Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo luật hình sự việt nam...

Tài liệu Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo luật hình sự việt nam

.PDF
143
1
107

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ VĂN THANH TƯỜNG TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ TUỆ PHƯƠNG Học viên: LÊ VĂN THANH TƯỜNG Lớp: Cao học Luật, Khóa: 29 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu tham khảo, trích dẫn trình bày trong luận văn đều được ghi rõ nguồn và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được bất kỳ tác giả nào công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Lê Văn Thanh Tường DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BLHS : Bộ luật Hình sự 2. TNHS : Trách nhiệm hình sự 3. TAND : Tòa án nhân dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC ..........8 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ..........................................................................................................8 1.1.1 Khái niệm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức .....................8 1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ............................................................................................................................10 1.1.3 Các dấu hiệu định khung của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức ....................................................................................................................14 1.2 Phân biệt tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong luật hình sự với một số tội danh khác ................................................................................15 1.2.1 Phân biệt tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức với tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 340 Bộ Luật Hình sự năm 2015) .............................................................................................15 1.2.2 Phân biệt tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức với tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 342 Bộ luật Hình sự năm 2015) .............................................................................................18 1.3 Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ...............................................................................20 1.3.1 Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ, chức theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 ..............................................................................................20 1.3.2 Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ, chức theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 ..............................................................................................22 1.3.3 Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ, chức theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 ..............................................................................................24 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................26 CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC .................................27 2.1 Khái quát tình hình xét xử tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong những năm gần đây ...................................................................................27 2.2 Thực tiễn định tội danh và vướng mắc trong định tội danh tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức .......................................................................34 2.2.1 Thực tiễn và vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật về dấu hiệu định tội “thực hiện hành vi trái pháp luật” của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ...........................................................................................34 2.2.2 Thực tiễn và vướng mắc định tội danh trong trường hợp mua con dấu, tài liệu giả sau đó sử dụng con dấu, tài liệu giả này để thực hiện hành vi trái pháp luật ......................................................................................................................38 2.2.3 Thực tiễn và vướng mắc định tội danh trong trường hợp làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................46 2.2.4 Thực tiễn và vướng mắc định tội danh tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong trường hợp đồng phạm .......................................................53 2.3 Thực tiễn quyết định hình phạt và vướng mắc trong quyết định hình phạt tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức .............................................58 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................64 CHƯƠNG 3 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC ........65 3.1 Yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức .....................................................................................65 3.1.1 Cơ sở hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ...........................................................................................65 3.1.2 Các yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ...............................................................................67 3.2 Kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ..........................................................70 3.2.1 Sửa đổi Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ................................................................70 3.2.2 Ban hành văn bản hướng dẫn quy định của Bộ luật Hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ................................................................72 3.2.3 Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức .....................75 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................79 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho đất nước phát triển, song song đó cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức phải đối mặt. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, hoạt động sản xuất, làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ngày càng trở nên tinh vi hơn, thủ đoạn hơn, khó phát hiện và diễn biến rất phức tạp. Đồng thời, vì nhu cầu công việc, sự tiến thân, vì những lợi ích bất hợp pháp khác của cá nhân mà không ít người bất chấp quy định của pháp luật để sản xuất, làm giả và sử dụng giấy tờ, tài liệu giả gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội. Hiện nay, không khó để có thể nhận được những tin nhắn hay đọc được những bài đăng, bài giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc cung cấp, trao đổi, mua bán văn bằng, chứng chỉ hay làm các loại giấy tờ, tài liệu khác theo yêu cầu. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật nhưng lại diễn ra một cách công khai như việc mua bán, trao đổi hàng hóa bình thường khác. Kéo theo đó là việc sử dụng các loại giấy tờ, tài liệu giả để xin việc làm, hợp thức hóa các thủ tục để đề bạt, bổ nhiệm; nghiêm trọng hơn là thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thậm chí có trường hợp sử dụng bằng bác sĩ giả để hành nghề gây bức xúc dư luận trong thời gian dài. Những hành vi phạm tội này ngày càng diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng đến các hoạt động của cơ quan, tổ chức, ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sống của người dân. Trên thực tế đã có nhiều trường hợp làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng những giấy tờ, tài liệu giả đã bị phát hiện và xử lý. Tuy nhiên đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm vì còn rất nhiều trường hợp đã và đang xảy ra mà chưa bị phát hiện xử lý. Thực tiễn công tác phòng ngừa tội phạm về làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức còn bộc lộ nhiều hạn chế và chưa mang lại kết quả cao, nhiều khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết. Các biện pháp phòng ngừa với tội phạm này còn chung chung chưa đi vào cụ thể. Trước tình hình đó, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và các quy định của BLHS năm 2015 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm về tội này. Đây chính là lý do, là động lực thôi thúc tác giả chọn đề tài “Tội làm giả con dấu, tài liệu 2 của cơ quan, tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức thu hút được sự quan tâm của công luận và được một số học giả tiếp cận nghiên cứu ở nhiều góc độ với định hướng khác nhau. Có thể kể đến sự đóng góp của một số nhóm công trình nghiên cứu sau: * Sách chuyên khảo: - Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các Tội phạm - Quyển 2), Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 471 tr; - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2 Phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Trần Thị Quang Vinh, Tp. Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức, 2013, 398 tr; - Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2 Phần các tội phạm, Phạm Mạnh Hùng, Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, 463 tr; - Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức, 2013, 338 tr; - Giáo trình tội phạm học 2015, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Tp.Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức, 2015, 338tr; - Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009: Phần các tội phạm, Nguyễn Đức Mai, Nguyễn Ngọc Anh, Trần Văn Luyện...[ và những người khác], Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 2010, 939 tr; - Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm: Bình luận chuyên sâu. Tập 5, Các tội phạm về chức vụ. Đinh Văn Quế, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, 364 tr; - Bình luận khoa học bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: Phần các tội phạm cụ thể, Bộ Tư Pháp, Viện Khoa Học Pháp Lý, Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 2003, 391tr; - Những điều cần biết về quản lý, sử dụng con dấu, Nguyễn Minh Phương, Trần Hoàng, Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia, 1999, 106 tr; 3 * Luận văn Thạc sĩ: - “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo luật Hình sự Việt Nam”, Ngô Trung Tây (2020), Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn phân tích, đánh giá các quy định về hành vi khách quan và dấu hiệu chủ thể của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Luận văn là công trình nghiên cứu theo định hướng ứng dụng nên phần lớn tập trung vào vấn đề thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực tiễn, luận văn đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. - “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)”, Hoàng Văn Bắc (2015), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học, đã đi sâu phân tích, đánh giá các quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định của BLHS 1999 (hiện nay đã hết hiệu lực), phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong phạm vi địa bàn một tỉnh là Phú Thọ. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn luận văn đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. * Các bài viết: - Vướng mắc về định tội danh đối với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, Nguyễn Thành Chung, 2019, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2019, Số 09, tr. 53. Bài viết đã tập trung phân tích một số vấn đề về nhận thức dấu hiệu định tội và vấn đề xác định tính nguy hiểm cho xã hội phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức, thông qua đó đưa ra một số góp ý trong việc hoàn thiện pháp luật về tội danh này. - Bàn về đặc điểm của tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, Trương Thanh Hải, 2016, Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2016, Số 4, tr. 66 – 70. Thông qua việc nghiên cứu và khảo sát thực tiễn các vụ án, bài viết đã tổng hợp và nêu ra những đặc điểm giống nhau của tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ở các vụ án khác nhau. Bài viết là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho quá 4 trình điều tra, chứng minh tội phạm trong xét xử, cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đối với tội phạm này. - Một số kinh nghiệm về áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, Trương Thanh Hà, 2016, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 2016, Số 13, tr. 43 – 48. Bài viết đã nêu ra một số kinh nghiệm về việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn như: thực hiện bắt đối tượng phạm tội, thực hiện tạm giữ, tạm giam; kinh nghiệm về việc thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ như: trưng cầu giám định, khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng trong quá trình điều tra các vụ án làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. - Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án làm giả con dấu, tài liệu trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Ngọc, 2016, Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2016, Số 5, tr. 61 - 63; 73. Bài viết đã nêu lên thực trạng tình hình tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trên địa bàn thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra loại tội này trên địa bàn này. Bài viết là một nguồn tài liệu tham khảo cụ thể về tình hình tội phạm và thực tiễn đấu tranh tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức ở một địa bàn nhất định, ở bài viết này là thành phố Hải Phòng. - Trao đổi bài viết: Trần Thị T có phạm tội "làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức" không?, 2016, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2016, Số 22, tr. 47-50. Bài viết đã tổng hợp và nêu lên những ý kiến trao đổi của các Cộng tác viên, bạn đọc gửi về trang điện tử kiemsat.vn của Tạp chí Kiểm sát về bài viết: Trần thị T có phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” không? - Về việc xác định thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng con dấu liên quan đến tranh chấp trong nội bộ công ty, Nguyễn Như Bích, 2013, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, 2013, Số 15, tr.21-26. Bài viết đã tập trung phân tích thực tiễn, đưa ra các ý kiến, quan điểm bàn về việc xác định thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng con dấu liên quan đến tranh chấp trong nội bộ công ty, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể cho vấn đề này. Những vấn đề mà các công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết và cần tiếp tục được nghiên cứu: 5 Trên cơ sở đưa ra một số vấn đề lý luận về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, các công trình nghiên cứu trên đã giúp người đọc có thể tổng quan được những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Một số bài viết còn chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội phạm này. Các công trình đã nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau như đã nêu trên, tuy nhiên số lượng công trình nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế và còn mang tính khái quát, chỉ nghiên cứu ở một số khía cạnh nhất định mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể về tội danh này. Thông qua đề tài nghiên cứu “tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam” tác giả sẽ phân tích, làm rõ các vấn đề có liên quan mà các công trình nghiên cứu trước đây còn bỏ ngỏ, chưa đề cập hoặc đề cập một cách khái quát, chưa cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu sau này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài Với đề tài nghiên cứu về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam, tác giả mong muốn làm rõ một số vấn đề về hành vi pháp lý, mặt chủ quan, đối tượng tác động và dấu hiệu định tội và thực tiễn xét xử của tòa án so với quy định của Bộ luật Hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Qua đó, tác giả đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong quy định pháp luật và thực tiễn xét xử đối với tội danh này. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm này. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản nhất định và các khía cạnh pháp lý liên quan đến tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn đánh giá tính khả thi của những quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức dựa trên những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó nêu lên những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quy định của luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật. Trên cơ sở những phân tích trên, luận văn đưa ra một số giải pháp, đề xuất hoàn thiện các quy 6 định pháp luật và việc áp dụng thống nhất pháp luật liên quan đến tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trên tinh thần nghiên cứu một cách nghiêm túc, đề tài có thể được dùng làm tài liệu học tập, nghiên cứu cũng như tài liệu tham khảo cho tất cả những độc giả quan tâm đến vấn đề về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu 4.1 Phạm vi nghiên cứu Về mặt không gian: Phạm vi nghiên cứu đề tài là trong lãnh thổ nước Việt Nam thông qua việc thu thập, đánh giá số liệu và tìm hiểu thực tiễn xét xử với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Về mặt thời gian: Tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng thực hiện quy định pháp luật về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức từ sau khi BLHS 2015 có hiệu lực đến nay. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Như đã nêu, mục đích của đề tài này là nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và đề xuất những giải pháp, định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật. Để thực hiện được nhiệm vụ đã đề ra, tác giả sử dụng kết hợp những phương pháp đặc thù của lĩnh vực luật học. Vì đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật nên phương pháp phân tích pháp luật dựa trên các học thuyết sẽ được sử dụng để giải thích, phân tích và đánh giá nội dung của các quy phạm pháp luật và đồng thời hệ thống hóa chúng theo những tiêu chí nhất định và dự đoán hoặc đề xuất xu hướng phát triển của những quy phạm pháp luật đó. Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, từ đó định hướng việc hoàn thiện quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Phương pháp nghiên cứu các vụ án điển hình, phân tích các số liệu thống kê được sử dụng để làm rõ bức tranh hiện thực về tình hình tội phạm của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trên cơ sở sưu tầm và phân tích các vụ án, luận 7 văn làm rõ các bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quy định của luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật hiện nay. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Luận văn đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần bổ sung cho lý luận về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức thông qua các kết quả nghiên cứu, luận cứ khoa học được phân tích, đánh giá trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về luật hình sự, tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, cũng như là một nguồn tham khảo đối với việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức sau này. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý hình sự Việt Nam về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức 1.1.1 Khái niệm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức Từ khi Bộ Luật Hình sự (BLHS) năm 1985 ra đời cho đến nay, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức đã có nhiều sự thay đổi về nội dung của điều luật. Những thay đổi qua các lần sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện quy định của BLHS qua các giai đoạn đối với tội danh này và việc áp dụng vào thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn những quan điểm và định nghĩa khác nhau đối với tội danh này, một trong số các quan điểm đó được thể hiện như sau: Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các Tội phạm - Quyển 2, Trường Đại học Luật TP.HCM thì khái niệm đối với tội danh này được hiểu như sau: “Tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan tổ chức. Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là hành vi sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật”.1 Quan điểm này được ra dựa trên quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và quan điểm này chỉ dựa trên hành vi làm giả của chính chủ thể làm giả nhằm mục đích để mình sử dụng hoặc để người khác sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả đó thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi khách quan của cả hai tội danh tuy khác nhau nhưng có chung đối tượng tác động là con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức và cả hai hành vi đều gắn với “hành vi trái pháp luật”. Còn theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần II phần các tội phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội thì “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi tạo ra con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác giả mạo, không phải do cơ quan có thẩm quyền làm ra”.2 Quan điểm này được xây dựng và đưa ra dựa trên quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015. Theo đó tại Điều 341 đã tách hai hành vi “làm giả” và “sử Trường Đại học Luật Tp.HCM (năm 2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các Tội phạm - Quyển 2), Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, trang 239. 1 Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2016), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần II phần các tội phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2 9 dụng” thành hai tội danh, mỗi hành vi sẽ cấu thành một tội danh riêng biệt nếu người phạm tội thực hiện một hành vi thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về một hành vi tương ứng và ngược lại, nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi thì sẽ bị truy cứu về hai tội danh đầy đủ là tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo Bình luận khoa học BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tác giả Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng có định nghĩa như sau: “Tội làm giả con dấu, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi làm ra con dấu, giấy tờ, tài liệu khác của cơ quan, tổ chức giống với con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thật của cơ quan tổ chức đó hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan tổ chức hoặc công dân”.3 Tác giả chưa đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ Điều 341 BLHS năm 2015 đã tách hai hành vi “sử dụng” và “làm giả” thành hai tội, mặc dù được quy định trong cùng một điều Luật. Cũng như, Điều 341 đã bỏ đi yếu tố là “nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân” như quy định tại Điều 267 BLHS năm 1999 mà thay vào đó là việc “thực hiện hành vi trái pháp luật” và các giấy tờ được tạo ra (giấy tờ giả) phải được tạo ra từ cái có thật (con dấu, tài liệu, giấy tờ phải có thật) có thật mới có giả. Tuy nhiên, theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các Tội phạm Quyển 2, Trường Đại học Luật TP.HCM cho rằng những con dấu, tài liệu bị làm giả có thể là của cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc không có thật.4 Cũng như Điều 341 BLHS năm 2015 cũng không dùng từ “công dân”. Bởi, BLHS nói chung, và phạm vi tác động của hành vi được quy định tại Điều 341 nói riêng không chỉ điều chỉnh hành vi của công dân mà còn của cá nhân khác (bao gồm người không phải là công dân) đang sinh sống, học tập và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam. Chính vì vậy, xuất phát từ lý do này mà tác giả chưa đồng tình với quan điểm của các tác giả nêu trên. Từ những định nghĩa, khái niệm nêu trên và quan điểm, sự nhìn nhận, đánh giá của tác giả trong công tác nghiên cứu và làm thực tiễn của mình, tác giả đưa ra khái niệm về tội làm giả con dấu, tài liệu, giấy tờ của cơ quan tổ chức như sau: Trần Văn Biên - Đinh Thế Hưng (năm 2019), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 Sửa đổi bổ sung năm 2017, NXB Thế Giới. 3 4 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 240. 10 “Tội làm giả con dấu, tài liệu, giấy tờ của cơ quan, tổ chức là hành vi tạo ra con dấu giả, tài liệu hoặc giấy tờ giả của cơ quan tổ chức hoặc con dấu, tài liệu, giấy tờ không có thật để thực hiện hành vi trái pháp luật”. 1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức Khách thể của tội phạm Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức xâm phạm hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan, tổ chức; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân.5 Đối tượng tác động của tội phạm này là con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức. Cơ quan, tổ chức nói trong điều luật này bao gồm cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế…6 Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu về giải thích từ ngữ có định nghĩa về con dấu như sau: “Con dấu là phương tiện đặc biệt do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký, quản lý, được sử dụng để đóng trên văn bản, giấy tờ của cơ quan, tổ chức, chức danh nhà nước”.7 Mặc dù, Nghị định này không điều chỉnh đối với con dấu của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Bởi, các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Đầu tư nói chung sẽ tự khắc và quản lý sử dụng con dấu theo quy định của Luật Doanh Nghiệp, Luật Đầu tư, cũng như Điều lệ của doanh nghiệp mà không phải thông báo, hay đăng ký với cơ quan nhà nước quản lý về Doanh nghiệp và Đầu tư. Tuy nhiên, định nghĩa về con dấu của Nghị định số 99/2016/NĐCP nêu trên cũng giúp chúng ta có một khái niệm về con dấu nói chung và con dấu của cơ quan, tổ chức, chức danh nhà nước. Bởi lẽ, các tổ chức, cơ quan không phải là cơ quan nhà nước như doanh nghiệp cũng sử dụng con dấu tổ chức, dấu chức danh để đóng lên văn bản do chính mình phát hành như Biên bản họp, Nghị quyết, Quyết định… Tài liệu, giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức là các tài liệu, giấy tờ do cơ quan, tổ chức đó ban hành, ví dụ: Hộ chiếu, hộ tịch, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, giấy 5 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 240. 6 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 240. 7 Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu. 11 phép lái xe, giấy khai sinh, thẻ thương binh, sổ bảo hiểm xã hội.8 Đối với tài liệu giả, giấy tờ giả, thì hiện nay không có quy định hay định nghĩa nào cụ thể về tài liệu giả, hay giấy tờ giả, mà chúng ta có thể ngầm hiểu rằng, giấy tờ, tài liệu giả là những loại giấy tờ được phát hành, tạo ra không bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hành. Ví dụ như: 1 tờ chứng minh nhân dân không do cơ quan Công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp9, hoặc Hộ chiếu không do cục quản lý xuất nhập cảnh cấp hoặc Thẻ Luật sư không do Liên đoàn Luật Sư Việt Nam cấp. Như vậy, có thể hiểu rằng giấy tờ, tài liệu được phát hành không do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, chức năng phát hành thì sẽ bị coi là giả. Tuy nhiên, trên thực tế khi truy tố, xét xử để xác định giấy tờ giả, thời điểm, nội dung, hình thức của giấy tờ để được xem “giả” theo quy định của BLHS vẫn còn có những khó khăn. Có thể lấy ví dụ Giấy khám sức khỏe được làm giả với đầy đủ các đặc điểm giống Giấy khám sức khỏe thật về phôi, chữ ký, con dấu nhưng lại không điền thông tin người đi khám, trường hợp này có được xem là giấy tờ giả không? Như vậy, trường hợp này Giấy khám sức khỏe có thể được xác định là giấy tờ giả hay chưa? Theo quan điểm của tác giả xuất phát từ quy định của BLHS về hành vi khách quan thì Giấy khám sức khỏe nêu trên đã thỏa mãn yếu tố “giả”. Bởi vì tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức có cấu thành hình thức và đối với trường hợp nêu trên việc làm ra giấy khám sức khỏe giả khi nó không phải do Bệnh viện có thẩm quyền làm ra thì tội phạm đã hoàn thành và chỉ chờ người có nhu cầu mua thì sẽ điền tên vào giấy khám sức khỏe để sử dụng nó. Mặt khách quan của tội phạm Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức có cấu thành hình thức. Mặt khách quan của tội phạm chỉ đòi hỏi dấu hiệu bắt buộc là hành vi. Hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi làm con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi làm ra một cách trái phép con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức. Việc làm giả con dấu, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức được thực hiện bằng những phương pháp, thủ đoạn đa dạng như 8 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 240. 9 Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân. 12 khắc con dấu giả, ký tên, đóng dấu giả vào các giấy tờ sao chép giống nội dung của giấy tờ thật. Hành vi làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người phạm tội thực hiện hành vi này nhằm tự mình sử dụng hoặc để người khác sử dụng con dấu, tài liệu đó thực hiện hành vi trái pháp luật.10 Hiện nay BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tại Điều 341 đang được áp dụng đã bỏ đi dấu hiệu “lừa dối” như quy định tại Điều 267 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và thay vào đó là dấu hiệu “thực hiện hành vi trái pháp luật” và đã có sự tách biệt thành hai tội riêng biệt là “làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi nghiên cứu về tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, liên quan đến mặt khách quan là hành vi của tội này và thực tế xét xử, mặc dù hành vi phạm tội được thực hiện là hành vi sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả. Thế nhưng, thực tiễn xét xử cho thấy Tòa án lại xử tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ví dụ như, trường hợp đi mua giấy khám sức khỏe giả để bán lại, hành vi này là sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức nhưng thực tế lại xét xử tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, hiện nay BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đang có hiệu lực và Điều 341 đã quy định tách biệt thành hai tội danh là tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Đồng thời, Điều luật này quy định hai hành vi, hành vi “làm ra” là tiền đề, còn hành vi thứ hai là hành vi “thực hiện” hành vi khác trái pháp luật. Hai hành vi này phải đi cùng với nhau thì mới có thể bị coi là tội phạm. Nếu như, một người chỉ làm ra con dấu, tài liệu, giấy tờ giả, mà họ không thực hiện hành vi trái pháp luật, thì không thể truy cứu TNHS đối với người đó. Liên quan đến vấn đề nêu trên, nếu như một người đã thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và họ thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đương nhiên là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong thực tiễn hiện nay là sẽ truy tố cả hai tội là tội làm giả con 10 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 241. 13 dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay chỉ truy tố một tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là một vấn đề đang gây tranh cãi trong thực tiễn xét xử hiện nay. Theo quan điểm của tác giả, nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện dựa trên hành vi làm giả và nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thì cần bị truy tố, xét xử về cả hai tội là tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi vì cả hai hành vi làm giả con, dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức và hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều cấu thành tội phạm độc lập, do đó cần truy tố, xét xử về cả hai tội để không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức có cấu thành hình thức, nên hậu quả của tội phạm không phải là yếu tố bắt buộc, người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi “làm giả” để thực hiện hành vi trái pháp luật và không quy định hậu quả của việc thực hiện hành vi trái pháp luật ra sao. Quy định này được hiểu là khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan thì được xem là tội phạm hoàn thành. Vì vậy, yếu tố hậu quả không phải là dấu hiệu định tội mà chỉ là dấu hiệu định khung để xem xét trách nhiệm tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với người phạm tội và hậu quả có hoặc không có hậu quả xảy ra thì người thực hiện hành vi vẫn bị truy cứu TNHS theo quy định. Mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.11 Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.12 Như vậy, chủ thể của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức phải thỏa mãn cả hai điều kiện đó là đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS, đây là yếu 11 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 242. 12 Trường Đại học Luật Tp.HCM, tlđd (1), trang 242.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan