ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỲNH ANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
GÂY RA THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỲNH ANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
GÂY RA THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu
Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA
7
1.1. Trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Luật
Dân sự
7
1.1.1. Trách nhiệm dân sự
7
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
12
1.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 15
1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái
pháp luật gây ra
19
1.2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi trái pháp luật gây ra
22
1.2.2. Nguyên tắc BTTH ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây
ra theo BLDS 2005
40
1.3. Lịch sử pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi trái pháp luật gây ra.
1.3.1. Trước khi có BLDS 1995
1.3.2. Từ năm 1995 đến nay 49
43
43
Chương 2: TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY
RA TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
2.1.
53
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm quyền
lợi người tiêu dùng
53
2.1.1. Người tiêu dùng và hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
53
2.1.2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng.
60
2.2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi làm ô nhiễm môi
trường
64
2.2.1. Môi trường và hành vi gây ô nhiễm môi trường
64
2.2.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường
2.3.
68
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm mồ mả
2.3.1. Mồ mả và hành vi xâm phạm mồ mả
81
2.3.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả
85
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN 91
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra
91
3.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm mồ mả
91
3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
95
81
3.1.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường 102
3.2.
Hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể. 107
3.2.1. Đối với hành vi xâm phạm quyên lợi người tiêu dùng 107
3.2.2. Đối với hành vi xâm phạm mồ mả 111
3.2.3. Đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường 113
KẾT LUẬN 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO 123
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình khoa học của riêng tôi, không
sao chép. Kết quả nghiên cứu được công bố trong luận văn chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ trích
dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để cho tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Quỳnh Anh
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bảo vệ môi trường
BVMT
Bộ luật Dân sự
BLDS
Bồi thường thiệt hại
BTTH
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
BTTHNHĐ
Người tiêu dùng
NTD
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
TNBTTH
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
TNBTTHNHĐ
Trách nhiệm dân sự
TNDS
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp
luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Hiện nay, pháp luật
Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản của các cá nhân và tổ chức khác
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những
chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Ở các quốc gia khác nhau,
qua các thời kỳ lịch sử, quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng
có sự khác nhau về cách thức bồi thường, mức độ bồi thường, cách xác định
thiệt hại cũng như việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khác
nhau. Tuy nhiên trên thực tế để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người có hành vi gây thiệt hại trong quan hệ dân sự mà không có hợp
đồng là rất khó khăn, nó liên quan nhiều đến các căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách
nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật - người có hành vi có lỗi phải bồi
thường thiệt hại. Thực tế cho thấy vẫn đang tồn tại những cách hiểu khác
nhau về lỗi và hành vi có lỗi nên việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn.
Trong thời gian qua, phát sinh nhiều vụ việc do hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại nặng nề đến lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã hội như: san
lấp mồ mả của người khác, vấn đề mất vệ sinh an toàn thực phẩm, các vụ
việc gây ô nhiễm môi trường có quy mô lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường tự nhiên cũng như môi trường sống của con người bị phát hiện.
Việc xử lý các vụ việc nêu trên ngoài chế tài hình sự còn dựa trên căn cứ của
pháp luật về dân sự và hành chính nhưng những chế tài này còn yếu, chưa đủ
sức răn đe. Để tăng tính khả thi của pháp luật, cần phải có quy định thống
nhất về các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
để từ đó xác định trách nhiệm bồi thường một cách chuẩn xác. Trên cơ sở đó,
tôi đã lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do hành vi trái pháp luật gây ra theo Bộ luật dân sự năm 2005” để làm
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Luật Dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật gây ra gồm có: Luận văn thạc sĩ luật học của Lê
Mai Anh “Những vấn đề vơ bản về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
luận văn thạc sỹ luật học của Lê Thị Bích Lan “Một số vấn đề về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và uy tín”; luận văn thạc sỹ của Nguyễn Minh Châu “Bồi thường thiệt hại
trong trường hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, một số vấn đề lí luận và
thực tiễn” - là một trường hợp của trách nhiệm này, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra theo BLDS 2005 đã được luận văn
phân tích, đánh giá khái quát và có phân tích cụ thể 3 trường hợp BTTH
ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra đó là: BTTH do hành vi xâm
phạm mồ mả, BTTT do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, BTTH
do hành vi gây ô nhiễm môi trường một cách có hệ thống và chi tiết.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như
“Bàn về lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS.
Phùng Trung Tập -Trường Đại học Luật Hà Nội (Tạp chí Luật học Số
10/2004); sách chuyên khảo của tác giả, TS. Phùng Trung Tập “BTTH ngoài
hợp đồng do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm” do NXB Hà Nội
xuất bản năm 2009…
Tuy nhiên các công trình trên chỉ nghiên cứu chuyên sâu về phần
chung trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng hoặc chỉ chọn một khía cạnh
nhất định của vấn đề để nghiên cứu mà trên thực tế còn rất nhiều khía cạnh
khác của vấn đề chưa được khai thác, nghiên cứu. Nhận thức được vấn đề
này, đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi
trái pháp luật gây ra theo Bộ luật Dân sự 2005” lần đầu tiên được nghiên
cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, đầy đủ, đảm bảo tính lô
gíc, hệ thống. Đặc biệt có nghiên cứu một số trường hợp cụ thể bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra. Bên cạnh đó, tác giả
luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, luận
án, luận văn và các bài viết đã đạt được cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có
liên quan đến đề tài đang nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn thạc sỹ luật học, tôi tập
trung nghiên cứu về một số trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra bao gồm: bồi thường thiệt hại do
hành vi xâm phạm mồ mả, BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường, BTTH
do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Luận văn đi sâu tìm hiểu
thực trạng của các hành vi vi phạm và việc bồi thường thiệt hại trong một số
trường hợp cụ thể theo pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật, góp phần nâng
cao tính hiệu quả của việc giải quyết trách nhiệm bồi thường trong thực tiễn.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý Việt Nam nói
riêng đều có chung quan điểm về trách nhiệm dân sự. Về nguyên tắc, trách
nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý. Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật chỉ ra rằng: “trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu” [1]. Theo đó trách nhiệm dân
sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm nghĩa vụ dân sự phải gánh chịu.
Hậu quả bất lợi trong trách nhiệm dân sự được xác định bởi đối tượng điều
chỉnh của nó. Đó là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản.
Xem xét dưới góc độ này, BLDS Pháp quy định “hợp đồng giao kết
hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết”, tức là nghĩa vụ hợp
đồng cũng có giá trị như luật [10]. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh
chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự – một loại trách nhiệm pháp lý.
Trách nhiệm dân sự có những đặc điểm riêng biệt thể hiện bản chất
của các quan hệ dân sự trong xã hội đó là:
- Trách nhiệm dân sự là quan hệ luật tư giữa hai chủ thể độc lập có địa
vị pháp lý bình đẳng, và bên vi phạm phải gánh chịu trực tiếp trước bên có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải chịu trách nhiệm trước
Nhà nước hoặc người khác, trừ trường hợp chế tài vô hiệu hợp đồng do
chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội;
- Trách nhiệm dân là trách nhiệm tài sản;
- Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương
xứng với hậu quả của hành vi vi phạm, tức là tương xứng với mức độ tổn thất
về vật chất hoặc tinh thần mà người thiệt hại phải gánh chịu;
- Trách nhiệm dân sự phải được áp dụng thống nhất và như nhau đối
với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Một số quan điểm cho rằng cần phải đưa cả những tổn thất về tinh thần
là một trong những đặc điểm của trách nhiệm dân sự. Nhưng trên thực tế,
mức độ tổn thất về tinh thần rất khó vật chất hoá, do đó, khó có thể xác định
được mức độ tương xứng về bồi thường vật chất và hầu như chỉ đề cập đến
trong việc xâm phạm các quyền về nhân thân, bởi vậy trong những trường
hợp cụ thể thì mới đặt ra vấn đề bồi thường tổn thất về tinh thần.
Có thể khẳng định, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp
lý, khác với trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích
xác lập các chế tài cụ thể. Trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng
phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải có
nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Trách nhiệm
dân sự khác với trách nhiệm hình sự ở chỗ: trách nhiệm hình sự tập trung sự
chú ý vào hành vi; còn trách nhiệm dân sự tập trung sự chú ý vào thiệt hại
hay hậu quả của hành vi. Do đó, trong trách nhiệm dân sự, dù có hành vi vi
phạm nhưng không có sự thiệt hại, thì không dẫn tới nghĩa vụ bồi thường.
Tuy nhiên, trong trách nhiệm hình sự người ta cũng quan tâm tới hậu quả ở
mức độ nhất định. Trong trách nhiệm dân sự đôi khi người ta cũng chỉ chú ý
tới hành vi trong một dạng trách nhiệm nhất định nào đó. Trách nhiệm hình
sự thể hiện sự phản ứng của xã hội đối với kẻ phạm tội trên cơ sở suy diễn
hành vi bị trừng phạt đó chống lại sự bình ổn chung của cộng đồng. Ngược
lại, trách nhiệm dân sự không phải là sự phản ứng của xã hội đối với người vi
phạm mà là sự hỗ trợ của pháp luật đối với người bị thiệt hại do vi phạm gây
ra để khôi phục lại tình trạng tài chính như khi không có sự vi phạm. Vì vậy
các chế tài dân sự mang tính chất tư, chứ không mang tính chất công như chế
tài hình sự. Dù sao cũng có những vi phạm xảy ra làm phát sinh cả trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm lương tâm.
Trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm theo hợp đồng và
trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không
được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, gây thiệt hại cho bên bị vi
phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát
sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và người bị thiệt
hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm ngoài hợp
đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ, nhưng được
phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các qui định
của pháp luật. Tuy nhiên cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là
một nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng
phát sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi pháp
lý. Còn trách nhiệm hợp đồng là nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí
của đương sự, do luật định, tức là dù các bên không thỏa thuận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, nhưng khi xảy ra tình huống được
quy định trong văn bản quy phạm liên quan thì bên có lỗi vẫn phải bồi
thường thiệt hại. Do hợp đồng là sự thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên
cho nên khi hợp đồng bị vi phạm mà không dự tính được và không có quy
định trong hợp đồng thì người vi phạm không mong muốn phải gánh chịu chế
tài như vậy. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng nếu các bên đặt ra các giải pháp và
tự thi hành trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thì không dẫn tới tranh
chấp pháp lý. Pháp luật phải bảo vệ quyền và lợi ích chung của các bên trong
quan hệ xã hội dựa trên những nguyên tắc chung, bởi vậy, nếu các bên có
thỏa thuận và tự nguyện thi hành là một điều tốt, nhưng có những trường hợp
pháp luật phải can thiệp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của một bên cũng
như bảo vệ trật tự trong xã hội.
Nói tóm lại, có thể khẳng định: trách nhiệm dân sự là một chế định lớn,
vô cùng quan trọng, chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý phức tạp. Đây cũng
chính là chế định nền tảng của chế định bồi thường thiệt hại nói chung và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng.
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, xuất phát từ nguyên tắc: Khi
một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì
chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu
một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là
bồi thường thiệt hại mà pháp luật gọi đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
đây là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm
nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý nên
ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực
hiện bằng cưỡng chế nhà nước… thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn có
những đặc điểm riêng sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách
nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Hậu quả pháp lý
khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại
và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều
chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI cùng các
văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2005.
- Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra
khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi
phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của
người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều
kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường
những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều
kiện trên, điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
- Về hậu quả: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một
hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây
ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc
phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không
sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh
thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy
định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính
vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho
người bị thiệt hại.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi
gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với
những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ
của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt
hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy
nghề…
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hạiđược phân thành
trách nhiệm bồi thường thiệt hạitheo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt
hạingoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ: có hợp đồng hay
không có hợp đồng chính là yếu tố quan trọng để từ đó có thể xác định cơ chế giải
quyết bồi thường.Trách nhiệm bồi thường thiệt hạido vi phạm hợp đồng là loại
trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng
gây ra thiệt hại cho người khác thìphải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra. Việc phân biệt giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài
hợp đồng có một ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhất là trong việc xác định nghĩa vụ
chứng minh. Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng
minh lỗi của bị đơn đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Khác hơn, trong trách nhiệm
hợp đồng, nguyên đơn không phải chứng minh lỗi của bị đơn. Ngược lại, bị đơn
phải chứng minh sự vi phạm hợp đồng không do lỗi của bị đơn nếu bị đơn không
muốn gánh chịu chế tài. Trong đời sống xã hội, khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ, mỗi người phải tôn trọng và không được xâm phạm tới lợi ích của người khác,
lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước và phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật tôn
trọng và bảo vệ các quyền dân sự của mọi người và mỗi người. Khi các quyền dân
sự bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự bảo vệ hay yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bảo vệ. Hệ quả tất yếu của các nguyên tắc này là: “Người nào có lỗi cố
ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”(Điều 604,
khoản 1, BLDS 2005)[14].Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hạitheo hợp đồng bao gồm:-Trách nhiệm bồi thường thiệt hạitheo hợp đồng
luôn dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi
thường và người gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa
hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ
là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp đồng. Chính vì vậy, bồi thường
thiệt hạitrong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi Nếu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở
một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp đồng được
hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nàođócó hành vi vi phạm nghĩa
vụ ngoài hợp đồng do pháp luật quy định,xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác thì phải bồi thường thiệt hạido mình gây ra. Hiện nay, pháp luật
Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp đồng đối
vớihành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
của các cá nhân và tổ chức khác.So với trách nhiệm bồi thường thiệt hạitheo hợp
đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp đồng có một số khác biệt như
sau:-Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp
đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.
Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát sinh
trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở
thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc
phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc bồi thường thiệt
hại.-Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài
hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều
kiện đó là: Cóthiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, bồi thường thiệt
hạitheo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên
các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao
gồmđầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn
phải bồi thường thiệt hại.-Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường
thiệt hạingoàihợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật
thì còn áp dụngđối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người
giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân,
trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề...Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt
hạitheo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không
thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng
không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hạimà không được sự đồng ý của họ.-Về mức bồi thường: Bồi
thường thiệt hạingoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường
hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quálớn so với
khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt hạitheo
hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường
bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hạithì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận.Một vấn
đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng
nghĩa vụ đó cũng được pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hạingoài hợp
đồng quy định thì khivi phạm những nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp
đồng hay ngoài hợp đồng và người bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại
trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi thường hay không? Ví dụ theo quy định tại khoản
2 điều 3 Luật khám bệnh, chữa bệnh(có hiệu lực từ 01/01/2011)thì một trong
những nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là:“Tôn trọng quyền của
người bệnh,giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ
sơ bệnh án...”[15], trừ trường hợp được người bệnhcho phép công bố thông tin.
Nhưng trên thực tế, có khá nhiều trường hợp bác sỹ chữa bệnh cho bệnh nhân rồi
lại vi phạm quy định về mổ xẻ hoặc bảo mật thông tincủa bệnh nhân.Hay trường
hợpngười điều khiểnphương tiện giao thông gây tai nạn, làm thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ cho hành khách đi trên phương tiện vận chuyển...Trong trường hợp
này,rõ ràng đã có căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hạitheo hợp
đồng vì bên gây thiệt hại đã có hành vivi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Do đó,bên
bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hạitheo hợp đồng trên cơ sở thoả
thuận của các bên, điều đó có nghĩa rằng,các chủthể trong quan hệ pháp luật dân sự
đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong hợp đồng và thoả
thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự thoả thuận của họ
nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên cũng chỉ có thể áp dụng
một phương thức là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hạitheo hợp đồng chứ không thể
tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình. Ví dụ hành khách bị thiệt hại về
tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành khách các bên có thoả thuận mức
bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp luật quy định về bồi thường thiệt
hạingoài hợp đồng trong trường hợp bị xâm phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại
cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo hợp đồng mà thôi.Chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có hai chức năng chính:Thứ nhất, nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền lợi bị xâm hại.Thứ hai, nhằm răn đe, phòng
ngừa đối với những người có hành vi gây thiệt hại.Tuy nhiên, chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là các quy tắc nhằm khôi phục thiệt hại, bởi
khi thiệt hại đã xảy ra thì không
còn cơ hội để khắc phục, bù đắp được nữa.Thực chất, chế định bồi thường thiệt hại
là quy tắc phân bổ lại thiệt hại trong xã hội giữa các chủ thể có liên quan (tức là
người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hay mộtbên thứ ba nào khác). Chế định này
còn có chức năng ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật (chức năng phòng ngừa).
Chức năng này nhằm làm cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội ý thức được rằng,
nếu họ gây thiệt hại cho chủ thể khác, không những họ sẽ không được khuyến
khích mà còn phải gánh chịu hậu quả bất lợi, thì họ sẽ phải có ý thức kiềm chế
hành vi gây thiệt hại.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngdo hành
vi trái pháp luật gây raTrách nhiệm BTTH được phân chia thành trách nhiệm
BTTH do tài sản gây ra và trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra.Sự
phân chia này căn cứvào nguyên nhân gây ra thiệt hại.Trách nhiệm BTTH do hành
vi của con người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi
thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra.Trường hợp này
người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành
động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trách nhiệm
BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi tài sản là
nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại,
gia súc gây thiệt hại...Mặc dùtrong phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ làm rõ về
trường hợp trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây
ra.Song để thấy rõ được sự khác biệt thì tác giả cũng xin được đề cập một vài điểm
cơ bản nhất về trường hợp trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do tài sản gây ra qua
hai trường hợp cụ thể:Thứ nhất,BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
20Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được
quy định tại Điều 623, BLDS 2005:“Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thườngthiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường
hợp có thoả thuận khác”[14].Như vậy thiệt hại xảy ra do hoạt động của chính
nguồn nguy hiểm cao độ mà không có sự tác động bởi hành vi có lỗi của con
người. Ví dụ trường hợp xe máy bị đứt phanh gây tai nạn, gây thiệt hại cho người
khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe... Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra chỉ được quy định đối với những ngườixung quanh mà không có liên
quan đến việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Trên thực tế, việc xác định chính
xác đối tượng bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý nghĩa rất lớn về
mặt pháp lý. Liên quan tới khái niệm “người xung quanh” và việc xác định đúng
“người xung quanh” có ý nghĩa quan trọng trong việc khoanh vùng đối tượng
hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự hay theo chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm dân sự cho người thứ ba liên quan. Ví dụ trong trường hợp nguồn nguy hiểm
cao độ lại gây thiệt hại cho chính đối tượng sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thí
có thể được xem xét bồi thường theo chế độ bảo hiểm xã hội hoặc bảo hiểm dân
sự.Một điểm đặc biệt trong trường hợp BTTHNHĐ do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra đó là vấn đề liên quan tới điềukiện phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng. Có ba điều kiện bao gồm: có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa
hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra, việc gây thiệt hại là trái
- Xem thêm -