ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ KIỀU MY
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONGLUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ KIỀU MY
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONGLUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ KIỀU MY
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONGLUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI-2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ KIỀU MY
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONGLUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI-2012
MỤC LỤC
TrangMục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
mở đầu1
Chương 1: Những vấn đề chung về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm
trọng9
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam 9
1.1.1.Khái niệm tội phạm về chức vụ 9
1.1.2.Khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng 11
1.1.3. ý nghĩa của việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọngtrong luật hỡnh sự Việt Nam14
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự
Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999 về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêmtrọng 16
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945 17
1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985 23
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 32
1.3. Các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong luật
hình sự một số nước 34
41.3.1.Luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 34
1.3.2. Luật hình sự của Liên bang Nga 37
1.3.3. Luật hình sự Bungary 39
Chương 2: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự
năm 1999 và thựctiễn áp dụng của Tòa án nhân dân thành phốHà Nội từ năm 2001
đến năm 201142
2.1. Nhũngdấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999và phân biệt tội này với một số tội
phạm khác42
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 199942
2.1.2. Phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với một số tội
phạm khác 54
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thànhphố Hà
Nội trong 11 năm (2001-2011) 60
2.2.1.Khái quát tình hình xét xử các tội phạm hình sự của Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội trong 11năm (2001-2011) 60
2.2.2. Thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội trong 11năm (2001-2011) 63
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những nguyên nhân của nó 87
2.3.1. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian qua87
52.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội 92
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự
về tội thiếu tráchnhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và nâng cao hiệu quả công Tác
Đấu TRANH Phòng, Chống Tội Phạm Này TRÊN Địa Bàn Thành Phố Hà nội95
3.1. Những yêu cầu hoàn thiện các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam vànângcao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm này95
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng 97
3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng 104
3.4.Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòngchống tội
phạm thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng 105
Kết luận 112
Danh mục tài liệu tham khảo 114
Danh mục các từ viết tắt
BLHS: Bộ luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND: ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàinghiên cứuTrong những năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức
vàđạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa
được xây dựng, tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường. Đời
sống văn hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt, cuộc sống vật chất và tinh thần của
nhândân được cải thiện;chương trình xóa đói, giảm nghèo được thực hiện đạt nhiều
kết quả nổi bật.Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên
nhân, tình hình tội phạm nói chung, cáctội phạm về chức vụ và tội thiếu trách
nhiệmgây hậu quảnghiêm trọng nói riêng diễn ra tương đối nghiêm trọng và phức
tạp, trên nhiều lĩnh vực vàgây hậu quả nghiêm trọng hơn. Theo đánh giá của các
cơ quan chuyên môn thì tình hình tội phạm về chức vụ ngày càng tăng và mức độ
vi phạm ngày càng nghiêm trọng, các vụ án ngày càngkhó khăn phứctạp hơn, đặc
biệt trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Điều này xuất phát từ tình hình đấu tranh phòng
chống tội phạm về chức vụ chưa cao, tội phạm ngày càng tinh vi hơn, người phạm
tội có chức vụ khá cao tại các cơ quan nhà nước, bản thân đội ngũ cán bộ chưa trau
dồi về phẩm chất đạo đức, một bộ phận bị tha hóa, biến chất hoặc trình độ chưa
đáp ứng với năng lực chuyên môn v.v... Thực tế áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân
dân (TAND) thành phố Hà Nộicho thấy, phần lớn bị cáo bị đưa ra xét xử về
tộithiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng là cán bộ lãnh đạo và chủ yếu trong
lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý nhà nước...Trong Bộ luật hình sự (BLHS) Việt
Namnăm 1999, khái niệm các tội phạm về chức vụ được qui định tại Điều 227,
Chương XXI BLHS là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ
thực hiện trong khi thực hiện công vụ, xâm phạm hoạtđộng đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức. Việc qui định khái niệm tội phạm chức vụ trong BLHS là cần thiết,
đáp ứng yêu cầu khách quan trong phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng phân biệt tội phạm về chức
vụ với các hành vi vi phạm pháp luật khác của người có chức vụ quyền hạn
nhằm xử lý đúng đắn, chính xác đối với tội phạm này.Việc làm sáng tỏ để áp dụng
một cách chính xác các quy phạm này là rất cần thiết và cấp bách, góp phần hoàn
chỉnh thêm các vấn đề liên quan đến các tội phạm về chức vụ. Bởi lẽ, việc áp dụng
đúng đắn và hiệu quả các quy phạm chương tội phạm về chức vụ trong BLHS năm
1999 vào thực tiễn sẽ mang lại những lợi ích thiết thân cho Nhà nước, cho mỗi
công dân và cho toàn xã hội. Đối với Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền sẽ nâng cao uy tín của mình trước nhân dân, làm cho
nhân dân tin vào tính công minh và sức mạnh của pháp luật, qua đó khuyến khích
người dân tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đối
với mỗi công dân sẽ an tâm về hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền mà toàn tâm toàn ý hỗ trợ, cùng với các cơ quan tư pháp này giải
quyết thấu đáo, triệt để vấn đề. Còn đối với toàn xã hội sẽ có được một pháp chế
vững mạnh và chắc chắn -đó chính là nền tảng cơ bản để chúng ta xây dựng thành
công một Nhà nước pháp quyền.Tuy nhiên, đâylà một đối tượng nghiên cứu rất
phức tạp, bởi lẽ: Thứ nhất,các qui phạm về tội về chức vụ quy định trong pháp luật
hình sự thực định của nước ta còn thiếu rõ ràng và cụ thể, đôi khi chưa có sự thống
nhất như giữa các văn bản quy phạm pháp luật như: khái niệm chứcvụ quy định tại
BLHS, Luật cán bộ công chức và Luật phòng chống tham nhũng không thống nhất;
bản chất pháp lý của các tội phạm về chức vụ cũng như của tội thiếu trách
nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng,v.v...
Thứ hai,đây là vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực về phòng chống tham nhũng, về
cán bộ công chức...do đó việc làm rõ vấn đề này cần phải có sự phối kết hợp đồng
bộ của các luật liên quan. Tuy nhiên, dấu hiệu định lượng về thế nào là gây hậu quả
nghiêm trọng...lại chưa có sự thống nhất về mặt quan điểm cũng như sự nghiên cứu
rõ ràng của các nhà lý luận. Vì vậy, việc nghiên cứu về chương tội phạm về chức
vụ là rất cần thiết, nhưng cũng không thể có sự hoàn thiện ngay bởi điều đó cần
đến sự giúp đỡ đồng bộ và toàn diện của các phạm trù có liên quan nữa.Ngoài ra,
do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng còn chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ; đặc
biệt là thiếu các quy định liên quan đến các yếu tố định lượng và định khung hình
phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong việc nhận
thức các dấu hiệupháp lý, việc định tội danh và đường lối xử lý đối với các tội
phạm này. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận
về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng nói chung và thực tế áp dụng tại
TANDthành phốHà Nộinói riêng, qua đó đánh việc xétxử trong thực tiễn để đưa ra
kiến giải lập pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
quy phạm của tội phạm này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý
luận -thực tiễn và pháp lýquan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính
vì vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài "Tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng
trong luậthình sự Việt Nam"làm luận văn thạc sĩluật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứuđề tàiDướigóc độ thực tiễn:Tòa án nhân dân tối
cao(TANDTC)đã cóvăn bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến
các tội này như Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướngdẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của
BLHSnăm 1985.Tuy nhiên,tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một văn bản nào
của cơ quan nhà nướccó thẩm quyền hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết các dấu
hiệu về định lượng "hậu quả nghiêm trọng","hậu quả rất nghiêm trọng"hay "hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng"trong tội phạm này.Cũng như các tiêu chí đánh giá tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tiêu chí về để định tội
danh, tiêuchí để phân biệt với các tộiphạm khác có cùng tính chất.Dưới góc độ
khoa học pháp lý:Việc nghiên cứu tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào
tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật -Đại học Quốc gia Hà
Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Namvà một số
cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kểđến một số giáo trình, sách chuyên khảo hay
những bài viết như: GS.TSNguyễnNgọc Hòa-Các tội phạm về chức vụ, trong Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm), tập thể tác giả do TSKH.GS Lê
Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; GS.TS Võ Khánh Vinh
(chủ biên),Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm),Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được
nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quếnhư Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 -Phần chung, Nxb Thành phốHồ Chí
Minh, 2000; Bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập V, các tội phạm về chức vụ,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Bên cạnh đó, còn phải kể đến một số luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu các tội
phạm về chức vụ. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn xét xử đối với tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứuLuận vănnghiên cứu và làm sáng tỏ nhữngvấn đề lý luận
và thực tiễn về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng theo luật hình sự
Việt Namcụ thể là: khái niệm chức vụ, khái niệm tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng, nguyên nhân, điều kiện củatội phạm, những đặc trưng của tội thiếu
trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng, so sánh vớicác tội thiếu trách nhiệm khác
vàtội phạm với các tội phạm khác cùng chương, kết hợp với thực tiễn áp dụng,
xétxử để qua đó chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và đề xuất các kiến giải lập pháp
cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứuTrong khuôn khổ của mộtluận văn thạc sĩluật học, luận
văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội thiếu trách nhiệmgây hậu
quả nghiêm trọng theo luật hình sự Việt Namdưới góc độ của luật hình sự, thực
tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2001-2011, đồng
thời cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụnghình sự nhằm hỗ trợ cho
việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục đíchnghiên cứuMục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ
thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng theo luật hình sự Việt Namvà việc áp dụng các quy định của
BLHSnăm 1999 về tội này trong thực tiễn xét xử, từ đó rút ra những tồn tại, bất
cập để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của quy phạm
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theoluật hình sự nước ta, cũng
như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quảáp dụng các quy định của BLHShiện
hành về tội phạm này trong thực tiễn xét xử.
4.2.Nhiệm vụ nghiên cứuVề mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các chính sách
hình sự của Nhà nước về của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong
luật hình sự Việt Nam, phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đặcđiểm của tội
phạm, phân biệt tội phạm với các tội phạm khác cùng chương, phân biệt tội phạm
với các tội về quản lý kinh tế, phân tích nội dung và điều kiện áp dụng tội phạm,
các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự của tội phạm trong BLHSnăm 1999 hiện
hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của quy phạm theo
luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy
phạm pháp luật hình sự của tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng trong
thực tiễn xét xử tại TAND thành phốHà Nội, đồng thời phân tích những tồn tại
xung quanh việc lập pháp và áp dụng pháp luật nhằm đề xuất và luận chứng sự cần
thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy phạm
pháp luật về tội này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận Cơ sở lý luận của luậnvănlà quan điểm của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu
tranh phòng và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng như thành
tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà
nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng
hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu,
sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật
hình sự Việt Namvà nước ngoài.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thểLuận văn sử dụng một số phương pháp
tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương
pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp xã hội
học như thống kê, định lượng, định tính...để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa
học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận
văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1.Về mặt lý luậnLuận văn nghiên cứu một cách tương đối hệ thống và toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm
trọng theo luật hình sự Việt Namở cấp độ một luận văn thạc sĩluật học. Luận văn
còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học -luật
gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứusinh chuyên
ngành tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
6.2.Về mặt thực tiễnLuận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều
kiện cụ thể của các trường hợp phạm tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng"trong thực tiễn điều tra, truy tố, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các
quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh lập pháp, cũng như
việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của
pháp luật nước ta về tội này để rút ra những nhận xét, đánh giá. Phân tích thực tiễn
xét xử tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng trong thực tiễn của cơ quan
TAND thành phốHà Nội từ năm 2001 đến năm 2011, qua đó góp phầnđánh giá
đúng thực trạng phạm tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng"tại địa bàn
thành phố Hà Nội, những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những khó khăn khi
xét xử loại tội phạm này trên thực tế. Đặc biệt, luận văn còn chỉ ra một số tồn tại,
vướng mắc trong thực tiễn và những nguyên nhân của thực trạng này để đề xuất
nhữnggiải pháp khắc phục.
7. Kết cấucủa luận vănNgoài phần mở đầu, kết luậnvàdanh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văngồm 3 chương:
Chương 1:Những vấn đề chung về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng.
Chương 2:Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự
năm 1999 và thực tiễn áp dụng của Tòaán nhân dân thành phố Hà Nội trong
11năm (2001-2011).
Chương 3:Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội thiếu
trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng,chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1Những vấnđề chung về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng
1.1.Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng trong Luật hình sự Việt Nam
1.1.1.Khái niệm tội phạm về chức vụTheo quan điểm của triết học Mác -Lênin, tội
phạm là một hiện tượng xã hội có nguyên nhân phát sinh do những điều kiện kinh
tế -xã hội nhất định, gắn liền với sự phát triển của xã hội.Tại Điều 8 BLHSnăm
1999 thìkhái niệm về tội phạmđược quy địnhnhư sau:Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa[42].Là một loại tội phạm nên về bản chất cáctội
phạm về chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng nói
riêng thống nhất với bản chất được nêu trong khái niệm chung về tội phạm.Tội
phạm về chức vụ theo pháp luật Việt Namlà những hành vi vi phạm pháp luật do
những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi đang thực hiện nhiệm vụ
của mìnhhoặc người khác thực hiện liên quan đến công vụ một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm chế độ quy định về hoạt động đúngđắn của cơ quan, tổ chức, xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.Theo quy định của BLHS năm 1999,các tội phạm về chức vụquy định tại
Chương XXI và được chiara hai mụclà: Mục A-các tội phạm về tham nhũng và
Mục B-các tội phạm khác về chức vụ.Trong đó, tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trong nằm trong Mục B của chương này. Do vậy, trước khi tìm hiểu khái
niệm và ý nghĩa của việc ghi nhận tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng trong BLHSViệt Nam, cần nghiên cứu về các đặc điểm chung các tội phạm
về chức vụ.Từ khi thành lập nước cho đến trước khi BLHSđầu tiên được chính
thức thông qua, khái niệm tội phạm về chức vụ chưa được qui định cụ thể trong
các văn bản pháp luật hình sự. Những hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn cụ thể
để làm những việc sai trái đều bị xử lý bằng các biện pháp kỷ luật của Đảng, kỷ
luật của Nhà nước hay bằng các biện pháp hành chính. Chỉ sau khi BLHS
năm1985 ra đời, khái niệm tội phạm về chức vụ mới được qui định tại Điều 219 và
hiện nay được qui định tại Điều 277 BLHS năm 1999; cụ thể là:Các tội phạm về
chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thực hiện công vụ.Người có chức
vụ quyền hạn nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công
vụ[42].Tuy nhiên, theo khái niệm tội phạm về chức vụ này thì có những tội không
quy định tại chương các tội phạm về chức vụ nhưng lại là những tội do người có
chức vụ quyền hạn thực hiện, ví dụ như tội cố ý làm trái các quy định Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai...Mặt khác, có những tội được qui định tại chương các tội phạm về
chức vụ nhưng lại do người không có chức vụ quyền hạn thực hiện như tội đưa hối
lộ, tội môi giới hối lộ, tội lợi dụngảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn
để trục lợi... Do vậy, có thể thấy khái niệm tội phạm về chức vụ được qui định tại
Điều 227 BLHS trong mục Các tội phạm về chức vụ chưa thật sự đầy đủ. Đặc
điểm chung của cỏc tội phạm về chức vụ là những hành vi (hành động hoặc không
hành động) của người có chức vụ quyền hạn xâm phạm đến hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức. Mọi hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan,
tổ chức đều có thể gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Đó có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại phi
vật chất. Về hậu quả được chia thành hai nhóm: nhóm tội bắt buộc phải gây hậu
quả nghiêm trọng và nhóm tội không cần dấu hiệu hậu quả. Về chủ thể, hầu hết
các tội phạm trong nhóm tội phạm này có chủ thể đặc biệt là người có chức vụ
quyền hạn, một số tội phạm có chủ thể chung (vừa là người có chức vụ quyền hạn,
vừa có thể là người khác), có một tội chủ thể không phải là người có chức vụ
quyền hạn.Về lỗi, hầu hết tội về chức vụ được thực hiện với lỗi cố ý (tội tham ô tài
