Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm của chính phủ theo quy định của hiến pháp việt nam...

Tài liệu Trách nhiệm của chính phủ theo quy định của hiến pháp việt nam

.PDF
106
8
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ THU HÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - NĂM 2006 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ............................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 4 1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ................................................. 6 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .................................................................. 6 3. Cơ sở khoa học của đề tài. ............................................................................... 6 4. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................ 7 5. Tình hình nghiên cứu. ...................................................................................... 7 6. Điểm mới của đề tài......................................................................................... 8 7. Cơ cấu của luận văn......................................................................................... 8 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm các chương sau: Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ 1.1. Nhận thức chung về bản chất trách nhiệm của Chính phủ. ............... 10 1.1.1 Trách nhiệm đề ra các chủ trương, chính sách. ................................. 11 1.1.2 Trách nhiệm phải từ chức................................................................... 16 1.2. Sự uỷ thác quyền lực nhà nước của nhân dân - cơ sở pháp lý của việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm. ................................................. 17 1.2.1. Dân chủ là nhà nước phải chịu trách nhiệm. ..................................... 17 1.2.2. Sự phân quyền và trách nhiệm chính thuộc về Chính phủ. ............... 23 1.3. Một số hình thức quy trách nhiệm quy trách nhiệm của Chính phủ..28 1.3.1 Bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ............................................................ 28 1.3.2 Bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. ..................................................... 29 1.4. Các mô hình chịu trách nhiệm của Chính phủ.................................... 30 1.4.1. Chính phủ trong chính thể đại nghị. .................................................. 30 1 1.4.2. Chính phủ trong chính thể cộng hòa tổng thống. .............................. 34 1.4.3. Chính phủ trong chính thể lưỡng tính. .............................................. 37 1.4.4. Chính phủ ở các nước Xã hội chủ nghĩa. .......................................... 40 Chương 2 TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2.1. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1946. .................... 41 2.1.1. Trách nhiệm Chủ tịch nước ............................................................... 42 2.1.2. Trách nhiệm của Nội các. .................................................................. 45 2.2. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1959. .................... 47 2.2.1. Trách nhiệm của Hội đồng Chính phủ. ............................................. 49 2.2.2. Trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ............................................. 49 2.2.3. Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. ........... 50 2.3. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1980. .................... 51 2.3.1. Trách nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng. .............................................. 52 2.3.2. Trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. ............................... 54 2.3.3. Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng. .................................................................................................... 55 2.4. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1992 và Hiến Pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001. ........................................................... 56 2.4.1. Trách nhiệm của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. .................... 60 2.4.2. Trách nhiệm của Phó thủ Tướng và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.................................................................................... 62 2.4.3. Trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ. ............ 63 2.5. Liên hệ thực tế và một số kết luận. ........................................................ 64 2 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ 3.1. Cần xây dựng một chính quyền hành pháp đủ mạnh để điều hành đất nước. ................................................................................................................ 80 3.2. Cần làm rõ cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ. Trách nhiệm của người đứng đầu Chính phủ, trách nhiệm cá nhân và của tập thể Chính phủ? ........................................................................................................................ 82 3.3. Cần sửa đổi quy trình bỏ phiếu tín nhiệm và quy định rõ hậu quả của việc bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên Chính phủ trong Hiến Pháp. .............. 84 3.4 Gắn hành pháp với Đảng cầm quyền...................................................... 90 3.5. Tăng cường tính công khai và minh bạch hoá trong Chính Phủ. .......... 91 3.6. Cần tăng cường cơ chế giám sát minh bạch; một chế tài đủ mạnh để xứ lý nghiêm minh.................................................................................................. 93 3.7. Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. ............................................... 95 3.8. Thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam. ........................ 97 3.9. Cần nâng cao hơn nữa chất lượng chất vấn tại các kỳ họp nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị trong quản lý điều hành, nâng cao đạo đức của Bộ trưởng giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước; Coi trọng hơn nữa văn hoá ứng xử của nhà lãnh đạo đối với người dân. .......................................................... 98 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 101 3 MỞ ĐẦU Chính phủ là cơ quan nhà nước cấp cao quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, được lập ra để thực hiện trên thực tế quyền lực nhà nước, tiến hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Trong lịch sử lập hiến của nước ta, Chính phủ luôn đứng ơ vị trí trung tâm của các cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Có thể nói, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển của Chính phủ. Bên cạnh sự kế thừa các quy định của Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã nâng vị thế của Chính phủ lên một tầm cao mới. Sự thay đổi vị thế của Chính phủ không đơn thuần là việc thay đổi mà quan trọng hơn là vị trí, tính chất của Chính phủ đã được xác định lại cho phù hợp với tầm quan trọng của Chính phủ trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Cho dù nhà nước có tổ chức theo hình thức chính thể nào thì hành pháp – Chính phủ vẫn phải là trung tâm của bộ máy nhà nước, và chính Chính phủ mà không phải là một chủ thể nào khác phải chịu trách nhiệm chính về sự phát triển hay tàn lụi của một quốc gia. Một Chính phủ hoạt động tốt sẽ được sự tín nhiệm của lập pháp và sự ủng hộ của nhân dân, nhưng nếu ngược lại Chính phủ đó hoạt động thiếu trách nhiệm hoặc phạm sai lầm gây tổn hại đến lợi ích của người dân thì sao? Trong trường hợp đó Chính phủ có phải chịu trách nhiệm gì về hành vi của mình không và bản chất trách nhiệm của Chính phủ là gì? Cho đến nay trong khoa học luật Hiến pháp ở nước ta mặc dù có quy định về vấn trách nhiệm của Chính phủ nhưng vẫn còn là một khoảng trống, về cơ bản chưa được nghiên cưú đầy đủ về vấn đề này. Cụ thể là 4 Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước ai, như thế nào, theo cơ chế nào cũng như trình tự, thủ tục xử lý vi phạm đó vẫn chưa được quy định rõ. Bên cạnh đó trách nhiệm của Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thủ tướng cơ quan ngang Bộ, Thủ tướng các cơ quan thuộc Chính phủ hiện nay vẫn chưa được cụ thể hóa, có nhiều điểm không phù hợp dẫn đến những bất cập trong cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân hiện nay, với đòi hỏi nghiêm khắc về nâng cao trách nhiệm của nhà nước, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân, cơ quan tổ chức nào vi phạm Hiến pháp đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình thì việc nghiên cứu để nhận thức đúng cũng như để hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ theo Luật Hiến pháp nước ta là rất cần thiết, nhằm tạo ra một Chính phủ mạnh mẽ, cơ cấu hợp lý và một cơ chế chịu trách nhiệm rõ ràng. Như vậy, trong một xã hội dân chủ thực sự nơi phổ biến của chế độ pháp quyền thì tinh thần trách nhiệm, sự cạnh tranh lành mạnh, minh bạch cũng là một nguyên tắc căn bản chỉ đạo việc quản lý công vụ. Chính phủ mạnh là yêu cầu tất yếu đối với mọi Chính phủ đứng đầu hệ thống hành chính của mọi nhà nước hiện nay. Đối với xã hội hiện đại, trong điều kiện đời sống quốc tế ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể có một quốc gia phát triển nếu không có một Chính phủ mạnh mẽ, đáp ứng các yêu cầu trong nước và đối ngoại. Đây không phải là đề hoàn toàn mới, đã có nhiều nhà khoa học xã hội tiếp cận chế định Chính phủ ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể thì đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về trách nhiệm của Chính phủ dưới góc độ khoa học luật Hiến pháp. 5 Vì những lý do nêu trên tôi quyết định chọn đề tài “Trách nhiệm của Chính phủ theo quy định của Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài luận văn cao học của tôi. 1. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những điểm bất cập trong cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến pháp Việt Nam và đề suất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan này. Để đạt được mục đích đặt ra, đề tài có những nhiệm vụ như sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề bản chất trách nhiệm của Chính phủ. - Đánh giá thực trạng cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ trong lịch sử lập hiến Việt Nam và nêu ra những điểm còn bất cập, tồn tại. - Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về cơ chế chịu chịu trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp. Đây là đề tài tương đối phức tạp, do khả năng còn hạn chế nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 và đưa ra một số khuyến nghị. 3. Cơ sở khoa học của đề tài. Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tầm quan trọng của Chính phủ nhằm “xây dựng 6 một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá…”, một Chính phủ biết làm việc và có gan góc 4. Phương pháp nghiên cứu. Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp phân tích; - Phương pháp tổng hợp; - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp chuyên gia; - Phương pháp thống kê; - Phương pháp so sánh đối chiếu;.. 5. Tình hình nghiên cứu. Chính phủ là một chế định quan trọng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ta được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật. Ngoài một số giáo trình có liên quan như: “ Hình thức các nhà nước đương đại”, “sự hạn chế quyền lực Nhà nước” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung… còn có rất nhiều bài viết tiếp cận ở các góc độ khác nhau về Chính phủ , như bài “ về vị trí, tính chất của Chính phủ trong bộ máy Nhà nước ở nước ta” của TS.Vũ Hồng Anh ; “ Nâng cao chất lượng xây dựng các dự án Luật, Pháp lệnh do Chính phủ soạn thảo” và “Tiếp tục cải thiện phương thức hoạt động của Chính phủ” của TS. Phạm Tuấn Khải; “Cơ chế vận hành bộ máy hành chính nước – kinh nghiệm của một số nước” của TS. Văn Tất Thu; “Yêu cầu cải cách khu vực công và vai trò của một Chính phủ tốt” của Th.s Trần Thị Thanh Thuỷ; “ Các mô hình Chính phủ” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung; “ Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ” của TS. 7 Bùi Xuân Đức... Liên quan đến trách nhiệm của Chính phủ thì chỉ có một số ít bài viết như: “Hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ” của TS. Bùi Xuân Đức; “Trách nhiệm Hiến pháp” của Th.s Bùi Ngọc Sơn.. Qua đó, chúng ta thấy các nghiên cứu trên thường chỉ tiếp cận ở góc độ chế định Chính phủ nói chung, mang tính chất rải rác và chủ yếu là thông tin lý luận chứ chưa giải quyết một các triệt để và chuyên sâu, có tính hệ thống về chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về “trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp Việt Nam” để tìm ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu qủa hoạt động của Chính phủ, đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. 6. Điểm mới của đề tài: Làm rõ bản chất trách nhiệm của Chính phủ là gì. Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn về chế độ trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là thì vấn đề trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp hiện hành và Hiến pháp năm 1946 có điểm gì giống và khác với nhau khi mà nền lập hiến Việt Nam lại có xu hướng khôi phục lại một số giá trị của Hiến pháp năm 1946. Nêu ra một số khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên của Chính phủ. 7. Cơ cấu của luận văn. 8 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm các chương sau: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ. Chương 2. TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM. Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ. 1.1. Nhận thức chung về bản chất trách nhiệm của Chính phủ. Chính phủ theo cách hiểu chung nhất hiện nay là một trong ba bộ phận cấu thành nên bộ máy quyền lực nhà nước, có chức năng thực thi quyền hành pháp và là cơ quan cao nhất trong hệ thống hành chính nhà nước. Chế định trách nhiệm của Chính phủ (và các thiết chế quyền lực nhà nước nói chung) bắt nguồn từ nguyên lý ủy quyền. Chính phủ và hệ thống hành pháp – hành chính thực hiện sự ủy quyền của lập pháp. Hoạt động này không được vượt ra ngoài phạm vi ủy quyền và phải được sự tán thành của cơ quan lập pháp. Và khi không đáp ứng các đòi hỏi đó (hoạt động thiếu trách nhiệm hoặc gây tổn hại đến lợi ích của người dân) thì cơ chế xác định trách nhiệm của Chính phủ sẽ được áp dụng. Trách nhiệm của Chính phủ là trách nhiệm của từng thành viên của Chính phủ, đây là một loại trách nhiệm đặc biệt của những người cầm quyền chính trị. Nó khác với trách nhiệm hình sự và dân sự của công dân. Các Bộ trưởng kể cả Thủ tướng - người đứng đầu hàng ngũ các Bộ trưởng, khi phạm lỗi mặc dù lỗi đó không dẫn đến hậu quả phải chịu trách nhiệm hình sự hay dân sự nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp trước nhân dân. Người ta thường nói trách nhiệm này là trách nhiệm chính trị của Chính phủ. Về bản chất trách nhiệm của Chính phủ chính là trách nhiệm đề ra các chính sách và trách nhiệm từ chức 10 1.1.1. Trách nhiệm đề ra các chủ trương, chính sách. * Quan niệm chung về chính sách và chính sách công ở Việt Nam. Chính sách là một vấn đề nhạy cảm, bị chi phối bởi các quan niệm chính trị và phương pháp tiếp cận khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất: Nghiên cứu chính sách là nghiên cứu hệ thống các mục tiêu mà Chính phủ mong muốn đạt được và những hoạt động thông qua các quyết định của Chính phủ để đạt được mục tiêu đó trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Theo cách tiếp cận này: Về hình thức, chính sách có thể dưới dạng một bản báo cáo, tường trình; Về nội dung: Chính sách thể hiện quyết định làm một hay nhiều việc; Về cơ quan ban hành: Là cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền; Chính sách được hoạch định trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định; Toàn bộ chính sách luôn hướng tới việc thực hiện những mục tiêu cụ thể. Cách tiếp cận khác. Theo các nhà hoạch định chính sách thì chính sách chính là hệ thống các mục tiêu cần hướng tới và đạt được; Theo các nhà quản lý thì chính sách trước hêt là sự định hướng hành động… Chính sách công là thuật ngữ khá mới mẻ ỏ Việt Nam. Khái niệm này cũng có nhiêu cách tiếp cận khác nhau. Dưới đây xin nêu ra một số quan niệm phổ biến về chính sách công. Chính sách công là sản phẩm của thế giới chính trị trong môi trường cụ thể nhằm đi đến những mục tiêu cụ thể trong tương lai; Chính sách công là sự bày tỏ quan điểm của Chính phủ làm hay không làm những việc cụ thể và cách thức hoàn thành công việc đó; 11 Chính sách công là định hướng của Chính phủ cho nhà quản lý các cấp (bộ, ngành, địa phương) đưa ra các quyết định quản lý trong những điều kiện cụ thể; Chính sách công là chương trình hành động có mục tiêu của Chính phủ. Tóm lại, chính sách công luôn gắn liền với liền với hoạt động của Chính phủ, của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nó thể hiện những việc Chính phủ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ làm hoặc không làm trong tương lai nhằm đạt được mục tiêu nhất định Ở Việt Nam, trên thực tế và trong các văn kiện thuật ngữ “chính sách công” không phải lúc nào cũng được sử dụng thống nhất. Người ta thường dùng các hình thức diễn đạt khác nhau để gọi như: đường lối, chủ trương, giải pháp, biện pháp, phương hướng nhiệm vụ… Có nhiều cách nhận thức khác nhau về vấn đề này nhưng nhìn chung đều thống nhất như sau: “Chính sách công là sách lược, kế hoạch cụ thể của Đảng và nhà nước dựa trên cơ sở đường lối chính trị chung và tình hình kinh tế xã hội cụ thể mà đề ra nhằm mục đích nhất định. Chính sách là các quyết định của Đảng và nhà nước về những việc cần phải thực hiện hoặc không thực hiện” [11]. Hiện nay, nước ta có nhiều cách phân loại chính sách. Nếu căn cứ vào chủ thể ban hành có chính sách của Đảng, chính sách của nhà nước, chính sách của tổ chức chính trị; Căn cứ vào quy mô tác động của chính sách gồm có chính sách quốc gia; chính sách ngành hoặc liên ngành, chính sách của địa phương; Căn cứ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội có thể phân thành chính sách an ninh - quốc phòng, chính sách đối ngoại… 12 * Hoạch định chính sách công ở Việt Nam. Về sáng kiến chính sách. Hoạch định chính sách là chức năng quan trong nhất của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên xuất phát từ bản chất nhà nước của dân do dân và vì dân, Đảng và nhà nước Việt Nam luôn cố gắng thực hiện dân chủ rộng rãi, phát huy sáng kiến của mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạch định chính sách, coi đây là hình thức tham gia quản lý của nhân dân. Trên thực tế, chính sách công ở Việt Nam có thể được hình thành từ những nguồn sáng kiến sau: Từ các tổ chức, cá nhân trong nước có liên quan kiến nghị các cơ quan nhà nước xem xét, ban hành; Từ các diễn đàn, hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội; Từ bản than các chính sách đã có, cần sửa đổi, bổ sung… Về hình thức đưa ra sáng kiến chính sách. Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng tạo mọi điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ pháp luật đưa ra các sáng kiến chính sách bằng các hình thức sau: Sự tham gia trực tiếp của, chính thức của công dân trong quá trình hoạch định chính sách thông qua tiếng nói của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Thông qua các phương tiên thông tin đại chúng; Thông qua các diễn đàn, hội nghị, hội thảo; Thông qua điều tra dư luận xã hội…. * Trách nhiệm của Chính phủ là đề ra chính sách. Chính trị là những công việc nhà nước ở tầm quốc gia do các chính trị gia đảm nhiệm, người ta thường gọi là chính khách. Chính khách do nhân dân bầu ra, đó là các nghị sỹ (đại biểu Quốc hội); các Bộ trưởng do Quốc hội bổ nhiệm, không phải là công chức nhà nước, hoạt động theo nhiệm kỳ nhất định. Chính khách luôn gắn với đảng phái chính trị. 13 Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính khách là phải có trách nhiệm hoạch định ra chính sách quốc gia. Chính sách này thường gắn liền nhiệm kỳ hoạt động của chính khách qua mỗi một lần bầu cử. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định. Chính sách tựu chung lại là sách lược của Đảng cầm quyền, được đưa ra sau mỗi lần bầu cử, trong qúa trình bầu cử. Các đảng tranh cử đưa ra chính sách của mình để vận động tranh cử, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các lá phiếu. Chính sách của Đảng nào phù hợp với lòng dân, được dân tín nhiệm sẽ trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền đứng ra thành lập Chính phủ để thực hiện chính sách của mình. Các chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện từng nước sẽ giúp đất nước đó phát triển. Măc dù chính sách có thể được quyết định thông qua bằng cơ quan lập pháp nhưng việc vạch ra chính sách là trách nhiệm của hành pháp chứ không phải lập pháp. Các chính sách này được các Đảng đưa ra từ khi tranh cử vào các ghế của Quốc hội (mô hình chính thể Đại nghị) và bầu cử Tổng thống (mô hình chính thể cộng hòa Tổng thống). Trách nhiệm này hiện nay được Hiến pháp quy định cho Chính phủ là chính (Điều 20 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Điều 72 Hiến pháp của Nhật Bản…) Đối với Việt Nam, ở mỗi giai đoạn phát triển Đảng ta đều có những chiến lược phát triển nhất định. Các chính sách phục vụ cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi phải xuất phát từ hành pháp và do hành pháp đề nghị. Có những chính sách ở tầm vĩ mô (trung ương) và vi mô (chính sách của từng Bộ, ban ngành của Chính phủ cũng như các cơ quan khác mang tầm cỡ quốc gia) nhất là vai trò vủa các chính khách từ Bộ trưởng cho đến các đại biểu Quốc hội. 14 Đứng trên phương diện toàn thể quốc gia thì vai trò của Thủ tướng – người đứng đầu Chính phủ là rất lớn, đứng trên phương diện của một ngành, một lĩnh vực thì vai trò của từng Bộ trưởng cũng rất quan trọng. Xét cho cùng thì Thủ tướng mặc dù là người đứng đầu Hành pháp nhưng vẫn phải đảm trách trực tiếp một ngành, một lĩnh vực của Chính phủ. Thủ tướng phải có trách nhiệm điều hoà lợi ích của các ngành, các lĩnh vưc dưới lợi ích tổng thể của một quốc gia. Chính sách thì do chính khách, Bộ trưởng những nhà hoạt động chính trị đẻ ra. Những chính khách thường là những người đứng đầu các cơ quan, các tổ chức, có một nhiệm kỳ nhất định, phải có trách nhiệm đẻ ra chính sách mới khác hẳn với những người đảm nhiệm trước hay chí ít cũng là chỉnh sửa lại những gì còn thiếu xót của những người đi trước. Xét cho cùng chính sách của của quốc gia cũng là chính sách của các bộ tổng hợp lại (bộ là chủ thể đầu tiên có trách nhiệm phải dự thảo dự án luật). Hay nói một cách khác, mọi chính sách, pháp luật của quốc gia nào đều có thể quy về một ngành hoặc một lĩnh vực của một bộ hoặc một ủy ban ngang bộ nào đó. Chính khách, Bộ trưởng phải có trách nhiệm nghĩ ra cho được các chính sách, sau đó tổ chức thực thi chính sách đó theo đúng quy định của pháp luật. về nguyên tắc, trách nhiệm của chức danh nào thì phải làm tốt, nhưng quan trọng nhất vẫn là người đề ra chính khách, Bộ trưởng phải biết tạo ra các chính sách nếu không sẽ không thể làm chính khách, Bộ trưởng được. Sự tín nhiệm của Quốc hội đối với chính sách cũng chính là sự tín nhiệm đối với chính Bộ trưởng. Những người đảm nhiệm những chức vụ mà quyết định của họ có ảnh hưởng đến toàn bộ quốc gia thì được gọi là chính khách và hoạt động của họ là hoạt động chính trị. Đó là đại biểu Quốc hội - Nghị sĩ do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Ngoài ra còn có nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Bộ trưởng. 15 Chủ thể chủ yếu trong việc đẻ ra các chính sách chính là Hành pháp và Bộ trưởng. Một số chính sách quan trọng buộc phải thông qua Quốc hội, tùy theo quy định từng nước. Nhưng cũng có những chính sách không cần thiết phải thông qua lập pháp. Ưu thế của hành pháp là làm cho các văn bản pháp luật được lập pháp ban hành đi vào cuộc sống thông qua các chính sách, và cũng từ thực tế sôi động mà chính sách mới lại được hình thành tiếp theo. Trong cùng một thời điểm, Nhà nước có thể có nhiều chính sách, chính sách quan trọng được ưu tiên thực hiện trước. Các Bộ trưởng bao gồm những thành viên xuất sắc của Đảng cầm quyền phải có những quyết sách táo bạo, dũng cảm làm cho ngành, lĩnh vực của mình bứt phá lên, đồng thời phải dám chịu trách nhiệm về tình trạng của ngành hoặc lĩnh vực đó. Trường hợp có sai phạm xảy phải dám chịu trách nhiệm. 1.1.2 Trách nhiệm phải từ chức. Các chính khách – Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về việc thực thi các quyết định chính sách của các công chức. Khi công chức phạm sai lầm, mắc tội phạm, ảnh hưởng đến uy tín của Bộ thì Bộ trưởng phải từ chức, không hứng chịu kỷ luật thay cho công chức. Tính dám chịu trách nhiệm thể hiện ở chỗ dám gánh chịu mọi hậu quả trước mọi thất bại có thể xảy ra như dám từ chức, dám bồi thường thiệt hại, dám công khai xin lỗi trước công chúng. Trong một nhà nước dân chủ thực sự, nơi phổ biến của chế độ pháp quyền, tinh thần trách nhiệm, cạnh tranh lành mạnh, minh bạch là nguyên tắc căn bản chỉ đạo việc quản lý. Nói Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội không chỉ đơn giản ở chỗ các Bộ trưởng, cùng Thủ tướng 16 Chính phủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà theo lý thuyết dân chủ đại nghị, họ còn phải chịu trách nhiệm về cả hậu quả của công chức dưới quyền. Như vậy, nếu một Chính phủ hoạt động tốt thì sẽ không có điều tiếng gì, nhưng nếu Chính phủ đó hoạt động thiếu trách nhiệm hoặc phạm sai lầm gây tổn hại đến lợi ích của người dân thì có chế các định trách nhiệm của Chính phủ sẽ được áp dụng. Quốc hội sẽ bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Và trách nhiệm chính trị sẽ được xem xét. Sở dĩ nói đến trách nhiệm chính trị vì cơ sở quy trách nhiệm là sự đánh giá đường lối, chủ trương, chính sách hoạt động của Chính phủ và các thành viên (có những trường hợp đó là sự đánh giá về mặt đạo đức đối với họ) chứ không phải cơ sở pháp lý, mặc dù quy trình quy trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội được tiến hành bằng những hình thức pháp lý. 1.2. Sự uỷ thác quyền lực nhà nước của nhân dân - cơ sỏ pháp lý của việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm. 1.2.1. Dân chủ là nhà nước phải chịu trách nhiệm. Trong nhà nước dân chủ, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước chính là nhân dân.“Quyền lực của nhân dân đó là bản chất của nhà nước dân chủ nói chung và của nhà nước Việt Nam nói riêng” [ 18,tr. 320] Khái niệm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong Luật Hiến pháp còn được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm quyền lực nhân dân và khái niệm dân chủ. Trong các nhà nước quân chủ chuyên chế không thể có khái niệm quyền lực nhân dân. Trong chế độ phong kiến Việt Nam, chủ quyền quốc gia được coi như là một thứ tài sản được nhà vua chiếm hữu, sử dụng đinh đoạt và được để lại cho con cháu nhà vua theo nguyên tắc 17 thừa kế. Khi cách mạng dân chủ tư sản ra đời, giai cấp tư sản đã thay thế chính thể quân chủ bằng chính thể cộng hòa; và để chống lại chính thể quân chủ chuyên chế, chế độ phong kiến cổ hủ, bằng các Hiến pháp của minh giai cấp tư sản đã ghi nhận quyền lực của nhân dân, chủ quyền của nhân dân. Việc quy định quyền lực nhân dân của nhà nước đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tư tưởng dân chủ của nhân loại. Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, quyền lực thuộc về nhân dân bao giờ cũng là nguyên tắc quan trọng nhất, xuyên suốt và luôn luôn chi phối mọi hoạt động trong việc xây dựng chế độ chính trị của nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp hiện hành tuyên bố “Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức”. Điều đó có nghĩa là quyền lực nhà nước không thuộc về một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hay một nhóm người nào. Nhân dân là người chủ duy nhất toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần của nhà nước. Nhân dân có toàn quyền quản lý tất cả các công việc của nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến vận mệnh quốc gia, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng của toàn thể dân tộc. Nhân dân có quyền tự do thể hiện ý chí của mình và thông qua các đại biểu của mình biến ý chí đó thành ý chí nhà nước, thành quy phạm pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện. Vấn đề quyền lực nhà nước thuộc về ai là tiêu chí cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền với với nhà nước cực quyền, phát xít. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực thuộc về nhân dân trở thành vấn đề mang tính pháp lý. 18 Hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân ở nước ta là hình thức dân chủ đại diện. Đây là hình thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thay mặt nhân dân cả nước giải quyết những công việc quan trọng nhất của nước nhà. Đó là việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, thực hiện quyền gián sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, quyết định ngân sách nhà nước …Như vậy, thông qua Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình, nhân dân làm chủ đất nước. Ở các địa phương nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực nhà nước địa phương, đó là Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài hình thức dân chủ đại diện nhân dân lao động còn thực hiện quyền lực của mình dưới hình thức dân chủ trực tiếp. Đó là việc nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình, khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước trung ương và địa phương và có quyền bãi miễn các đại biêủ đó khi họ không còn xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Trong nhà nước dân chủ - nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa có cơ chế bảo đảm cho quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, chứ không phải chỉ là sự ghi nhận về mặt hình thức. Hiến pháp Xã hội chủ nghĩa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan và nhân viên nhà nước là 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan