VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO VĂN TÂM
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS Nguyễn Minh Phương
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
CAO VĂN TÂM
MỤC LỤC
Mở đầu
01
Chương
1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA HUYỆN
08
1.1
Vị trí, vai trò của Thanh tra huyện
08
1.2
1.3
Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện
Các yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của
Thanh tra huyện
17
Chương
2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH
2.1
TRA HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoài
Đức, Thành phố Hà Nội
2.2
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của thanh tra huyện
2.3
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Chương 3 Hoài Đức, thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015
3.1
3.2
3.3
3.4
chức,
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA HUYỆN
Nhu cầu hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của thanh tra huyện
Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Thanh tra huyện
Các
giải pháp
của Thanh
tra nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt
động
huyện
Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả tổ
22
27
27
28
35
58
58
61
64
hoạt động của Thanh tra huyện Hoài Đức, Thành phố Hà 71
Nội
Kết luận
79
Danh mục tài liệu tham khảo
81
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
1.
ANCT
An ninh chính trị
2.
ANQP
An ninh quốc phòng
3.
BCH
Ban chấp hành
4.
BTV
Ban Thường vụ Chính
5.
CTQG
trị quốc gia Hội đồng
6.
HĐND
nhân dân Khiếu nại,
7.
KNTC
tố cáo Mặt trận Tổ
8.
MTTQ
quốc Nghị quyết
9.
NQ/TU
Thành uỷ
10.
NQ-TW
Nghị quyết Trung ương
11.
NXB
Nhà xuất bản
12.
PCTN
Phòng, chống tham nhũng
13.
QĐ-TW
Quyết định Trung ương
14.
ST
Sự thật
15.
THCS
Trung học cơ sở
16.
UBKT
Ủy ban kiểm tra
17.
Uỷ ban nhân dân
UBND 18.
Giải phóng mặt bằng
GPMB 19.
Bảo hiểm xã hội
BHXH
20.
CNH,
21.
VH-XH
ĐTH
Công nghiệp hóa, đô thị hóa
Văn hóa, xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề
tài
Từ những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã rất quan tâm đến
vấn đề giải quyết đơn thư của nhân dân. Vì vậy, ngày 23/11/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt.
Ngay khi ra đời, ngành Thanh tra đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình
trong bộ máy chính quyền nhân dân.
Sau khi Pháp lệnh Thanh tra được ban hành năm 1990, tiếp theo là
Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010, ngành Thanh tra Việt
Nam đã góp phần quan trọng vào việc PCTN; phòng ngừa, phát hiện và xử lý
hoặc kiến nghị xử lý những sai phạm liên quan tới các lĩnh vực quản lý nhà
nước; làm tốt công tác giải quyết đơn thư, nhất là các vụ đông người, phức
tạp; đề xuất với Đảng và nhà nước có chủ trương, biện pháp để khắc phục
những hạn chế, khiếm khuyết về cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước…qua đó góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, giữ
vững kỷ cương, luật pháp, đảm bảo an ninh trật tự xã hội để thực hiện mục
tiêu phát triển đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của ngành thanh tra
nói chung và cấp huyện nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế trong tổ
chức và hoạt động, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và nhân
dân, cụ thể: Hệ thống văn bản về tổ chức, hoạt động của ngành thanh tra còn
chưa đồng bộ, thiếu tính kịp thời; cơ cấu, tổ chức chưa hợp lý dẫn đến hoạt
động hiệu quả chưa cao; công tác thanh tra trách nhiệm, giải quyết đơn thư
có lúc chưa kịp thời, chất lượng thấp; việc thực hiện các quyết định, kết luận
có hiệu lực pháp luật còn nhiều hạn chế; công tác PCTN chưa đem lại hiệu
quả thiết thực.
