Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của nguời mông ở đồng văn (hà giang) trướ...

Tài liệu Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của nguời mông ở đồng văn (hà giang) trước cách mạng tháng tám năm 1945

.PDF
90
47
147

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── PHÙNG THỊ SINH TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGUỠNG, TÔN GIÁO CỦA NGUỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── PHÙNG THỊ SINH TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGUỠNG, TÔN GIÁO CỦA NGUỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG........... 6 1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ......................................................... 6 1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử ......................................................... 8 1.3. Khái quát về dân tộc Mông .................................................................. 9 Chương 2: TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƯỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ........................ 17 2.1. Tổ chức gia đình và dòng họ. ............................................................. 17 2.1.1. Tổ chức gia đình ............................................................................. 17 2.1.2.Tổ chức dòng họ .............................................................................. 21 2.2. Tổ chức làng bản ............................................................................... 31 2.2.1. Sự hình thành bản của người Mông ................................................ 31 2.2.2. Bộ máy tự quản của bản ................................................................. 33 2.2.3. Những luật tục về đất đai, nguồn nước, chăn nuôi và các thể thức xử phạt vi phạm. ............................................................................................ 34 2.2.4. Bản (giao) với quan hệ cộng đồng về tín ngưỡng và đời sống sinh hoạt: ......................................................................................................... 37 2.3. Chế độ thổ ty ..................................................................................... 39 2.3.1. Ruộng đất và quan hệ giai cấp ........................................................ 39 2.3.2. Sự thay đổi trong thời kỳ Pháp thuộc .............................................. 45 Chương 3: TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945. ...... 53 3.1. Tín ngưỡng dân gian .......................................................................... 53 3.1.1. Luận thuyết “vạn vật hữu linh” ....................................................... 53 3.1.2. Thờ cúng tổ tiên và các thần che chở cho gia đình .......................... 56 3.1.3. Thờ cúng thần của cộng đồng giao ................................................. 62 3.1.4. Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp ............................. 62 3.1.5. Tàn dư ma thuật .............................................................................. 63 3.1.6. Sa man giáo .................................................................................... 64 3.2. Tôn giáo ............................................................................................ 67 KẾT LUẬN .................................................................................................. 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Huyện Đồng Văn là địa bàn xung yếu, phên dậu của cửa ngõ Việt Nam ở phía Bắc và cũng là một trong những nơi tiếp nhận di dân người Mông từ bên kia biên giới sang Việt Nam sinh sống sớm nhất. Đến nay, người Mông là cư dân có số lượng đông đảo nhất ở Đồng Văn nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình dân tộc Mông cùng các dân tộc thiểu số anh em khác đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang. Tuy cư trú trên vùng đất ít thuận lợi, nhiều khó khăn nhưng dân tộc Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trong lịch sử lại có một tổ chức xã hội, chính trị đáng lưu ý bên cạnh một kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú độc đáo và giàu bản sắc. Vì lẽ đó mà tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đồng bào Mông đã trở thành đối tượng nghiên cứu về dân tộc học, lịch sử, khoa học xã hội nhân văn nói chung của nhiều cơ quan và nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau song cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn trước cách mạng tháng Tám một cách thấu đáo và toàn diện. Cùng với thực tế hiện nay, các dân tộc ít người trong đó có dân tộc Mông ở Đồng Văn trình độ dân trí còn thấp, trình độ phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế. Trong khi đó kẻ thù và các thế lực thù địch lợi dụng phong tục, tập quán, tín ngưỡng kết hợp sửa đổi giáo lý đạo Tin Lành để mê hoặc, lôi kéo, xúi giục đồng bào người Mông chống phá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" của chúng. Do đó, đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đồng bào người Mông cũng như 1 các dân tộc anh em trên địa bàn và gây mất ổn định trong nước cũng như khu vực. Thực trạng đó đặt ra thách thức mới trong việc hoạch định chính sách dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định trật tự an ninh quốc gia. Tìm hiểu về tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn trước cách mạng tháng Tám của người Mông là cần thiết để thấy rằng lịch sử phát triển của người Mông gắn liền với lịch sử dân tộc, vai trò vị trí của người Mông Hà Giang cũng là một bộ phận hữu cơ trong cơ thể Việt Nam, góp phần bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống thực hiện mục tiêu “phát huy mạnh mẽ tính đa dạng bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm phong phú thêm nền văn hoá chung của cả nước” như Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Đảng đã đề ra trong thời kì đổi mới đất nước, đồng thời vận dụng làm cơ sở cho việc thực hiện đường lối chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn: “Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, mong muốn góp một phần nhỏ bé vào công tác nghiên cứu khoa học về cư dân miền núi mà lâu nay chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã được thừa hưởng kết quả nghiên cứu của những người đi trước đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách trực tiếp hay gián tiếp ở những khía cạnh khác nhau: - “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” của Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện dân tộc học, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội năm 1978. Đây là công trình biên soạn về nguồn gốc lịch sử, đặc 2 điểm kinh tế, quan hệ giai cấp xã hội… của các dân tộc ít người ở phía Bắc Việt Nam trong đó có dân tộc Mông. - Cuốn sách “Văn hoá dân tộc Mông Hà Giang ” do Trường Lưu và Hùng Đình Quý chủ biên, viện văn hoá - bộ văn hoá thông tin, sở văn hoá thông tin tỉnh Hà Giang năm 1996. Chuyên đề này đã đề cập một cách khá toàn diện, trong một hệ thống nhằm khẳng định những đặc điểm của văn hoá Mông từ truyền thống đến hiện đại. - Cuốn “Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (18912001)” của Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2001. Đây là một cuốn thông sử được biên soạn, trình bày toàn diện và có hệ thống về các lĩnh vực trọng yếu: tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, dân tộc… của tỉnh Hà Giang từ khi thành lập đến nay. - “Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn (1944 – 1975)” tập I Ban chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn xuất bản năm 2004 cũng là một công trình nghiên cứu khoa học công phu, tái hiện lại lịch sử truyền thống hào hùng của nhân dân các dân tộc Đồng Văn trong đó có đồng bào Mông trong cuộc đấu tranh chống thổ ty phong kiến, đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội, phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới. - Luận văn thạc sĩ “Cuộc vận động định canh, định cư đối với đồng bào Mông huyện Đồng Văn – Hà Giang trong thời kì đổi mới (1986 – 2005)” chuyên ngành lịch sử Việt Nam của thạc sĩ Lâm Thị Thu Hằng là một đề tài nghiên cứu cụ thể và có hệ thống về tình hình kinh tế của đồng bào Mông trong cuộc vận động định canh định cư của Đảng và Nhà Nước ta. Đây là tổng quát kết quả nghiên cứu của giới học thuật, là những gợi mở quý báu, tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện đề tài của mình. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm tìm hiểu về lịch sử địa phương mình đồng thời góp phần phản ánh một cách khoa học, chân thực về lịch sử hình thành, tổ chức xã hội, chính trị, văn hoá tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc Mông và bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử địa phương cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài đi sâu giải quyết các vấn đề về tổ chức xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn ( Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945. - Đối tượng nghiên cứu: Nguồn gốc dân tộc, tổ chức xã hội, quan hệ giai cấp, quan hệ xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn ( Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám. - Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu trong thời gian trước cách mạng tháng Tám 1945 với không gian nghiên cứu là huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. 4. Nguồn tư liệu - Nguồn tư liệu chung: Kiến văn tiểu lục; Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc); Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. - Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn, Hà Giang 110 năm đấu tranh xây dựng và phát triển (1891 – 2001); Văn hoá Mông Hà Giang; Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà Giang; Cuộc vận động định canh định cư đối với đồng bào Mông huyện Đồng Văn - Hà Giang trong thời kì đổi mới ( 1986- 2005). Ngoài ra còn một số tư liệu bổ sung: Các chính sách nghị quyết của Đảng về dân tộc miền núi, báo cáo phát triển kinh tế xã hội huyện Đồng Văn. Nguồn tư liệu chủ yếu là điền dã dân tộc học. 4 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp chủ yếu: - Phương pháp phân tích nguồn tài liệu thư tịch. - Phương pháp điền dã dân tộc học. - Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. - Phương pháp so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu. - Phương pháp hệ thống hoá bằng bảng biểu, sơ đồ. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện về tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang trước cách mạng tháng Tám. Luận văn là một tài liệu tham khảo cho quá trình học tập bộ môn lịch sử địa phương, cơ sở văn hoá cũng như giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông sau này. Đồng thời làm cơ sở cho các nhà khoa học hoạch định chính sách dân tộc, góp phần thực hiện mục tiêu bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Mông nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Hà Giang nói chung. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 80 trang, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương sau: Chương 1: Khái quát về huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang. Chương 2: Tổ chức xã hội của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Chương 3: Tín ngưỡng và tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Luận văn còn có các phần: Bản đồ hành chính và phụ lục . 5 BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH HÀ GIANG BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG 1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên Đồng Văn là một huyện miền núi cao của tỉnh Hà Giang, điểm cực Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý trong toạ độ từ 230 06’- 06” đến 23o-21’- 17” vĩ bắc, từ 1050 07’-35” đến 1050 24’- 4” kinh đông. Phía bắc và phía tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài đường biên giới quốc gia 52,5 km, phía đông giáp với huyện Mèo Vạc, phía nam giáp với huyện Yên Minh. Huyện Đồng Văn có diện tích tự nhiên là 44.666 ha trong đó 11.837 ha là đất sản xuất nông nghiệp, diện tích núi đá chiếm 73,49% địa hình phức tạp, có nhiều núi cao, vực sâu chia cắt làm cho việc đi lại, giao lưu giữa các vùng gặp nhiều khó khăn. Do địa hình núi cao, chia cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 170-190C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600mm-2000mm, chế độ thuỷ văn mỗi năm chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Vào mùa này, mưa lớn gây ra xói lở mạnh, giao thông gặp nhiều khó khăn. Mùa khô từ tháng 11đến tháng 4 năm sau, thường có sương muối, sương mù, nhiệt độ có lúc xuống tới 4-50c như ở Phố Bảng, Lán Xì…thời tiết khí hậu khắc nghiệt vào mùa đông (tháng 11, 12) ít mưa nên nguồn nước sinh hoạt và sản xuất rất khan hiếm gây rất nhiều khó khăn cho cuộc sống của con người. Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các dãy núi phía tây bắc của huyện chảy qua Ma Lé, Đồng Văn sang Mèo Vạc và Bắc Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn thuỷ sinh quan trọng trong sự phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt hằng ngày và điều hoà khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra, còn có các con suối nhỏ khác như Lũng Táo, suối Đồng Văn, suối Phó Bảng nhưng đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn mùa mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời trên địa hình núi đá vôi đã để lại cho Đồng Văn những thắng cảnh đẹp. Khí hậu mang tính chất ôn đới là điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho việc trồng các loại cây ăn quả như lê, mận, đào, táo …và các cây dược liệu quý như thảo quả, đỗ trọng, ý dĩ... Rừng Đồng Văn vốn là một thảm thực vật đa dạng, phong phú, thích hợp cho sự phát triển nhiều loại cây gỗ quý. Tuy nhiên do khai thác bừa bãi nên đã rơi vào tình trạng cạn kiệt, theo đó mà những loại thú như sóc, trăn, tê tê…vì không còn rừng cư trú nên gần như đã tiệt chủng. Cây trồng trong nông nghiệp chủ yếu là ngô, một số vùng trồng lúa và các loại cây họ đậu như: Đậu hà lan, kê, lúa mì, tam giác mạch…do diện tích đất sản xuất nông nghiệp ít và kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ, đồng bào đã biết trồng xen canh, gối vụ để tăng sản lượng và thu nhập, đa dạng các loại cây trên đơn vị diện tích nhất định. Vì thiếu đất canh tác nên người Mông phải làm nương ruộng trên đá, gùi đất đổ lên hốc đá để trồng. Điều kiện khí hậu điều Đồng Văn rất thích hợp trồng cây anh túc. Đồng bào có thói quen trồng cây anh túc từ lâu đời nay để sử dụng làm thuốc. Dưới chế độ cũ, cây anh túc được khuyến khích trồng, sử dụng. Đây là một loại hàng hoá đặc biệt, có nhiều thời điểm buôn bán thuốc phiện tự do, các cửa khẩu tiểu ngạch là nơi giao lưu mua bán thuốc phiện của thương gia nhiều nước, thị trấn Phó Bảng là nơi tấp nập, đây cũng là nơi nảy sinh các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cướp bóc, cờ bạc…Sau ngày giải phóng, sản phẩm từ cây anh túc được Nhà nước thu mua và quản lý. Chăn nuôi của Đồng Văn phát triển. Người dân nuôi các gia súc như bò, dê, ngựa, để lấy thịt, dùng sức kéo và vận chuyển …ngoài ra các gia đình còn chăn thả các loại gia cầm như lợn, gà, vịt và nuôi ong mật là một ngành kinh tế phụ của gia đình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn Thủ công nghiệp Đồng Văn nhìn chung chưa phát triển, có các nghề truyền thống thường thấy như dệt thổ cẩm, dệt vải lanh, rèn đúc, nung ngói, máng… Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa phát hiện ra loại nào có trữ lượng lớn và giá trị cao. Như vậy, khi nói đến điều kiện tự nhiên Đồng Văn, người ta hình dung ra một vùng biên cương núi non hiểm trở, địa hình phức tạp khí hậu khắc nghiệt…những điều kiện sẵn có đó đã chi phối đặc điểm đời sống kinh tế, xã hội của người dân trên vùng cao nguyên đá này. 1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử Huyện Đồng Văn trước đây là tổng Đông Quang thuộc Châu Bình Nguyên, phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang sau đó thuộc về Châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản như một lãnh địa. Khi thực dân Pháp xâm lược, chúng tách khu vực vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, thành lập tỉnh Hà Giang vào năm 1891, Đồng Văn được tách ra khỏi Bảo Lạc [1,tr.9]. Châu Đồng Văn bao gồm hai tổng: Tổng Quang Mậu và Tổng Đông Minh. Trong đó, tổng Quang Mậu bao gồm các xã: Lũng Cô, Mìa Ré, Mai Li Ăng, Đồng Văn, Sủng Máng, Sơn Vi, Chung Phùng, Sả Phung, Niêm Sơn. Tổng Đông Minh bao gồm các xã: Yên Minh, Mậu Duệ, Bạch Đích, Na Khê, Ngam La, Sà Phìn, Mèo Vạc, Lũng Chín, Lũng Tỉnh, Phú Cao, Sủng Là, Vần Chải, Đường Thượng, Lũng Phìn [17, tr.274-290]. Theo Ngô Vi Liễn công bố trong địa dư các tỉnh Bắc Kỳ. Xuất bản năm 1928 thì Đồng Văn là một trong hai đại lý của tỉnh Hà Giang gồm các tổng xã: Tổng Quang Mậu và tổng Đông Minh gồm 19 xã: Đồng Văn, Bạch Đích, Sà Phìn, Lũng Phìn, Đường Thượng, Lũng Chinh, Mậu Duệ, Mèo Vạc, Niêm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn Sơn, Na Khê, Ngam La, Phú Lũng, Sủng Máng, Sơn Vĩ, Phố Cáo, Sủng Là, Sủng Thài, Vần Chải, Yên Minh. Cuối năm 1975, hai tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên và tới tháng 10 năm 1991 lại được tách thành Tuyên Quang và Hà Giang. Đồng Văn là một trong 7 huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang. Theo nghị quyết của Hội đồng chính phủ, quyết định số 211/CP tách Đồng Văn ngày 15/12/1962 đã tách Đồng Văn làm 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc. Huyện Đồng Văn ngày nay bao gồm 2 thị trấn và 18 xã: thị trấn Phó Bảng, thị trấn Đồng Văn và các xã: Tả Lủng, Thắng Mố, Sảng Tủng, Sính Lủng, Lũng Táo, Phố Là, Sủng Máng, Phú Lũng, Lũng Cú, Sà Phìn, Sủng Thài, Ma Lé, Sủng Là, Lũng Thầu, Thài Phìn Tủng, Phố Cáo, Vần Chải, Tù Phìn. Có thể nói, theo bước đi của lịch sử, Đồng Văn cũng là một mảnh đất có nhiều thay đổi về tên gọi và diên cách. Những thay đổi này có ảnh hưởng đến nhiếu vấn đề sự có mặt của các tộc người, về chính trị, về kinh tế, xã hội và văn hóa của địa bàn xung yếu nơi địa đầu của Tổ quốc. 1.3. Khái quát về dân tộc Mông 1.3.1. Nguồn gốc lịch sử của dân tộc Mông Dân tộc Mông được xếp vào nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Trước đây người Hán gọi người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở thành tên của tộc người. Từ đó các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là người Mèo [46, tr.5]. Lê Quý Đôn có nhắc đến dân tộc Mông với tên gọi là “Sơn Miêu”, họ ở nơi “đại sơn lâm cày cấy thì đốt nương, đào hố, bỏ thóc, chỗ ở nay đây mai đó không nhất định” [11, tr. 335]. Đồng Khánh dư địa chí cũng có viết: “Người Mèo ở đỉnh núi, áo quần đơn giản, không trang sức hoa văn…người Mèo, Mán thì tìm chỗ hơi bằng phẳng trên đỉnh núi, sườn núi phát cây trồng khoai, lúa mạch, rải rác cũng trồng được lúa nương (lúa dẻo)” [38, tr.871]. Hiện nay trong các văn bản tộc danh Mông trở thành chính thức. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn Về mặt lịch sử, theo các nguồn tài liệu đều cho biết dân tộc Mông có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tổ tiên của họ là người sớm biết nghề trồng lúa vùng giữa hồ Động Đình và Bành Lãi và về sau cùng với quá trình lịch sử họ đã thiên cư mở rộng địa bàn cu trú tới Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) [28, tr.27-28]. Trong quá trình lịch sử do nhiều nguyên nhân trong đó do phải chống lại ách áp bức bóc lột của “người phía trên” (cách gọi của người Mông đối với những người áp bức họ ở phương Bắc) nên người Mông đã di cư vào Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Do đó có thể nói quá trình thiên di này là cuộc hành trình gian khổ đi tìm cuộc sống tự do và công bằng. Dân tộc Mông di cư vào Việt Nam chia làm nhiều đợt trong đó ba thời kì đông nhất: Thời kì đầu tiên cách đây hơn 300 năm, người Mông từ Quý Châu (Trung Quốc) di cư sang Đồng Văn. Thời kì này người Mông ở Quý Châu đang nổi lên phong trào đấu tranh chống chính sách “cải tù quy lưu” của nhà Thanh (chính sách bãi bỏ tù trưởng người Mông, triều đình đưa bọn quan lại người Hán trực tiếp đến cai trị từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII) song phong trào bị thất bại. Thời kì thứ hai, cách đây 300 năm, lần này người Mông vào Việt Nam qua hai con đường: Một là vào Đồng Văn - Hà Giang, hai là vào theo đường Ximakai - Bắc Hà - Lào Cai. Những người Mông di cư vào Việt Nam đợt này phần lớn ở Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Với sử sách Trung Quốc thì thời kì này phù hợp với phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quý Châu thất bại (1776-1820) [13, tr.14]. Thời kì thứ ba, cách đây trên 200 năm. Đây cũng là thời kì người Mông ở Trung Quốc di cư sang Việt Nam đông hơn cả và nó tương đương với thời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn gian người Mông nhiệt tình hưởng ứng phong trào “Thái Bình Thiên Quốc” đấu tranh chống nhà Thanh, cuộc đấu tranh kéo dài từ 1840-1868. Những năm về sau, người Mông vẫn rải rác di cư sang Việt Nam. Với vị trí là mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, huyện Đồng Văn (Hà Giang) là khu vực người Mông từ Trung Quốc sang nước ta sớm hơn các địa phương khác, cách đây 300 năm vào cuối thời nhà Minh đầu thời nhà Thanh. Ban đầu họ sống trên các triền núi dọc hai bên bờ sông Nho Quế dần dần mới mở rộng địa bàn cư trú ra các vùng thấp hơn. Hiện nay, Mông là dân tộc đông nhất ở Hà Giang và cũng là dân tộc đông nhất ở Đồng Văn chiếm trên 87% dân số toàn huyện. Người Mông ở đây chủ yếu thuộc hai nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng) và Mông Súa (Mông Hoa). Sở dĩ có sự phân chia như vậy là do dựa trên cơ sở phân biệt qua trang phục của người phụ nữ Mông. Trang phục của nữ Mông Trắng là may bằng lụa màu sáng, áo cổ tròn, hai mảnh, có xẻ trước ngực, vải đáp tà áo là vải hoa đỏ hoặc vàng, tay áo nhỏ có vải viền màu hoa hoặc thêu hoa ở cánh tay và yếm ở sau lưng. Còn người phụ nữ Mông Hoa, áo không có xẻ ngực mà cài khuy từ nách lên, váy được nhuộm chàm. Trang phục của nam giới thì khá thống nhất là quần ống rộng, cạp vấn, áo ngắn, thắt lưng và có khăn đội đầu . Thời phong kiến, người Mông sinh sống trên những vị trí chiến lược quan trọng của đường biên giới quốc gia vì vậy các chính quyền phong kiến trung ương đã rất chú ý tới vùng biên ải này. Qua Lý - Trần- hậu Lê tới thời Quang Trung và triều Nguyễn đều cử các đoàn lên thanh tra thị sát vùng biên. Quan tướng Nhà Trần (Trần Nhật Duật) đã tới Hà Giang, sứ thần của thời Quang Trung đã lên tới Động Long (Lũng Cú) [28, tr. 213]. Như vậy vùng dân tộc Mông ở vùng cực Bắc Hà Giang từ các thời phong kiến độc lập tự chủ đã nằm trong một thể thống nhất của quốc gia Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn Dưới chế độ cũ, người Mông đã cùng các dân tộc thiểu số anh em nhiều lần đứng dậy đấu tranh chống áp bức bóc lột, nổi bật là cuộc nổi dậy ở cao nguyên Đồng Văn của Sùng Mí Chảng (1911 - 1912); khởi nghĩa của Vàng Chỉn Pao (1913 - 1914); hình thành các tổ chức cách mạng ở Hà Giang ( những năm 1942 - 1945) chống bọn thực dân Pháp, chống bọn cầm đầu các tổ chức phản động Việt Quốc, Việt Cách, Quốc Dân Đảng, chống phỉ, chống Mĩ và chống các thế lực phản động khác bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc. Đó là những chiến công, là niềm tự hào của đồng bào người Mông cùng các dân tộc thiểu số anh em khác ở Hà Giang. Nối tiếp truyền thống ấy, trong quá trình xây dựng và phát triển người Mông còn gìn giữ và bảo lưu được nhiều giá trị văn hoá truyền thống phong phú, tốt đẹp của dân tộc mình. 1.3.2.Vài nét về văn hóa truyền thống - Văn hoá vật chất: Nguồn sống chính của người Mông là dựa vào canh tác nương rẫy. Nương có hai loại là nương định canh và nương du canh, nương định canh gọi là nương thổ canh hay thổ canh hốc đá. Nương du canh phụ thuộc vào thiên nhiên, năng suất không ổn định. Ngày nay, người Mông làm nương theo chế độ luân canh kết hợp với trồng, bảo vệ rừng và làm ruộng bậc thang . Lương thực chính của người Mông là cây ngô, một số nơi có nước, người Mông làm ruộng bậc thang trồng lúa trên sườn núi. Ngoài ra người Mông còn trồng thêm các loại cây khác như sắn, khoai, thực phẩm, rau xanh (đậu, rau rền, vừng…), cây dược liệu (đỗ trọng, tam thất, ý dĩ..), cây ăn quả (mận, mơ, lê, đào, chuối…), đặc biệt chú trọng trồng cây lanh để dệt vải, nuôi gia súc (bò, ngựa) để làm phương tiện canh tác và vận chuyển. Người Mông đã đạt đến trình độ cao trong kĩ thuật rèn công cụ lao động bằng sắt và kĩ thuật cày nương hốc đá, chỉ cần đủ lọt lỡi cày là người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn Mông có thể điều khiển trâu bò cày hết phần đất đó. Cùng với những dụng cụ trên thì cuốc, dao, liềm, quẩy tấu cũng là những dụng cụ gắn bó với cuộc sống lao động của người Mông. Dụng cụ sinh hoạt hằng ngày của người Mông khá đơn giản, phương tiện nấu nướng thường dùng là bếp lò, chảo, chậu gỗ… trên bếp lò thường bắc một chiếc chảo lớn, chảo đó vừa để nấu canh, vừa dùng để nấu mèn mén, nấu rượu hoặc dùng để nấu cám lợn. Trong mỗi gia đình người Mông thường có chiếc cối xay lớn để xay ngô, xay thóc, cối giã gạo, khung dệt vải lanh, đồ nghề một số nghề thủ công như rèn, mộc, tiện… Về ăn uống, từ cây lương thực chính là ngô, người Mông chế biến thành hai loại, trong bữa ăn hằng ngày thường thấy của người Mông gồm rau cải, đậu, bí đỏ. Ngày mùa, ngày tết có thêm thịt gà, dê, lợn, bò, gia vị chủ yếu là ớt và gừng. Món ăn phổ biến nhất và đã trở thành một nét đặc sắc của người Mông là “ thắng cố” làm từ thịt dê, thịt bò và xương hầm. Đồ uống chủ yếu là rượu ngô. Do đã định cư nên nhà ở của người Mông làm khá khang trang. Người Mông ở nhà đất trình tường, lợp ngói hoặc nhà gỗ lợp cỏ tranh, phên vách, nhà chỉ có một cửa chính ở gian giữa và một cửa phụ ở gian bên đầu hồi hoặc trái nhà. Nhà ở đồng thời cũng là nơi làm bếp sưởi và bếp nấu. Gian giữa thờ tổ tiên, mỗi gian được phân làm hai phần, một phần hẹp hơn ngăn làm các phòng ngủ, một phần rộng hơn dùng làm bếp nấu hoặc bếp sưởi. Các cánh cửa đều mở vào trong nhà, quanh nhà thường được rào hoặc xếp đá. Ngoài ngôi nhà chính người Mông còn có ngôi nhà phụ ở nương, thường là kiểu nhà đất hoặc nửa sàn, nửa đất. Chuồng trại chăn nuôi được xây dựng rất cẩn thận, chuồng gia súc thường được làm trước nhà lệch qua bên cửa chính, chuồng được làm sàn ván bưng và có máng cho bò, dê, ngựa…. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn Một số điểm trên đây có thể cho thấy rằng về mặt sinh hoạt vật chất, người Mông có nhiều quan niệm đơn giản, không cầu kỳ. Do nhiều yếu tố tác động nên kinh tế của người Mông là tự túc, tự cấp, tự tiêu. Trước đây cây thuốc phiện là nguồn kinh tế chủ yếu, cây lương thực chính là ngô nhưng hàng năm đều không đủ, chăn nuôi chủ yếu để làm thực phẩm, lấy sức kéo, các loại cây có giá trị thì chưa được đầu tư, giao thông đi lại khó khăn, không có thị trường tiêu thụ nên chưa phát huy được vai trò kinh tế. Do vậy mà đời sống sinh hoạt vật chất của người Mông còn nghèo nàn kép kín. Nhưng trái ngược hẳn với cái vỏ vật chất nghèo nàn đó, người Mông lại có một đời sống tinh thần phong phú và chính điều đó đã khiến cho diện mạo văn hoá truyền thống Mông mang những dáng vẻ đặc sắc. Người Mông thường sống rải rác thành từng bản nhỏ theo dòng họ. Đây được coi như là một đơn vị tự quản, các thành viên trong đó đều phải chấp hành những luật tục và những quy định cụ thể. - Văn hoá tinh thần: Về tín ngưỡng tôn giáo: Ngoài thờ tổ tiên, người Mông sùng bái nhiều thần linh nên “ vạn vật hữu linh ” là tín ngưỡng bao trùm của họ. Trong nghi thức thờ cúng tổ tiên, các gia đình người Mông đều có bàn thờ tổ tiên ở gian giữa. Bàn thờ rất đơn giản, bát hương chỉ có một ống vầu hoặc nứa gắn vào vách hoặc đặt trên một tấm ván. Trên bàn thờ có quét dính tiết gà, lông gà. Người Mông không thờ thổ công trong nhà. Trong tang ma, người Mông tổ chức rất chu đáo dù người mất là trẻ hay già đều có phong tục làm đám “ ma tươi ” và “ ma khô ”. Lễ hội của người Mông cũng được chuẩn bị rất chu đáo vì đây không chỉ là dịp được nghỉ ngơi, ăn uống thoả thích mà còn là dịp gặp gỡ, làm tròn nghĩa vụ với gia đình, tổ tiên, đồng tộc. Vào dịp lễ tết bà con người Mông tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn chức hội vui, đánh yến, ném còn, đu quay, chơi đánh cù, hát giao duyên. Đặc sắc nhất là chợ tình, mỗi năm chỉ có một phiên được tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch hàng năm. Hôn nhân của người Mông theo chế độ một vợ một chồng được tiến hành qua 3 giai đoạn chính: Dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Một cổ tục đặc sắc trong tình yêu - hôn nhân của người Mông là tục cướp vợ (kéo vợ), về hình thái hôn nhân là tàn dư của hôn nhân thời kỳ quá độ từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Đây có thể là hình thức phát sinh để chống lại quyền áp đặt của cha mẹ và dòng họ về hôn nhân. Làm giàu thêm văn hoá truyền thống Mông là kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca, thần thoại…Nền văn hoá dân gian của dân tộc Mông phản ánh chính cuộc sống của họ và phản ánh năng lực sáng tạo của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, “truyện dân gian Mông còn tập trung đề cập đến mặt trái xã hội, bênh vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao cả ”. [28, tr.61] Dân ca Mông chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống hàng ngày của người Mông nhất là những dịp hội hè, cưới xin, ma chay, hát giao duyên tỏ tình, tình yêu trai gái hầu hết bắt nguồn từ lời ca tiếng hát mà nảy sinh. Nhạc cụ cũng là đặc trưng văn hoá của người Mông, tiêu biểu là khèn trúc, khèn lá, nhị, đàn tròn, đàn môi, sáo, trống. Ngoài ra, khi nói đến văn học dân gian Mông người ta không thể bỏ sót phần tục ngữ và câu đố với những nội dung phong phú, thể hiện mối quan hệ xã hội của người với người và giữa con người với thiên nhiên. Người Mông còn có hình thức múa phổ biến nhất là múa khèn. Trước đây, chỉ có người đàn ông vừa thổi khèn vừa múa, sau này múa khèn biến tấu thành một thể loại biểu diễn văn nghệ thì có thêm người nữ vào cầm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan