Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo phá...

Tài liệu Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh hà nam

.PDF
90
539
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH HẢI TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM Chuyên ngành Mã s : Luật h n s v t t n n s : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Đình Nhã. Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thanh Hải MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY ........................................................................................................... 76 1.1. Nhận thức chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy ............................................................................. 76 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam ............. 11 10 Chương 2: TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999........................................................ 16 15 2.1. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy .................................................................. 16 15 2.2. Đường lối xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy ........................................................................... 26 25 Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015............ 45 44 3.1. Khái quát tình hình xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015 ................................................................................................................. 45 44 3.2. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015…………………………............................................................. 48 3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam………………………………………………………………………. 63 3.4. Một số đánh giá, nhận xét về hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam............................................................................................................ 70 70 3.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam………………………………………………………………………. 72 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Trọng lượng (thể tích) các chất ma túy quy định trong các khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194 BLHS năm 1999………………………….. 35 Bảng 3.1: Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015…………...……………………… 45 Bảng 3.2: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo bị về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy so với các tội phạm về ma túy và các tội phạm khác trên địa bàn Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015 ……………………………………………………………… 46 Bảng 3.3: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015……………………………… 47 Bảng 3.4: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015……………………………….……… 48 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự CTTP Cấu thành tội phạm CƯ 1961 Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 CƯ 1971 Công ước về các chất hướng thần năm 1971 CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam UNODC Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra QĐHP Quyết định hình phạt MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề quan trong để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh, tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Tình hình tệ nạn và tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp, trong đó có các tội phạm về ma túy. Mức độ gia tăng các loại ma túy và lạm dụng ma túy hiện nay dẫn đến hàng loạt các vấn đề: sự xuống cấp đạo đức xã hội, các tệ nạn xã hội và tội phạm phát sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tệ nạn ma túy, trong những năm qua, bằng nội lực của mình kết hợp với sự giúp đỡ, phối hợp của cộng đồng quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tiếp tục chủ động triển khai đồng bộ và toàn diện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Một trong những biện pháp có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy là hoạt động xét xử của Tòa án. Bằng việc ra bản án nghiêm minh, đúng pháp luật, nó vừa có tác dụng giáo dục, trừng trị người phạm tội vừa có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung một cách có hiệu quả. Hà Nam là một tỉnh nhỏ, dân số không nhiều (diện tích khoảng 823,1 km2, dân số khoảng 785.057 người) nhưng với đặc điểm là một tỉnh đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía nam thủ đô Hà Nội, có hệ thống giao thông thuận lợi, có đường sắt, đường thủy và đường bộ nối liền các tỉnh, thành phố khác, giáp danh các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, Hòa Bình và thành phố Hà Nội; số thanh niên đi làm ăn, buôn bán ở các thành phố lớn chiếm 1 tỷ lệ không nhỏ. Những năm gần đây Hà Nam thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Tất cả các điều đó tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội du nhập và phát triển, trong đó có tệ nạn và tội phạm về ma túy. Theo nhận định của cơ quan chức năng và theo số liệu khảo sát thì tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam còn diễn biến phức tạp, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động, tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng, gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Trước thực trạng đó, các cơ quan chức năng, trong đó có Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà Nam, theo chức năng, nhiệm vụ của mình đã tích cực, nỗ lực xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án về ma túy, đặc biệt quan tâm tăng cường xét xử lưu động nhằm tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối tượng có ý định phạm tội. Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã đạt được những kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả chưa cao, còn có những sai sót nhất định, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trên địa bàn. Những sai sót đó, chủ yếu là do đội ngũ Thẩm phán, công chức Tòa án năng lực còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao, cùng với đó thì còn do những quy định của pháp luật hình sự về tội này có những bất cập cần phải được bổ sung, sửa đổi. Xuất phát từ những lý do trên, học viên xin lựa chọn đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật Hình s Việt Nam từ th c tiễn tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khi chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tham khảo: 2 Về sách, giáo trình gồm có: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), GS-TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học Xã hội năm 2014; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS-TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2001; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS-TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân năm 2013; Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Th.s Đinh Văn Quế, Nxb Lao động năm 2012; Về các luận văn, công trình nghiên cứu gồm có: Luận án tiến sĩ Luật học của Trần Văn Luyện với đề tài: “Phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân” năm 1999; Luận văn thạc sĩ Luật học của Ngô Thị Thanh: “Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh ” năm 2014; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy ở Việt Nam” năm 2007; Đề tài cấp bộ “Những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về ma túy - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Ths. Nguyễn Quang Lộc (chủ biên), Tòa án nhân dân Tối cao năm 2002;… và nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. Các công trình nghiên cứu trên rất có giá trị liên quan đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và tình hình thực tiễn rất đáng được tham khảo và kế thừa khi thực hiện đề tài “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích những khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu, phân tích thực tiễn xét xử các tội này trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015, qua đó chỉ ra những 3 thành tựu, hạn chế đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó; từ đó đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. 3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trê, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây: + Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: chất ma túy, các tội phạm về ma túy và khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. + Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam vê tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo Điều 194 BLHS năm 1999. + Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam. - Phạm vi nghiên cứu: + Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy và những văn bản pháp luật có liên quan dưới góc độ pháp luật hình sự. + Về thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ năm 2010 đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Hà Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4 Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời dựa trên các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, có sử dụng các văn bản pháp luật, các báo cáo tổng kết xét xử, các tài liệu trong nước có liên quan. Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn là công trình khoa học pháp lý về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Nam nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: - Chương 1: Những vấn đề chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. - Chương 2: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. - Chương 3: Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY 1.1. Nhận thức chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy 1.1.1. Khái niệm chất ma túy Đến nay, trên thế giới chưa có một khái niệm thống nhất về ma túy hay chất ma túy. - Theo định nghĩa của Liên hợp quốc:“Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho con người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật và chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật” [50]. - Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì: Ma túy là các chất độc, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng. Năm 1982 WHO đã phát triển định nghĩa Ma túy như sau: “Ma tuý theo nghĩa rộng nhất là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật” [52]. - Theo UNODC, “chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa: trong y học, nó đề cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa bệnh hoặc tăng cường và phục hồi thể chất hoặc tinh thần; trong dược học, nó có nghĩa là bất kỳ tác nhân hóa học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý của tế bào sinh vật. Các loại chất ma túy được mô tả bằng nhiều cách khác nhau, 6 tùy thuộc vào nguồn gốc và tác dụng. Chất ma túy có thể có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng hợp hoặc tổng hợp. Trong bối cảnh kiểm soát ma túy quốc tế , “chất ma túy” có nghĩa là bất kỳ các chất được liệt kê trong Phụ lục I và II của Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, dù là tự nhiên hoặc tổng hợp [51]. - Theo quy định của pháp luật Việt Nam: Theo từ điển tiếng Việt thì ma túy là những chất thuốc làm đê mê tinh thần, cảm giác bạc nhược hay buồn ngủ, phần nhiều rút trong á phiện [44]. Luật phòng chống ma túy năm 2000 quy định: Chất ma tuý là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh các danh mục do Chính phủ ban hành. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện với người sử dụng. Tiền chất là các chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất ma tuý được quy định do chính phủ ban hành. Thuốc gây nghiện, hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong danh mục do Bộ Y tế do chính phủ ban hành [30]. Các chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ Việt Nam ban hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, gồm có 235 chất ma túy chia thành 3 danh mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất chất ma túy [3]. Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần, được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành”[1]. 1.1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực 7 trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân; xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”[24]. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm tội phạm về ma túy như sau: Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và bị xử lý bằng hình phạt. Theo Thạc sĩ Đinh Văn Quế: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy” [20, tr. 78]. Từ khái niệm “Tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, khái niệm “Các tội phạm về ma túy”, có thể đưa ra khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, bao gồm các hành vi: cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, chiếm đoạt (bằng mọi hình thức) chất ma túy, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được thể hiện qua bốn yếu tố của cấu thành tội phạm, đó là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. 8 * Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy. Đối tượng tác động của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là các chất ma túy. Theo Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần, được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành”. * Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do Luật hình sự quy định, đó là: Hành vi phạm tội; hậu quả nguy hại; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra; công cụ, phương tiện phạm tội,.. Đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì dấu hiệu hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội,..không phải là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ cần dấu hiệu hành vi là đủ. * Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của BLHS. * Mặt chủ quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy 9 Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó đã thực hiện. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được thực hiện với lỗi cố ý, trong đó tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy bao giờ cũng được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp còn tội chiếm đoạt chất ma túy có thể thực hiện với cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng t án 8 năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình s Việt Nam năm 1985 có iệu l c thi hành Sau khi giành được chính quyền ngày 2/9/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từng bước xây dựng hệ thống pháp luật, coi thuốc phiện là độc dược và chủ trương hạn chế, từng bước xóa bỏ trồng cây thuốc phiện, vận động đồng bào vùng cao bỏ hút thuốc phiện. Ngày 5/3/1952, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Theo các Điều 1,2,3 và 4 của Nghị định này thì cây thuốc phiện chỉ được trồng ở thượng du Bắc bộ, Liên khu 4; gười trồng cây thuốc phiện phải nộp thuế bằng hiện vật là 1/3 số nhựa thuốc phiện thu được, phần còn lại phải bán toàn bộ cho mậu dịch quốc doanh. Điều 5 Nghị định quy định: “Ngoài cơ quan chuyên trách, không ai được tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi”. Tiếp theo đó, Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1952 của Thủ tướng Chính phủ quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; phạt tiền 10 từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu, gười vi phạm có thể bị truy tố trước Tòa án. Hai Nghị định nói trên chỉ đề cập xử lý hành vi “Tàng trữ và vận chuyển trái phép”, không đề cập xử lý hành vi “sản xuất hoặc buôn bán trái phép”. Chính vì vậy, ngày 15/9/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580/TTg quy định các trường hợp này có thể bị đưa ra tòa án để xét xử với mức phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, bị tịch thu tang vật, bị phạt tiền từ một đến năm lần giá trị thuốc phiện buôn lậu. Thông tư 33/VHH-HS ngày 05/07/1958 được ban hành để hướng dẫn đường lối truy tố xét xử buôn lậu thuốc phiện. Sau khi Miền nam được giải phóng, căn cứ vào Nghị định số 76-CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ đã ra Thông tư liên ngành hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước. Tại điểm 2 mục H Thông tư đã xác định Nghị định 580-TTg về trừng trị tội buôn lậu thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước. Trước tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, BLHS năm 1985 ra đời đã có thái độ kiên quyết hơn đối với loại tội phạm này theo hướng cụ thể hóa và tăng cường hình phạt đối với loại tội phạm này. 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình s Việt Nam năm 1985 có hiệu l c thi hành Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII (từ ngày 21-6 đến ngày 27-6-1985), Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được thông qua. Theo BLHS năm 1985 thì chỉ có một điều (Điều 203) quy định riêng về “tội tổ chức dùng chất ma tuý”, còn hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu TNHS theo Điều 97 BLHS “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” và nếu mua bán, vận chuyển trái phép ma túy trong nội địa thì bị truy cứu TNHS theo Điều 166 BLHS “Tội buôn bán hoặc tàng trữ hàng cấm”. Do không đánh giá đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn 11 bán, tàng trữ thuốc phiện và các chất ma túy khác cho nên đã coi ma túy là đối tượng được pháp luật hình sự điều chỉnh ngang hàng với ngoại tệ, kim khí đá quý và chỉ quy định mức hình phạt cao nhất đối với tội này là 20 năm tù. Bên cạnh đó, Điều 166 BLHS cũng chỉ đề cập về TNHS đối với các hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nên hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy trong nội địa không bị truy cứu TNHS. Trước tình hình đó, ngày 2812-1989 Quốc hôi đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, trong đó quy định Điều 96a - Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, đặt trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là tử hình; Điều 203 “Tội tổ chức dùng chất ma túy” có mức hình phạt cao nhất đến mười năm tù [22]. Đến khi ban hành Hiến pháp năm 1992, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã đánh giá được đúng mức tính chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng lớn của các hành vi sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy đến đời sống của toàn nhân dân, việc đấu tranh ngăn chặn ma túy cũng được quy định trong Hiến Pháp 1992 tại điều 61: “…Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm khác” [27]. Cụ thể hóa những tư tưởng trong Hiến pháp 1992, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách hình sự đối với các tội phạm về ma túy. Trong lần sửa đổi, bổ sung năm 1997, BLHS có thêm một chương mới – Chương VIIA các tội phạm về ma tuý với 14 điều luật, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan đến ma tuý thay thế Điều 96a và Điều 203, trong đó các hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy được quy định thành 4 tội riêng biệt; 9/13 tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Cụ thể các tội danh gồm: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 185a); 12 Tội sản xuất trái phép chất ma tuý (Điều 185b); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185c); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185d); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 185đ); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 185e); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185g); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185h); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185i); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185k); tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185l); Tội cưỡng, bức lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185m); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 185n) [23]. BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam, là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Tuy nhiên, qua 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhưng BLHS năm 1985 đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và không còn phù hợp với điều kiện, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội hiện tại, yêu cầu cần phải được sửa đổi một cách toàn diện. Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS 1999, có hiệu lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng là Chương XVIII, gồm 10 tội, từ Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [24]. 13 Kết luận chương 1 Trên cơ sở nghiên cứu các Công ước Quốc tế liên quan đến ma túy, Luật phòng chống ma túy, khái niệm chung về tội phạm trong BLHS năm 1999 và điều 194 BLHS năm 1999, kết hợp với việc tham khảo một số khái niệm, định nghĩa của một số nhà khoa học, tác giả đã đưa ra được các khái niệm: “chất ma túy”, “Tội phạm ma túy” và “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”. Đồng thời với việc đưa các khái niệm, tác giả đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Ngoài ra, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, để từ đó có cách nhìn toàn diện về chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội này. Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, chung nhất của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là cơ sở, là tiền đề để chúng ta tiếp tục nghiên cứu một cách khoa học và cụ thể tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của BLHS năm 1999. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan