MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
I.Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại...1
1.Khái niệm...........................................................................................................1
2.Ý nghĩa...............................................................................................................2
II.Quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại...........3
1.Yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại............................3
a) Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố.....................................................................3
b) Những trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại....5
c) Hình thức và thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.....................................7
d) Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự..................................8
2.Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại...........................................8
a) Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.........................................8
b) Thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự....................................................9
c) Hâụ quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.............................9
III. Hoàn thiện quy định......................................................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................14
0
MỞ ĐẦU
Khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự để mọi tội phậm đều bị phát hiện và xử lí kịp thời. Việc khởi tố vụ
án hình sự khong phụ thuộc vào ngừoi có quyền lợi bị xâm phạm có đồng ý hay
không. Nhà nước không cho phép một cá nhân, tổ chức nào được can thiệp để
tội phạm xảy ra mà không bị khởi tố. Tuy nhiên trong thực tế, không ít những
trường hợp tộip hạm xảy ra gây thiệt hại cho người bị hại cả về vật chất, tinh
thần và việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực hiện tội
phạm trong trường hợp này có thể lại gây thêm những tổn thất về tinh thần cho
người bị hại. Vì thế, để hạn chế những trường hợp khởi tố vụ án có thể gây thêm
tổn thất cho người bị hại, pháp luật quy định trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại tạo khả năng và điều kiện cho người bị hại được
tự do lựa chọn cách giải quyết thích hợp.
I.
Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
1. Khái niệm
Khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, trong
đó cơ quan có thẩm quyền xác định định có hay không có dấu hiệu tội phạm để
ra quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS nhằm làm cơ
sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết VAHS.
Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: “người bị hại làngười bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.
Khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại là một quan điểm mới của
Đảng và Nhà nước ta, dược quy định lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988.
1
BLTTHS hiện hành chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm khởi tố VAHS
theo yêu cầu của người bị hại.
Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: “những vụ án về các tội phạm
được quy định tại khoản 1 Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131
và 171 của Bộ luật Hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.”
Như vậy, có thể hiểu, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
là trường hợp mà do tính chất của vụ án và lợi ích của người bị hại, cơ quan có
thẩm quyền không được tự ý quyết định việc khởi tố vụ án hình sự mà việc khởi
tố vụ án được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại.
2. Ý nghĩa
Khởi tố vụ án đảm bảo cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm
tội. bởi vì, chỉ thong qua những hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn
tin vè tội phạm mới có điều kiệnlàm rõ sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm
hay không.
Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu cho các hoạt động điều tra.
Chưa khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số
trường hợp đặc biệt. Do đó, không thể xem khởi tố vụ án hình sự như một hoạt
động trong giai đoạn điều tra. điều tra. Khởi tố vụ án được tiến hành trong thời
gian không quá 2 tháng, có nhiệm vụ riêng, chủ thể và các hoạt động tố tụng độc
lập với các giai đoạn tố tụng khác nên được coi là giai đoạn tố tụng độc lập.
Khởi tố vụ án tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt độgn tố tụng tiếp theo.
Sau khi đã khởi tố vụ án, hoạt động điều tra không còn phải kiểm tra, xác minh
2
để xác định dấu hiệu tội phạm nữa màchỉ tập trung vào điều tra làm rõcác hành
vi phạm tội và người thực hiện tội phạm.
Khởi tố vụ án góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân được
pháp luật bảo hộ. Nếu không thực hiện các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn
tin về tội phạm mà tiến hành ngay các hoạt độgn điều tra, kể cả áp dụng biện
pháp cưỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến nhiều trường hợp sau một thời gian điều tra
không xác định được dấu hiệu của tội phạm không chứng minh được người bị áp
dụng biện pháp cưỡng chế có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên phải quyết định
đình chỉ điều tra thì người này đã bị xâm phạm quyền tự do thân thể.
II.
Quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị
hại
1. Yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
a) Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố
Người bị hại
Trong VAHS, người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
bị xâm hại; đồng thời, người bị hại cũng là người biết rõ các tình tiết của sự
việc. Sự tham gia của người bị hại vào quá trình giải quyết vụ án là cần thiết. Vì
vậy, pháp luật dành cho họ những quyền đồng thời cũng quy đinh một số nghĩa
vụ nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, cũng như
tạo thuận lợi cho việc giải quyêt vụ án.
Ngoài các quyền và nghĩa cơ bản quy định ở điều 51 BLTTHS năm 2003,
người bị hại còn có một số quyền đặc thù đó là quyền yêu cầu khởi tố VAHS.
Đây là quyền đặc thù của người bị hại, vì trong các chủ thể tham gia tố tụng chỉ
có người bị hại có quyền này; nếu người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần, thể chất thì người đại diện hợp pháp của người bi
3
hại có quyền yêu cầu khởi tố VAHS. Điều này một phần cũng bởi trong những
người tham gia tố tụng, người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của
họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu nhiều thiệt thòi nhất.
Có thể nói “quyết định khởi tố VAHS; nói chung là hàn hvi mà cơ quan có
thẩm quyền phảithực hiẹn khi xác định có dấu hiệu tội phạm, không một ai có
thể can thiệp để không khởi tố và không phụ thuộc vào việc người có lợi ích bị
xâm hại đồng ý hay không 1”. Tuy nhiên đối với các tội quy định tại khoản 1
Điều 105 BLTTHS năm 2003, xuất phát từ tính chất vụ án, và từ chính lợi ích
của người bị hại, pháp luật dành cho người bị hại được thể hiện ý chí cá nhân
của mình, quyết định việc yêu cầu khởi tố hay không. Đối với những tội phạm
này, trong trường hợp người bị hại không có yêu cầu khởi tố, cơ quancó thẩm
quyền không được phép tự ý khởi tố VAHS.
Người đại diện của người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
So với Điều 88 BLTTHS năm 1988, Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy
định thêm một chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố VAHS, đó là người đại diện
hợp pháp của người bị hại là ngươi chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thê chất. như vậy, không phải bất kì người đại diện hợp pháp nào
của người bị hại cũng có quyền yêu cầu khởi tố VAHS, người đại diệnhợp pháp
của người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố VAHS khi người bị hại là người
chưathành niên, có nhược điểm về tâm thần, thể chất. Đây là một quy định mới,
tiến bộ so với BLTTHS năm 1988, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần, thể chất.
Người bị hại là người chưa thành niên là người chưa đầy đủ năng lực
hành vi để thực hiện quyền chủ thể của mình. Họ có thể chưa ý thức được một
1
PGS TS.Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân 2004.
4
cách đầy đủ về những thiệt hại mà hànhvi phạm tội gây ra cho họ và thiếu các
điều chủ quan để tự bảo vệ những lợi ích của mình. Do vậy, việc người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên tham gia tố tụng có quyền
yêu cầu khởitố VAHS là cân thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hại.
Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chưa có quy định thế nào người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần, nhưng có thể hiểu “người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất được nói đến trong điều luật là người mà do những khuyết
tật , bệnh lý, bị tàn phế, thương tật mà dẫn đến không có khả năng thể hiện được
tự do ý chí của mình hoặc nhận thức được hoặc không tự điều chỉnh được hành
vi do đó cũng không có khả năng tự thể hiện yêu cầu và bảo vệ được lợi ích của
mình trước pháp luật2.”
Người đại diện của người chưa thành niên và người có nhược điểm vè thể
chất hoặc tâm thần có thể là cha, mẹ, anh em ruột, người nuôi dưỡng của họ…
b) Những trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003,việc khởi tố
VAHS theo yêu cầu của người bị hại được áp dụng đối với những trườnghợp
sau:
-
Khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác;
-
Khoản 1 Điều 105 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái bị kích động mạnh;
2
Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân, 2004
5
-
Khoản 1 Điều 106 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng;
-
Khoản 1 Điều 108 BLHS năm 1999: tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác;
-
Khoản 1 Điều 109 BLHS năm 1999: tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe ngừoi khsc do vị phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính;
-
Khoản 1 Điều 111 BLHS năm 1999: tội hiếp dâm;
-
Khoản 1 Điều 113 BLHS năm 1999: tội cưỡng dâm;
-
Khoản 1 Điều 121 BLHS năm 1999: tội làm nhục người khác;
-
Khoản 1 Điều 122 BLHS năm 199: tội vu khống;
-
Khoản 1 Điều 131 BLHS năm 1999: tội xâm phạm quyền tác giả;
-
Khoản 1 Điều 171 BLHS năm 1999: tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp.
Ngày 19/6/2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của BLHS năm 1999, theo Luật sửa đổi bổ sung BLHS, điều 131 BLHS năm
1999 đã bị bãi bỏ, thay vào đó, tội xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan
được quy định bổ sung ở điều 170a, đồng thời Điều 171 BLHS năm 1999 cũng
đã được sửa đổi.
Ta thấy khách thể bị xâm phạm trong 11 trường hợp phạ mtội trên là sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền tác giả, quyền liên quan quyền tác giả, và
quyền sở hữu công nghiệp của ngừoi bị hại. Đây là các quyền nhân thân của
người bị hại.
6
Các trường hợp phạm tội quy định tại Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm
2003 chủy yếu là các tội có tính chất ít nghiêm trọng (trừ tội hiếp dâm, tội cưỡng
dâm, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức nguy hiểm cho xã
hội thấp; việc truy tố, xét xử chủ yếu nhằm mục đích giáo dục người phạm tội.
Hơn nữa, có nhiều trường hợp giữa người bị hại và người thựchiện hành vi
phạm tội có mối quan hệ đặc biệt, bản thân ngừoi bị hại không muốn đưa vụ
việc ra xét xử. Vì vậy, nhìn chung việc quyđịnh khởi tố VAHS theo yêu cầu của
người bị hại đối với những trường hợp trên là phù hợp, có tính đến yêu cầu về
đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa đảm bảo được quyền và lợi ích cho người
bị hại.
c) Hình thức và thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Hình thức yêu cầu khởi tố VAHS
Thông tư 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQPngày 7/9/2005 về quan hệ
phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy dịnh của
BLTTHS năm 2003 quy định: “yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại
diện thể hiện bằng đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị
hại hoặc người đại diện trực tiếp trình bày thì CQĐT, VKSphải lập biên bản ghi
rõ nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên
bản do VKS lập phải được chuyển ngay cho CQĐT để xem xét việc khởi tố
VAHS và đưa vào hồ sơ vụ án.”
Như vậy, yêu cầu khởi tố VAHS của người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại có thể được thể hiện bằng đơn hoặc trình bày trực tiếp.
với quy định về hình thức yêu cầu khởi tố VAHS, có thể hiểu pháp luật muốn
người có quyền yêu cầu khởi tố phải thể hiện ý chí của mình, hạn chế trường
hợp yêu cầu khởi tố bị làm sai lệch và cũng nhằm đề cao trách nhiệm cua người
7
bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại khi yêu cầu, tránh trường hợp
người bị hại phủ nhận việc yêu cầu khởi tố.
Thời điểm yêu cầu khởi tố VAHS
Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: “… chỉ được khởi tố VA
khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị
hại…”. như vậy, theo tinh thần của Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 thì
thời điểm xuất hiện yêu cầu của ngời bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ
phải có trước thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết địnhkhởi tố VAHS.
d) Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Theo khoản 3 Điều 51 BLTTHS năm 2003: “trong trườnghợp vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại điều 105 thì người bị hại hoặc
ngườiđại điện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa”. Lời buộc tội
của người bị hại vàngười đại diện hợp pháp của người bị hại là việc họ bày
tỏtâm tư, nguyện vọng của mình, họ tự phán xét hành vi phạ mtội và mong
muốn kẻ phạm tội phải bị trừng phạt ở mức độ phù hợp với những thiệt hại mà
họ phải gánh chịu. Đây là một quy định phù hợp và rất có ý nghĩa, góp phần
giúp người bị hại bảo vệ quyềnvà lợi ích hợp pháp của họ.
BLTTHS năm 2003 không quy định về thời điểm người bị hại trinfh bày
lời buộc tội tại phiên tòa, nhưgn mục I.7 Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định
chung” của BLTTHS năm 2003 quy định: “việc người bị hại hoặc ngoừi đại diện
hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa pahri thực hiện theo đúng
quy định chung của BLTTHS về phiên tòa sơ thẩm; do đó việc ngừoi bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tại phiên tòa được thực hiện
8
theo trình tự phát biểu khi tranh luậ ntại phiên tòa theo quy định tại Đièu 217
BLTTHS”.
Như vậy, người bị hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc
tội tại phiên tòa sau khi Kiểm sát viênt trình bày lời luận tội và bị cáo hoặc
người bào chữa trình bày lời bào chữa.
2. Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại
a) Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định “trong trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khở tố truóc ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án
phải được đình chỉ”. Như vậy, chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố là ngời bị
hại; người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,người có
nhược điểm vè tâm thần hoặc thể chất đã nộp đơn yêu cầu khởi tố.
b) Thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003, thời điểm rút
yêu cầu khởi tố VAHS là trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. trước đây, BLTTHS
năm 1988 quy định “trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa thì vụ án phải được đình chỉ”. Như vậy, theo quy định này, thời điểm
rút yêu cầu khởi tố là “trước khi mở phiên tòa” mang tính chất chung chung, gây
khó khăn cho việc áp dụng. Quy định của BLTTHS năm 2003 đã khắc phục
được tồn tại về thời điêmrút yêu cầu khởi tố VAHS, giúp aáp dụng thống nhất
quy định của pháp luật.
c) Hâụ quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
9
Trường hợp không có căn cứ để xác định việc rút yêu cầu khởi tố
vụ án là do bị ép buộc, cưỡng bức
Người đã yêu cầu khởi tố VAHS mà rút đơn yêu cầu trước ngày mở phiên
tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ và người bị hại phải nộp tiền án phí
theoquy định tại Khoản 3 Điều 99 BLTTHS năm 2003. Vụ án được đình chỉ mọi
hoạt động tố tụng sẽ chấm dứt. Viẹc vụ án được đình chỉ khi người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ rút yêu cầu vừa thể hiện sự tôn trọng của Nhà
nước đối với ý chỉ của người bị hại, vừa thể hiện sự tha thứ của người bị hại
đốivới người phạm tội.
Căncứ vào điểm a Khoản 2 Điều 164, Khoản 1 Điều 169, Điều 180
BLTTHS năm 2003, mục 7.2 thông tư số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP,
nếu rút yêu cầu ngay sau khi khởi tố vụ án thì CQĐT ra quyết định hủy bỏ quyết
định khởi tố VAHS, tronong khi đang điều tra hoặc đã kết thúc điềutra thì CQĐT
ra quyết dịnh đình chỉ điều tra, nêu đã chuyển hồ sơ cho VKS thì VKS ra quyết
định đình chỉ vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án.
Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố trong trường hợp có
căn cứ để xác định việc rút yêu cầu là trái ý muốn do bị ép buộc, cưỡng bức.
Khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại lấy lợi ích của người bị hại
làm trung tâm nên trong trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại
không đảm bảo lợi ích cho họ, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể tiến hành
các hoạt động tố tụng để đảm bảo quyền lợi cho họ. Khi xác định người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu trái ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu rút yêu cầu, CQĐT, VKS, tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố
tụng đối với vụ án. Như vậy, có thể hiểu, khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định
được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu trái
với ý muốn chủ quan của họthì các cơ quan này vẫn tiếp tục tiến hành các hoạt
10
độgn của mình. Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2005 cũng quy định người bị
hại rút yêu cầu khởi tố vụ án có quyền yêucầu lại nếu việc rút yêu cầu là do bị
ép buộc, cưỡng bức. Như vậy, việc người bị hại rút yêu cầu do bị ép buộc,
cưỡng bức vừa là căn cứ để CQĐT, VKS , Tòa án tiếp tục tiến hành tố tụng
đốivới vụ án, vừa là điều kiện để người bị hại được yêu cầu khởi tố lại vụ án
hình sự.
Bên cạnh những ưu điểm, quy định này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Cụ
thể, điều luận đã quy định quyền yêu cầu lại trong trường hợp việc rút yêucầu do
bị ép buộc, cưỡng chế chỉ thuộc về người bị hại. Như vậy, trong trường hợp
người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu do bị ép buọc, cưỡng bức
thì họ lại không có quyền yêu cầu lại.
III.
Hoàn thiện quy định
Trong 11 trường hợp khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại, các vụ
án về tội cố ý gây thương tích chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Đối với tội này, việc
xác định hậu quả có ý nghĩa rất lớn để xem xét hành vi phạm tội thuộc khoản
nào của điều luật. Nhưng khi chưa khởi tố VAHS thì không có căn cứ để tiến
hành các hoạt động điều tra, tiến hành trưng cầu giám định; do đó, không thể
xác định được hậu quả của tội phạm nên không thể xác định được hành vi tộ
phạm thuộc Khoản 1 hay Khoản 2 của điều luật. Bởi vậy, để khởi tố vụ án
không vi phạm Khoản 1 Điều 105 BLTTHS, trên thực tế, cơ quan điều tra phải
tiến hành hoạt động điều tra, xác định hậu quả của tội phạm để xem xét có thuộc
trường hợp chỉ được khởi tố VAHS khi có yêu cầu của người bị hại hay không,
sau đó mới khởi tố vụ án. Làm như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng đã hoạt động
trái với pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành hoạt động điều tra rồi mới khởi tố vụ
án.
11
Khoản 1 Điều 104 quy định chủ thế có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa
thành niên, ngươi có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Vậy, trong trường
hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự hay không?
Khoản 5 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: “trong trường hợp người
bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại điều
này”. Từ quy định trên, cso thể hiểu là khi người bị hại chết thì người đại diện
hợp pháp của họ có đầy đủ quyền của ngừoi bị hại quy định tại Khoản 2 Điều 51
BLTTHS năm 2003. Quy định này không bao gồm quyền được yêu cầu khởi tố
VAHS theo Khoản1 Điều 105 BLTTHS năm 2003. Vậy, trong những vụ án khởi
tố theo yều cầu của người bị hại, mà người bị hại chết, người đại diện hợp pháp
của họ muốn yêu cầu khởi tố VAHS để trừng trị kẻ phạm tội, bảo vệ quyền lợi
cho người bị hại nhưng luật lại không quy định.
Theo tôi, nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi cho người bị hại nên bổ sung
thêm trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp người bị hại chết tại Khoản 1 Điều 105.
Ngoài ra, trên thực tế còn tồn tại trường hợp người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng không có nugời đại diện hợp
pháp, như trẻ mồ côi, trẻ lang thang cơ nhỡ, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất sống một mình, không có họ hàng thân thích… Khi bị xâm hại, họ
không thể làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án vì pháp luật tố tụng hình sự chưa quy
định, dẫn đến thực trạng là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất nhưng không có người đại diện hợp pháp không thể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại. Theo quan điểm cá nhân, tôi
đề xuất việc bổ sung quyền được yêu cầu khởi tổ của các tổ chức xã hội, ví dụ:
12
Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội người mù Việt Nam, Hội bảo vệ người
khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam,…
Với những kiến nghị sửa đổi về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố VAHS
như trên, theo quan điểm cá nhân, Điều 105 BLTTHS năm 2003 cần được đổi
tên thành “khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu”.
Hơn nữa, theo quy định của luật thì chỉ người đã nộp đơn yêu cầu khởi tố
mới được phép rút đơn. Vậy trong trường hợp người đại diện của người chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về tinh thần, thể chất lâm vào tình trạng
mât năng lực hành vi dân sự, hoặc chết thì ai là người sẽ có quyền rút đơn? Theo
quy định của luật,khi người đại diện hợp pháp này chết đi, dù người bị hại (là
người chưa thành niên, có nhược điểm về tinh thần hoặc thể chất) mong muốn
rút đơn yêu cầu khởi tố thì cũng không thể nào thực hiện được, bởi họ không đủ
điều kiện để thực hiện hành vi này, còn người đại diện hợp pháp có quyền được
rút đơn cũng không còn khả năng rút đơn nữa. Quy định như vậy là chưa hợp lý,
sẽ xâm phạm đến quyền lợi của người bị hại, cũng như không thực hiện đúng
mục đích cửa điều luật này là khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Như
vậy, luật cần bổ sung thêm quy định này.
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS quy định: “người bị hại đã rút đơn yêu cầu
khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc,
cưỡng bức.” theo quy định này quyền yêu cầu khởi tố lại trong trường hợp việc
rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức chỉ thuộc về người bị hại. Như vậy, trong
trường hợp người đại diện hợp pháp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức thì họ
lại không có quyền yêu cầu lại. Để đảm bảo quyền tự do lựa chọn cách thức giải
quyết đối với các vụ án về các tội quy định tại Khoản 1 Điều 105 BLTTHS, tôi
đề xuất sửa đổi điều luật này theo hướng mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu lại
sau khi rút yêu cầu khởi tố trong trường hợp rút yêu cầu là do bị ép buộc, cưỡng
bức.
13
Ngoài ra, thực tế hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp người bị hại rất
muốn yêu caàu khởi tố vụ án để đảm bảo quyền lợi cho mình nhưng lại bị người
phạm tội đe dọa, cưỡng bức làm họ không thể hiện được ý chí của mình. Do đó,
mặc dù đã phát hiện hànhvi có dấu hiệu tội phạm nhưng cơ quan có thẩm quyền
cũng không được khởi tố. Như vậy là vừa không đảm bảo được quyền lợi của
người bị hại, vừa là mcho người phạm tội có thể lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
phạm tội và trốn tránh sự trừng trị của pháp luật. Khoản 4Điều 20 BLTTHS Nga
quy định: “Kiểm sát viên cũng như Dự thẩm viên hoặc nhân viên điềutra ban
đầu sau khi được sự đồng ý của Kiểm sát viên, có quyền khởi tố VAHS về bất
kỳ tội phạm nào được nêu tại khoản 2 và khoản 3 điều này mặc dù không có yêu
cầu của người bị hại, nếu nhưtội phạm đó xâm hại đến người đang ở tình trạngbị
lệ thuộc hoặc do những nguyên nhân khác mà người đó không có khẳ năng sử
dụng quyền của mình”. Quy định của BLTTHS Nga ũng có những điểm hợp lý,
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Như vậy, Khoản 2 Điều
105 BLTTHS cần phải sửa đổi, bổ sung trường hợp này nhằm tăng cường thẩm
quyền của CQĐT.
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: khi người đã yêu cầu rút
yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình
chỉ.Tuy nhiên, đốivới vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà người bị hại chỉ rút yêu
cầu khởi tố đối với một hoặc một số mà không phải là tất cả bị can, bị cáo thì
luật chưa có quy định dẫn đến việc gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng.
BLTTHS năm 2003 có quy định về việc người bị hại rút yêu cầu khởi tố
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, tuy nhiên việc người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì chưa có quy
định xử lý thế nào. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Đức Thái, VKS tỉnh
Bình Thuận thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục tiến hành xét xử và kết luận bị cáo
phạm tội nhưng không áp dụng hình phạt tù đối với họ nếu có đủ những điều
14
kiện khác (có thể phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ nếu tội đó có quy định
loại hình phạt này, cũng có thể miễn hình phạt hoặc cho hưởng án treo nếu cso
nhiều tình tiết giảm nhẹ).
KẾT LUẬN
Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại có vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, do vậy,
BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung những điểm hạn chế để chế định này thực sự có ý
nghĩa hơn.
Quy định của bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại và việc hoàn thiện quy định này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
2. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2014
3. Bộ Tư pháp - Viện khoa học nghiên cứu pháp lý, Bình luận khoa học Bộ
Luật hình sự Việt Nam 1999, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2004.
4. http://www.dhluathn.com/2014/09/quy-inh-cua-bo-luat-to-tung-hinh-suve.html
15
16
- Xem thêm -