sản, tội nhận hối lộ v.v...), chỉ có ba tội được thực hiện với lỗi vô ý (tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tội vô ý làm lộ bí mật công tác và tội làm mất tài
liệu bímật công tác). Về động cơ phạm tội, chỉ có tội lạm quyền trong khi thi hành
công vụ và tội giả mạo trong công tác là những tội phạm đòi hỏi dấu hiệu động cơ
vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ quan của tội
phạm. Về mục đích, chỉ có một số tội quy định mục đích là dấu hiệu bắt buộc về
mặt chủ quan của tội phạm
1.1.2.Khái niệm tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọngTội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được qui định trong chương các tội phạm chức
vụ, nó được tách ra với phần các tội phạm về tham nhũng để phân biệt với các tội
phạm về chức vụ có liên quan đến tham nhũng, và cũng để phân biệt với các tội
phạm thiếu trách nhiệm khác liên quan đến chức vụ, quyền hạn đặc biệt (như được
giao quản lý vũ khí, vật liệu nổ, được giao quản lý tài sản của Nhà nước, được giao
quản lý người bị giam, giữ...).Bản chất của tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng không khác với bản chất chung của tội phạm. Điểm đặc trưng làm cơ
sở để xây dựng khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng gồm ba
yếu tố: 1) Dongười có chức vụ quyền hạn thực hiện; 2) Do thiếu trách nhiệm mà
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao;3) Gây hậu quả
nghiêm trọng.Trước hết, người thực hiện tội phạm phải là người cóchức vụ,quyền
hạn. Chỉ những người được giao nhiệm vụ mà không thực đúng nhiệm vụ được
giao mới là chủ thể của tội phạm. Theo Từ điển Tiếng Việt "Chức"có nghĩa là
"Danh vị thể hiện cấp bậc, quyền hạn và trách nhiệm của một người trong hệ thống
tổ chức của Nhà nước hay đoàn thể" và "chứcvụ"được hiểu là "nhiệm vụ tương
ứng với chức" [31, tr. 185]. Bản thân một người có chức vụ là người phải có trách
nhiệm với nhiệm vụ được giao tương ứng với chức vụ của mình.Thứ hai,người có
chức vụ này đã không làm hoặc làm không đúng nhiệm vụ của mình. Cũng theo Từ
điển Tiếng Việt thì "Trách nhiệm"là "phần việc được giao cho hoặc coi như được
giao cho, phải đảm bảo làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu
quả" [31, tr. 885]. Như vậy, "Thiếu trách nhiệm"có thể hiểu là người có
chức vụ đã không làm, làm không đúng, làm dưới mức yêu cầu công việc tương
ứng với nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, là hậu quả của hành vi thiếu trách nhiệm. Người có chức vụ quyền hạn đã
không làm đúng nhiệm vụ được giao nếu việc không làm, hoặc làm không đúng
này gây ra hậu quả nghiêm trọng.Nếu không có hậu quả hoặc hậu quả không liên
quan đến hành vi của người có chức vụ thì không phải là tội phạm này.Dưới góc độ
khoa học, hiện nay chỉ tồn tại một số quan điểm khoa học địnhnghĩa tội phạm này
trong sách báo pháp lý, nhưng về cơ bản đều thống nhất nội hàm khái niệm
này.Tác giả Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa: "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ
được giao gây hậu quả nghiêm trọng"[35, tr. 243].Thạc sĩluật Vũ Mạnh Thông và
thạc sĩluật Đoàn Tấn Minh có quan điểm: "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng, được hiểu là hành vi của người có chức vụ quyền hạn không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao (dẫn đến) gây hậu quả nghiêm
trọng"[30, tr. 497].Tóm lại, trên cơ sở khái niệm chung về tội phạm và các đặc
điểm vừa phân tích có thể đưa ra khái niệm tội phạm này như sau: Tội thiếu trách
nhiệm gâyhậu quả nghiêmtrọng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định
trongBLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự do bổ nhiệm, bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không được hưởng lương được giao một công vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thi hành công vụ đã không thực hiện hay thực hiện
không đúng nhiệm vụ được giao xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan,
tổ chức gây hậu quả nghiêm trọng.Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy tội
phạm này có một số đặc điểm cơ bản như sau
Một là, tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được qui định tại BLHS, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức.Hai là,tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.Ba là,tội phạm
gây ra hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thực hiệnhoặc thực hiện không
đúng nhiệm vụ được giao của người có chức vụ, quyền hạn.
1.1.3. ý nghĩa của việc qui định tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm
trọngtrong luật hỡnhsự Việt NamTội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng được qui định tại Điều 285 BLHSnăm 1999 -điều đầu tiên của Mục B, phần
các tội phạm khác về chức vụ; do đó, vị trí thể hiện nhận thức đúng đắn về ý nghĩa
của qui định về tội phạm này.Việc qui định tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để đấu tranh chống lại hành vi vô
trách nhiệm, tắc tráchcủa những người có chức vụ, quyềnhạn trong việc thực hiện
nhiệm vụ được giao, nhằm đảm bảo sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân; bảo vệ tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
tài sản của Nhà nước,có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, cụ thể là:Thứ
nhất,qui định tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng là sự ghi nhận và bảo
đảm sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, là một biểu hiện của bảo vệ
phápchế xã hội chủ nghĩa. Điều 12 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam qui định: Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp
luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật[41].Nhà nước ta làcủa nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, do vậy cán bộ, công chức, những người được giữ
chức vụ, quyền hạn nhất định phải làm tròn nhiệm vụ của mình để phục vụ Nhà
nước và nhân dân. Ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến hoạt động của cơ quan
nhà nướcbằng pháp luật hình sự là phương pháp bảo đảm hữu hiệu nhất, mang lại
hiệu quả mà vẫn có tác dụng giáo dục.Thứ hai,việc qui định tội thiếu trách
nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm
của các cán bộ công chức khi thực hiện nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Điều 8 Hiến pháp năm 1992 qui định: "các cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức phải tôn trọng nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng" [41]. Đồng
thời Điều 9 Luật cán bộ công chức cũng qui định rừ về nghĩa vụ của cán bộ công
chức trong khi thi hành công vụ phải "thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm
về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao" [46]. Hiện nay Đảng và Nhà
nước đang chú trọng cải cách hành chính, đơn giản hóa và công khai minh bạch
các thủ tục hành chính, điều đó cũng có nghĩa là người cán bộ công chức phải nâng
cao trách nhiệm của mình trong công tác. Cụ thể hóa nội dung này, Nghị quyết
48/NQ-TWngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Namđến năm 2010, định hướng 2020"đã chỉ rõ quan
điểm này. Nghị quyết nhấn mạnh định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật"về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân"[15].Thứ ba,quy định về tội thiếu trách nhiệmgây hậu quả
nghiêm trọng là nội dung cụ thể hóa nhiệm vụ của BLHSViệt Namđã được ghi
nhận tại Bộ luật này, đó lànhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp phápcủa công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Bảo vệ hoạt động bình
thường,đúng đắn của cơ quan, tổ chức nhà nước chính là bảo vệ Nhà nước, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là bảo vệ đến tính mạng, sức khỏe, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.Với những ý nghĩa nêu trên, tội thiếu trách
nhiệmgây hậu quả nghiêm trọng cần phải được các nhà làm luật nước ta qui định
một cách chính xác, khoa học, đầy đủ và áp dụng nghiêm minh, hiệu quả trên thực
tế.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự
Việt Namtừ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọngTừ khi hình thành nhà nước, bất
kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy
của mình, bởi lẽ "Nhà nước là hìnhthức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức
quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi
ích trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ
bản chất xã hội" [38, tr. 87]. Vì vậy, trong quá trìnhdựng nước và giữ nước, xây
dựng,việchoàn thiện và bảo vệ bộ máy nhà nướcnói chung và đội ngũ cán bộ, công
chức nóiriêng luôn là nhiệm vụ quan trọng. Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự
của mỗi thời kỳ không thể không nghiên cứu các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn
hoá của từng thời kỳ ban hànhcác văn bản pháp luật đó. Pháp luật hình sự luôn thể
hiện hai mặt cơ bản:Một là, sự kết tinh những giá trị phổ biến, những kinh nghiệm
về đấu tranh phòng chống các tội phạm qua các giai đoạn phát triển của thời
kỳ.Hai là, pháp luật hình sự ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp và trật tự xã hội
theo quan điểm của giai cấp thống trị.Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử pháp luật hình
sự phải nghiên cứu đồng thời cả hai mặtcơ bản đó để rút ra những giátrị hợp lý
nhằm kế thừa và phát triển, từ đó mới thấy rõ vaitrò, chức năng, nhiệm vụ của pháp
luật hình sự trong từng giai đoạn lịch sử. Qua nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự
Việt Namvề các tội phạm về chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệmgâyhậu quả
nghiêm trọng nói riêng, có thể chia thành các giai đoạnsau đây.
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Namđến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945-Thờikỳ nhàLê:Nghiên cứu pháp luật thời kỳ Lê,điển hình là Bộ luật
Hồng Đức được soạn thảo dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàn thành năm1483,
gồm 6 quyền với 13 chương, 722 điều qui định tất cả các mối quan hệ pháp luật có
trong thời bấy giờ. Đa phần các điều luật được xây dựng theo phương thức cả ba
bộphận là giả định, qui định và chế tài đồng thời xuất hiện trực tiếp, thậm chí ngay
trong một điều luật.Bộ luật Hồng Đức đặc biệt lưu ý đến việc giữ gìn kỷ cương
phép nước: Người xưa có nói: mọi sự rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn về kỷ
cương. Giữ nghiêm kỷ cương là phải giữ gìn từ những kỷ cương hàng ngày, từ
những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt nhất. Kỷcương nhỏ nhặt nhất không giữ
được thì làm sao giữ nổi kỷ cương phép nướcBộ luật Hồng Đức đó dành một
chương riêng, chương Vi chế để qui định các qui tắc dành cho các quan trong Triều
đình, trong đó có khá nhiều điều điều chỉnh về việc trách nhiệm thực hiện công vụ
của quan lại. Điều 27 chương Vi chế (Điều 123 Quốc triều hình luật) qui định về
việc Soạn thảo chiếu chế có lầm lẫn có nội dung như sau: Phàm phải theo chiếu
chế mà lại quên, nhầm hay viết chiếu chế mà sai chữ thì xử phạt 30 trượng, thảo sai
ý chỉ nhà vua thì xử tội biếm hay đồ tuỳ theo trường hợp nặng, nhẹ. Vì người khác
truyền đạt lại cho mà thảo sai thì được giảm tội một bậc"[59, tr. 17].Điều luật cho
thấy kỹ thuật lập pháp của người xưa làrất chặt chẽ, đã phân ra các khung khoản
khác nhau trong một điều luật, trong đó có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt là "vì người
khác truyền đạt lại mà thảo sai thì được giảm tội một bậc". Về nội dung, đây là
điều luật qui định về trách nhiệm của quan lại trong việc soạn thảo các chiếu chỉ,
công văn của nhà vua, theo đó thì người nào quên, nhầm mà viết sai thì bị phạt
- Xem thêm -