin để tương tác giữa CQNN và người dân.
Trong thời đại CNTT, nhu cầu giao tiếp của người dân với các cơ quan tổ
chức chính phủ ngày càng tăng cao. Hiện tại các cơ quan đơn vị sở ngành đều có
trang web riêng cho tổ chức của mình, tuy nhiên các trang web này được phát triển
11
một cách rời rạc không gắn kết nhau, và người dân phải truy cập tìm kiếm thông tin
một cách rời rạc và phải vào nhiều trang web khác nhau, vì thể tốn rất nhiều thời
gian và công sức để tìm kiếm thông tin. Ngoài ra, các website của các đơn vị sở
ngành được phát triển trên nhiều công nghệ khác nhau, chưa được xây dựng trên
định hướng công nghệ thống nhất, không kế thừa được hệ thống thông tin trong quá
khứ, chưa tích hợp được các dịch vụ của các cơ quan sở ngành. Cổng thông tin đảm
bảo cho việc tích hợp và mở rộng các dịch vụ công, tích hợp các ứng dụng của các
cơ quan sở ban ngành đảm bảo tạo thành kênh cung cấp thông tin xuyên suốt cho
người dân/tổ chức, đồng thời giúp nâng cao năng lực quản lý nhà nước Cổng thông
tin giúp cho người dân truy cập thông tin nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả và
chính xác. Giúp nâng cao được sự tin cậy của người dân vào chính phủ.
Việc cung cấp dịch vụ nhanh chóng hơn - việc tích hợp tất cả các kênh cung
cấp dịch trực tuyến với tư cách là hợp phần quan trọng của chiến lược cung cấp dịch
vụ của một đơn vị cung cấp dịch vụ sẽ tạo ra năng lực lớn hơn trong việc xử lý các
yêu cầu thường gặp, góp phần giải phóng nhân viên trực và nhân viên điện thoại để
xử lý công việc phức tạp hơn. Người dân có thể tiếp cận thông tin trực tiếp từ
internet mà không cần đến đơn vị cung cấp dịch vụ do đó mức độ cung cấp dịch vụ
sẽ tăng đáng kể.
Cung cấp dịch vụ 24 giờ mỗi ngày- người dân có thể tìm thông tin ngoài giờ
làm việc, ví dụ nhiều người có thể khai thuế ngoài giờ hành chính. Nhiều dịch vụ tự
phục vụ hơn người dân có thể tiếp cân thông tin trên cơ sở tự phục vụ làm cho
thông tin cung cấp đúng thời điểm cần ra quyết định. Điều này mang lại lợi ích rất
lớn, thể hiện ở hiểu biết tốt hơn và nâng cao năng lực ra quyết định.
Nâng cao khả năng tìm kiếm thông tin đối với một số người dân khả năng tìm
ra thông tin mang lại lợi ích rất lớn, Điều này làm cho họ hiểu rõ hơn về chính
quyền của mình và tìm kiếm các chương trình hổ trợ giải quyết các nhu cầu đặc thù
của họ.
Thông tin sẽ đến với cộng đồng một cách rộng rải hơn, người dân thường yêu
cầu phải được tiếp nhận tốt hơn tới các thông tin được phát hành từ phương tiện
điện tử, hổ trợ cho việc trao đổi thư điện tử và giao dịch điện tử. Việc đưa thông tin
và năng lực giao dịch sẽ được tăng cưởng khi chính phủ vươn tới các công đân và
các doanh nghiệp và công đồng tiếp cận chính phủ. Cổng thông tin hay CTTĐT
(Portal) là một hoặc một nhóm trang web mà từ đó người truy cập có thể dễ dàng
truy xuất các trang web và các dịch vụ thông tin khác trên mạng máy tính.
12
Thông tin cung cấp trên CTTĐT:
Cung cấp thông tin bao gồm việc cơ quan nhà nước công khai thông tin và
cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân4.
Thông tin được nhà nước công khai thường là những thông tin có sẵn, do cơ
quan nắm giữ hoặc tạo ra, có liên quan mật thiết đến quyền, lợi ích của công dân mà
pháp luật quy định nhà nước phải công bố công khai. Thông tin không thuộc trường
hợp nhà nước công khai là những thông tin này công dân không thể tiếp nhận, bao
gồm ba nhóm: thông tin không được cung cấp, thông tin chỉ được cung cấp theo yêu
cầu, và thông tin được cung cấp hạn chế.
Thông tin công khai đầu tiên là các văn bản quy phạm pháp luật vì các văn bản
này thường tác động đến các lợi ích đa dạng, một cách thuận lợi hay bất lợi tùy theo
mục tiêu của từng người như việc thông qua một dự án quy hoạch đối với một vùng
đất mang lại cơ hội làm ăn cho nhà đầu tư nhưng cũng đồng thời đặt người dân ở
vùng giải tỏa trước bài toán thay đổi chỗ ở và sinh kế, việc điều chỉnh giá xăng dầu
có thể có lợi hoặc bất lợi cho người tiêu dùng. Vì vậy, thông tin về các văn bản pháp
luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được coi là yếu tố cốt lõi
trong mọi hoạt động của một xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên tắc của nhà
nước pháp quyền. Công khai minh bạch trong quá trình ban hành văn bản quy phạm
pháp luật cũng là việc thực hiện các cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới. Sau đó là các thông tin có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người dân;
thông tin về việc thành lập, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước; các TTHC; chương trình, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giáo
dục, y tế, sức khỏe, môi trường, việc làm; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và những
thông tin khác cần có sự tham gia, đóng góp ý kiến của công dân.
Thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ có những đặc điểm sau:
- Thông tin của các cơ quan nhà nước đang nắm giữ thuộc quyền quản lý của
các cơ quan nhà nước, nhưng không phải chỉ do các cơ quan nhà nước tạo ra, mà
còn do tất cả các cá nhân, tổ chức chịu sự quản lý của nhà nước tạo ra, bao gồm:
(1) thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là thông tin do chính cơ quan nhà
nước đó xác lập trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; và
(2) thông tin nhận được là thông tin mà cơ quan nhà nước có được từ các
nguồn khác trong quá trình phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình.
4
Luật Tiếp Cận Thông Tin - Luật số: 104/2016/QH13 ngày 06 tháng 4 năm 2016
13
- Nội dung thông tin bao trùm toàn bộ hoạt động của nhà nước, là cơ sở pháp
lý để các đối tượng chịu sự quản lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định. So với các loại thông tin khác chỉ đề cập đến một hoặc một số nội dung,
thông tin do nhà nước quản lý luôn có nội dung đa dạng, liên quan đến tất cả hoạt
động của nhà nước, từ lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền
tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ,
môi trường đến chính sách đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước...
- Thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước là thông tin mang tính
chính thức, được sử dụng làm cơ sở pháp lý trong hoạt động quản lý nhà nước, luôn
được ghi trong hồ sơ lưu của các cơ quan. Vì thông tin do cơ quan nhà nước quản lý
được giới hạn trong mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và người dân nên các thông
tin này có giá trị pháp lý nhằm để các cơ quan nhà nước quản lý xã hội và người dân
thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn các loại thông tin khác không
mang tính chính thức, thông tin không được sử dụng như là cơ sở pháp lý.
- Thông tin trong hoạt động nhà nước gắn liền với quyền lực nhà nước, nhiều
thông tin ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự do cơ bản của công dân hoặc thông tin có
giá trị kinh tế, nên nhiều chủ thể luôn mong muốn có cơ hội để tiếp cận các thông
tin này.
- Thông tin do nhà nước quản lý được xem như công cụ để thực hiện các
quyền của cá nhân và việc có thông tin là biện pháp thúc đẩy, hỗ trợ cho việc thực
hiện các quyền khác của chính chủ thể đó vì lợi ích và đời sống của đại bộ phận
nhân dân và nhằm tác động tích cực đến tình hình kinh tế, xã hội. Ví dụ các thông
tin về chính sách đất đai, về thuế thu nhập, về bảo hiểm y tế... do cơ quan nhà nước
ban hành tác động mạnh mẽ đến đời sống người dân.
- Các loại thông tin do nhà nước quản lý rất đa dạng, nhiều trường hợp xung
đột nhau nhau khi xác định quyền được biết thông tin đó do liên quan đến lợi ích
“công” và “tư” tức là bảo vệ bí mật nhà nước và bảo vệ quyền riêng tư, đây cũng
đang là vấn đề phổ biến ở nhiều quốc gia. Ví dụ, một số loại thông tin do cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp nắm giữ như chiến lược kinh doanh, bí mật kinh doanh, thông tin
cá nhân thì nhà nước không có quyền quản lý; tuy nhiên, trong một số trường hợp,
nhà nước vẫn có quyền quản lý và nắm giữ các thông tin này như thông tin về lý lịch
tư pháp của công dân, thông tin về hoạt động kinh doanh, thuế của doanh nghiệp.
14
Thông tin được nhà nước công khai thường là những thông tin có sẵn, do cơ
quan nắm giữ hoặc tạo ra, có liên quan mật thiết đến quyền, lợi ích của công dân mà
pháp luật quy định nhà nước phải công bố công khai. Thông tin không thuộc trường
hợp nhà nước công khai là những thông tin này công dân không thể tiếp nhận, bao
gồm ba nhóm: thông tin không được cung cấp, thông tin chỉ được cung cấp theo yêu
cầu, và thông tin được cung cấp hạn chế.
Thông tin công khai đầu tiên là các văn bản quy phạm pháp luật vì các văn
bản này thường tác động đến các lợi ích đa dạng, một cách thuận lợi hay bất lợi tùy
theo mục tiêu của từng người như việc thông qua một dự án quy hoạch đối với một
vùng đất mang lại cơ hội làm ăn cho nhà đầu tư nhưng cũng đồng thời đặt người
dân ở vùng giải tỏa trước bài toán thay đổi chỗ ở và sinh kế, việc điều chỉnh giá
xăng dầu có thể có lợi hoặc bất lợi cho người tiêu dùng. Vì vậy, thông tin về các
văn bản pháp luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được coi
là yếu tố cốt lõi trong mọi hoạt động của một xã hội được quản lý, vận hành theo
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Công khai minh bạch trong quá trình ban
hành văn bản quy phạm pháp luật cũng là việc thực hiện các cam kết khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Sau đó là các thông tin có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người dân;
thông tin về việc thành lập, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước; các TTHC; chương trình, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
giáo dục, y tế, sức khỏe, môi trường, việc làm; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và
những thông tin khác cần có sự tham gia, đóng góp ý kiến của công dân
UBND cấp huyện
Cấp huyện ở Việt Nam hiện nay được quy định trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015 bao gồm: huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Theo quy định của pháp luật, cấp huyện
chia thành 3 loại (I, II, III). Tuy nhiên, ngoài chia thành 3 loại trên, còn có chia
theo: Huyện gắn với khu vực nông thôn; Quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương gắn với khu vực đô thị. Mỗi đơn vị
hành chính cấp huyện đều được tổ chức chính quyền tương ứng. Chính quyền cấp
huyện gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Cấp huyện là đơn vị hành
chính lãnh thổ trung gian nằm giữa tỉnh và xã. Chính quyền địa phương cấp huyện
chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của chính quyền địa phương cấp tỉnh và trực tiếp
quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương cấp xã.
15
Cấp huyện ở Việt Nam hiện nay được quy định trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015 bao gồm: huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Theo quy định của pháp luật, cấp huyện chia thành 3 loại (I, II, III)5. Tuy
nhiên, ngoài chia thành 3 loại trên, còn có chia theo:
- Huyện gắn với khu vực nông thôn;
- Quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
Trung ương gắn với khu vực đô thị.
Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện đều được tổ chức chính quyền tương ứng.
Chính quyền cấp huyện gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Cấp huyện
là đơn vị hành chính lãnh thổ trung gian nằm giữa tỉnh và xã. Chính quyền địa
phương cấp huyện chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của chính quyền địa phương
cấp tỉnh và trực tiếp quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương cấp xã.
Mối quan hệ giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh với chính quyền địa
phương cấp huyện và giữa chính quyền địa phương cấp huyện với chính quyền địa
phương cấp xã được xem xét dưới hai góc độ:
- Quan hệ trong hoạt động quản lý nhà nước,
- Quan hệ trong việc cung cấp dịch vụ (kể cả dịch vụ hành chính công).
Chính quyền địa phương cấp huyện ở Việt Nam bao gồm:
- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, chịu trách
nhiệm với dân địa phương và với cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
thực hiện quản lý nhà nước mang tính chất lãnh thổ, gắn với ý chí, nguyện vọng của
người dân trên địa bàn đơn vị hành chính lãnh thổ được phân công quản lý.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và
là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân thực hiện quản lý
nhà nước các vấn đề của địa phương thông qua chấp hành Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cùng cấp.
Theo qui định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, có thể xác định chính
quyền địa phương tại mỗi cấp hành chính lãnh thổ bao gồm: Hội đồng nhân dân
(HĐND) và UBND. Việc phân cấp giữa các cơ quan chính quyền địa phương phải
đảm bảo sự phù hợp với nhiệm vụ, khả năng của từng cấp, bảo đảm sự bình đẳng
5
Điều 3, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
- Xem thêm -