Đối với Thanh tra huyện Hoài Đức, là huyện nằm ở phía tây của Thủ
đô Hà Nội, có dân số đông, đang có 1sự chuyển biến mạnh mẽ trong quá
trình CNH, ĐTH, thu hồi đất, GPMB nhiều dự án, bối cảnh đó đã tác động
không
nhỏ đến tổ chức, hoạt động của công tác thanh tra. Bên cạnh những kết quả
tích cực, công tác Thanh tra của huyện Hoài Đức vẫn còn nhiều bất cập,
hạn chế như: Biên chế, cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra thường xuyên
biến động; chưa phát huy hết vị trí, vai trò theo quy định; đội ngũ cán bộ năng
lực còn hạn chế, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều; trong tổ chức, hoạt động
vẫn chưa phát huy được tính độc lập; sự phối hợp giữa các ngành trong hoạt
động thanh tra còn thiếu chặt chẽ; kết quả các cuộc thanh tra trách nhiệm
hiệu quả chưa cao; việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp
luật chưa dứt điểm; thanh tra huyện không có biên chế cho cán bộ chuyên
trách PCTN nên công tác này còn gặp nhiều khó khăn; công tác giải quyết
đơn thư phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên kết quả giải quyết chưa thực sự đi tới
gốc của vấn đề cần xử lý.
Từ thực tế trên đã đặt ra những yêu cầu cho quản lý nhà nước về công
tác thanh tra nói chung và ở huyện Hoài Đức nói riêng một thiết chế thanh tra
hoàn chỉnh, thực sự là một cơ quan bảo vệ pháp luật, nhằm phát hiện sơ hở
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý
hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy
định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Từ những lý do này, học
viên chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện từ thực tiễn
huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2.
đề nhiều
tài công trình, đề tài khoa học nghiên cứu
ThờTình
i gianhình
gần nghiên
đây, đã cứu
có khá
về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra, cụ thể như:
- Sách chuyên khảo:
+ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nhằm tăng
cường năng lực phòng, chống tham nhũng” của Viện khoa học Thanh tra
2
(năm 2011), NXB Chính trị - Hành chính. Cuốn sách gồm 2 phần: Phần 1:
Một số vấn đề chung về công tác thanh tra - cơ sở thiết lập tổ chức và hoạt
động của ngành Thanh tra, vị trí, vai trò, đặc điểm của công tác thanh tra;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra; yêu cầu đối với công
tác thanh tra trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và cải cách hành chính. Phần 2: Việc đổi mới tổ chức, hoạt động của
ngành Thanh tra góp phần PCTN, trong đó đề cập đến Tổ chức và hoạt động
của ngành Thanh tra trong giai đoạn thực hiện pháp lệnh thanh tra năm 1990,
Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010.
+ “Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động thanh tra nhà nước Việt Nam” của TS. Phạm Tuấn Khải (năm 1998).
Cuốn sách đưa ra một số quan điểm và phương hướng hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của thanh tra phù hợp với yêu cầu của cải cách nền hành
chính trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp về mặt
khoa học cho quá trình hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, đóng
góp thiết thực vào việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra.
- Đề tài khoa học cấp Bộ
+“Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra theo hướng đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính”, Trần Đức Lượng - Vụ trưởng Vụ thanh tra kinh
tế II, Thanh tra nhà nước làm chủ nhiệm đề tài (năm 1996);
+ “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của các cơ
quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Bùi
Nguyên Súy (chủ nhiệm đề tài), Thanh tra Chính Phủ, 2007. Đề tài đã phân
tích, làm rõ một số các khái niệm về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải
quyết KNTC; làm rõ vai trò, vị trí và nội dung thanh tra trách nhiệm của
các cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết KNTC; đánh giá những kết
quả đạt được và những hạn chế trong công tác thanh tra trách nhiệm về
giải quyết KNTC và rút ra những nguyên nhân của hạn chế; đề xuất những
giải pháp cụ thể nhằm nâng
3
cao chất lượng, hiệu quả của các cuộc thanh tra trách nhiệm giải quyết KNTC
nói chung của toàn ngành Thanh tra.
+ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra trong cơ chế
thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa - Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi
Luật thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra”, Trần Văn Truyền-Tổng
Thanh tra Chính phủ (chủ nhiệm đề tài), Thanh tra Chính phủ 2009. Đề tài đã
nghiên cứu một cách sâu rộng về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra,
làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn, đưa ra những nhóm giải pháp đổi
mới tổ chức và hoạt động thanh tra, qua đó xác lập những luận cứ khoa học
cho việc sửa đổi Luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra.
+“Tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống các tổ
chức thanh tra nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác
thanh tra”, Nguyễn Văn Thanh (chủ nhiệm đề tài). Đề tài đưa ra một số vấn
đề lý luận về tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước và tính tất yếu
của việc tăng cường mối quan hệ trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà
nước; nội dung mối quan hệ trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước và
biện pháp nhằm tăng cường mối quan hệ đó.
+“Đổi mới công tác tổ chức cán bộ Thanh tra nhà nước”, Nguyễn
Khắc Hường (năm 2008). Đề tài nêu một số vấn đề lý luận về công tác tổ
chức cán bộ; thực trạng công tác cán bộ của ngành thanh tra và đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành thanh
tra.
- Luận án Tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn
hiện nay” (Nguyễn Thị Thương Huyền - Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009);
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra Việt
Nam” (Lê Thị Thu Oanh, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 2004).
- Luận văn thạc sĩ: Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Kim năm 2004
“Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành
chính ở Việt Nam”; luận văn của tác giả Trần Thị Ngọc Hoan, năm 2011 về
4
“Tổ chức và
hoạt động của thanh tra ngành thông tin và truyền thông”; Luận văn thạc sĩ
luật của Vũ Văn Đức, năm 2013 “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra tỉnh từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”; luận văn của tác giả Trương Văn Trường, năm
2013 về “Tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính cấp huyện từ thực
tiễn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
- Ngoài ra còn một số bài viết, bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra
nói chung và của Thanh tra cấp huyện nói riêng.
Những công trình nghiên cứu trên phần lớn là nghiên cứu ở tầm vĩ
mô, mang tính tổng thể, ở không gian rộng hoặc ở chuyên ngành nhất định.
Việc nghiên cứu cụ thể đối với hoạt động và tổ chức của thanh tra cấp huyện
trên địa bàn Thành phố Hà Nội chưa có công trình nào đề cập tới. Do vậy
việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện từ
thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” tiếp tục góp phần bổ sung
và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về tổ chức và hoạt động
của thanh tra huyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức, hoạt
động của thanh tra và đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của Thanh tra
huyện Hoài Đức, luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức
bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra cấp huyện ở nước ta
hiện nay.
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung chính sau
đây:
3.2.
Nhiệm
- Làm
sángvụtỏ những vấn đề cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động thanh
tra cấp huyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội; chỉ ra những kết quả, hạn chế, vướng
mắc và nguyên nhân.
5
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao
hiệu quả hoạt động của thanh tra cấp huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động của thanh tra huyện ở Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cơ quan Thanh tra của Việt Nam gồm cơ quan Thanh tra hành chính
và Thanh tra chuyên ngành, luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực
trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra cấp huyện (thanh tra hành
chính) ở huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội từ khi Luật Thanh tra năm
2010 có hiệu lực đến nay, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của thanh tra huyện giai đoạn 2016-2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật, về công tác thanh tra.
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu; thống
kê số liệu, khảo sát và phân tích tình hình thực tiễn tại địa phương; so sánh,
lịch sử. Ngoài ra, tác giả cũng có sự tiếp thu, kế thừa thành tựu nghiên cứu của
các công trình thực hiện trước về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn góp phần
hệ thống hóa, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động
của thanh tra hành chính cấp huyện
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện qua
thực tiễn tại huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội khi Luật Thanh tra có
hiệu lực
6
(01/07/2011) đến nay; chỉ ra những kết quả và bất cập, hạn chế trong tổ
chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về
tổ chức, hoạt động thanh tra cấp huyện đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan thanh tra cấp huyện
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Hoài
3: Quan
điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao
Đức,Chương
Thành phố
Hà Nội
hiệu quả hoạt động của thanh tra huyện
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA THANH TRA HUYỆN
1.1. Vị trí, vai trò của Thanh tra huyện
1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Thuật ngữ “thanh tra”: Trong tiếng Anh là Inspect được xuất phát từ
gốc Latinh là Inspetare có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra,
xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một số đối tượng nhất định.
Theo Từ điển pháp luật Anh - Việt, thuật ngữ thanh tra là sự kiểm
soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra [54, tr.203]. Cụ thể hơn, Từ điển
Tiếng Việt định nghĩa thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa
phương, cơ quan xí nghiệp [63,tr.882]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ
luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thanh tra được hiểu là hoạt động
kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch
nhà nước của cơ quan, tổ chức cá nhân và giám sát việc giải quyết KNTC của
cơ quan, người có thẩm quyền [53, tr.106].
Tuy nhiên thực tế trong hoạt động quản lý nhà nước, nhiều người vẫn
đồng nhất và hiểu đơn thuần kiểm tra cũng là thanh tra do gắn liền với hoạt
động quản lý. Để tránh nhầm lẫn, chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm này.
Khái niệm Thanh tra như đã nêu ở phần trên, còn kiểm tra là “xem xét
tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [63,tr.504]. Thực chất nếu hiểu theo
nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể quản lý nhằm tiến hành xem xét,
xác minh một việc gì đó của đối tượng quản lý xem có phù hợp hay không
với chương trình, kế hoạch được đưa ra trước đó. Kiểm tra vốn là chức năng
của người quản lý, không phân biệt họ làm gì ở cấp bậc nào trong bộ máy
quản lý nói chung và bộ máy quản lý nhà nước nói riêng.
Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra có mối quan
hệ chặt chẽ, gần gũi và có nhiều điểm tương đồng nhau. Tuy nhiên với tư
cách là một hoạt động độc lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra
như: về chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra rộng hơn hoạt động thanh tra
8
nhưng mục đích của hoạt động thanh tra lại rộng hơn, sâu hơn hoạt động kiểm
tra; phương pháp tiến hành của hoạt động thanh tra sâu hơn, đi vào thực chất
đến tận cùng của vấn đề hơn hoạt động kiểm tra.
Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận
thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước;
về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Thời kỳ phong kiến, ở các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “Ngự sử đài”,
người đứng đầu là “Quan ngự sử” với chức năng gần giống như cơ quan thanh
tra hiện nay. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét
các công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền
trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua. Thời nhà Lê có
hàm “Gián nghị đại phu” phong tặng cho bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng
sự thật. Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành
lập, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành
lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban
Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các
nhân viên của UBND và các cơ quan của Chính phủ”, từ đây thuật ngữ
“Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh tra được xác
định và chính thức giao
cho Chính
phủ. lệnh Thanh tra năm 1990; Thanh tra được coi là một chức
Theo Pháp
năng thiết yếu của quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng
cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ XHCN.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh
tra năm 2010 đã phân biệt Thanh tra nhà nước và Thanh tra nhân dân. Tuy
nhiên lại không quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh
tra nhà nước mà quy định cụ thể cho từng cơ quan thanh tra nhà nước,
nhưng có thể khái quát nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh
tra nhà nước là: quản lý nhà nước về công tác thanh tra; thanh tra việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp; thực
hiện nhiệm vụ giải quyết
9
KNTC; PCTN theo quy định của pháp luật và theo dõi, đôn đốc việc thực
hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 26 Luật thanh tra năm 2010, Thanh tra huyện
được hiểu: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách
nhiệm giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải
quyết KNTC và PCTN; tiến hành thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN theo
quy định của pháp luật.
1.1.2. Vị trí của thanh tra huyện
Luật Thanh tra năm 2010 đã không chia thành hai phân hệ như
Luật Thanh tra năm 2004 mà hệ thống cơ quan thanh tra được tổ chức
thống nhất theo chiều dọc từ trên xuống dưới theo cấp bậc. Việc quy định lại
tổ chức hoạt động của bộ máy thanh tra nhà nước thống nhất từ trên xuống
dưới đã tạo cho cơ quan thanh tra nói chung và cơ quan thanh tra các cấp nói
riêng có sự nhất quán trong hoạt động, có sự chỉ đạo chung thống nhất và tạo
độc lập tương đối cho cơ quan thanh tra khi thực hiện nhiệm vụ.
Theo quy định của pháp luật thanh tra hiện nay, thanh tra cấp huyện
là thanh tra hành chính, tại Khoản 2, Điều 3 luật Thanh tra năm 2010 quy
định “Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Theo khái niệm này,
thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là
thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới
(thuộc quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ
thể quản lý khác. Thanh tra hành chính vì vậy mang tính kiểm soát nội bộ
Còn “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên
môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó” (khoản 3, Điều
3). Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không
thành lập cơ
quan thanh tra chuyên ngành độc lập và khi tiến hành thanh tra, người được
10
giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành
chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy thanh tra chuyên ngành chỉ mang tính kiểm soát lĩnh vực chuyên
môn thuộc ngành đó phụ trách.
Qua phân tích nêu trên cho thấy, thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành có nhiều điểm khác biệt sâu sắc, thể hiện:
- Về chủ thể ra quyết định thanh tra, đối với thanh tra hành chính là
Chánh thanh tra nhà nước (hoặc thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước) còn
thanh tra chuyên ngành là Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ
trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (hoặc
Bộ trưởng, Giám đốc sở).
- Về đối tượng thanh tra: Thanh tra hành chính là cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải có quan hệ về mặt tổ chức với cơ quan quản lý. Còn đối tượng của
hoạt động thanh tra chuyên ngành là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động thuộc thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực, chuyên môn.
- Về phạm vi thanh tra: Đối với hoạt động thanh tra hành chính phạm vi
thanh tra mang tính toàn diện, mọi mặt của đối tượng hoặc thanh tra, đánh giá
một mặt của đối tượng. Còn hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động
thanh tra trong phạm vi ngành, lĩnh vực, hoạt động chuyên môn.
- Về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành thanh tra: Hoạt động thanh tra
hành chính được tiến hành bởi các Đoàn thanh tra. Khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định thanh tra hành chính sẽ thành lập Đoàn thanh tra để tiến
hành hoạt động thanh tra theo trình tự, thủ tục thời hạn theo quy định. Còn
hoạt động thanh tra chuyên ngành do các Thanh tra viên, người được giao
thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành thực hiện trong phạm vi, nhiệm
vụ, thời hạn được giao.
Trong hệ thống các cơ quan thanh tra, Thanh tra cấp huyện có vị trí vừa
là cơ quan thanh tra được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động thanh tra hành
chính đối với các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của UBND cấp
huyện,
11
đồng thời vừa là bộ phận tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện về công
tác thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN. Cơ quan Thanh tra cấp huyện cũng
là đơn vị thấp nhất trong hệ thống các cơ quan Thanh tra hành chính.
Quan hệ của cơ quan Thanh tra huyện với Chủ tịch UBND huyện:
Trong quan hệ công tác giữa thanh tra cấp huyện với Chủ tịch UBND cấp
huyện thì thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo trực tiếp và toàn diện của Chủ tịch
UBND cấp huyện. Thanh tra huyện là cơ quan tham mưu giúp Chủ tịch
UBND huyện trong quản lý nhà nước về công tác Thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Trực tiếp tham mưu giải quyết
KNTC và kiến nghị xử lý tố cáo giúp Chủ tịch UBND cấp huyện.
Quan hệ của thanh tra cấp huyện với các cơ quan chuyên môn cấp
huyện: là quan hệ phối hợp tham mưu giúp việc UBND huyện trong việc
nắm thông tin và xử lý các thông tin liên quan đến hoạt động thanh tra, giải
quyết KNTC và PCTN. Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được UBND huyện giao, tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp
luật nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện.
Quan hệ của cơ quan Thanh tra huyện với UBKT cùng cấp: Đảng ta đề
ra đường lối, chủ trương để Nhà nước cụ thể hóa bằng chính sách, pháp luật;
Đảng bồi dưỡng, đào tạo đảng viên để bầu và bổ nhiệm vào các cương vị lãnh
đạo của Nhà nước. Vì thế, cùng với công tác kiểm tra của UBKT Huyện ủy,
Thanh tra cấp huyện sẽ góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là của
BCH Đảng bộ, BTV Huyện ủy đối với cơ quan nhà nước và công chức, đảng
viên. Trong quan hệ với UBKT huyện ủy thì Thanh tra có vai trò phối hợp,
đồng chí Chánh thanh tra huyện đồng thời là Ủy viên UBKT Huyện ủy.
Đối với Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra cấp huyện là cấp dưới trực tiếp,
chịu sự chỉ đạo của Thanh tra cấp tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ trong công
tác thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN và đôn đốc các quyết định, kết luận có
hiệu lực pháp luật. Thanh tra cấp huyện hàng tháng, quý, năm có trách nhiệm
báo cáo công tác với Thanh tra cấp tỉnh và các báo cáo chuyên đề theo yêu
12
cầu của thanh tra cấp tỉnh. Thực hiện việc chỉ đạo, tập huấn nghiệp vụ,
chuyên môn của Thanh tra cấp tỉnh.
1.1.3. Vai trò của Thanh tra huyện
a. Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế Xã hội chủ
nghĩa
Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ
thống chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế XHCN. Nội
dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một
cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên hay đứng ngoài pháp
luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ phía
các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu sự
quản lý của nhà nước.
Tầm quan trọng của hoạt động thanh tra được Thủ tướng Phạm
Văn Đồng nhấn mạnh: “Vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra là ở
chỗ nó phát hiện cho mình những cái mà mình cần, nó thường xuyên là tai
mắt của mình, nó biết nhìn, biết thấy, biết phát hiện và biết chỉ cho mình thấy
những cái mà mình cần biết” [55, tr.93].
Tại Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đã khẳng định: “Thanh tra
là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước”. Phát triển hơn
đến Luật Thanh tra 2004 và đặc biệt đến Luật Thanh tra năm 2010, cơ quan
thanh tra thực hiện chức năng quản lý nhà nước được thể hiện cụ thể hóa
trong quy định của từng cấp thanh tra. Thanh tra cấp huyện: “có trách nhiệm
giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra…”
Hoạt động thanh tra cấp huyện không chỉ tìm ra những sơ hở, yếu
kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung trong chủ trương,
chính sách chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan mà còn phải phát
huy những nhân tố tích cực, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân trên phạm vi thuộc quản lý của UBND
cấp huyện. Có như vậy, hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong hoàn cảnh thực tiễn của địa phương, hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước mới được nâng lên.
13
Sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với nhiều lý
do khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều
biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đó đều
có thể được thực hiện thông qua công tác thanh tra, qua thanh tra có thể đánh
giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật ra sao,
có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào... Từ đó đề ra những
biện pháp xử lý thích hợp.
b. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử
lý những hành vi vi phạm pháp luật
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý
mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra là nguyên nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến
tham ô, lãng phí. Để chống bệnh quan liêu, Người cho rằng chỉ có một cách,
đó là phải kiểm tra, kiểm soát. Ngay từ năm 1945, Sắc lệnh số 64/SL do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt đã
quy định quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt là: “Đình chức, bắt giam
bất cứ nhân viên nào trong UBND hay Chính phủ đã phạm lỗi”. Mặt khác,
theo Bác muốn ngăn chặn và xử lý được những hành vi vi phạm của người
khác thì trước tiên chính cán bộ thanh tra phải là người gương mẫu.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định phải “lấy
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ
để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi
ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.” Văn kiện cũng đưa ra một trong những
biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là “Tiếp tục kiện
toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn
chặn quan hệ “lợi ích nhóm”, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy
nhiệm kỳ” ”.
14
Luật Thanh tra và nhiều văn bản pháp luật khác đã quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra và các cơ quan có chức năng kiểm
tra, giám sát khác trong việc đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên, vai trò của thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu
là phát hiện và xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với cấp huyện, thông qua hoạt động thanh tra cấp huyện, những sai
sót trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật trong phạm vi
huyện được phát hiện và khắc phục kịp thời; những lỗ hổng, sự vướng mắc
trong các chính sách, pháp luật được kiến nghị điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh
đó, thông qua hoạt động thanh tra, các chủ thể quản lý thu thập nhiều thông
tin góp phần phát hiện sự thay đổi và dự báo những vấn đề sẽ phát sinh để có
biện pháp phòng ngừa thích hợp. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong quá trình đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
c. Thanh tra giúp bảo đảm việc thực hiện các quyền tự do của công dân
Nhà nước XHCN Việt Nam mang bản chất nhân dân, tất cả quyền
lực
nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn, là chủ thể của quyền
lực nhà nước. Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “1. Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Với quy định trên đã đặt ra yêu cầu là hoạt động của bộ máy nhà
nước phải luôn hướng tới lợi ích của nhân dân. Hoạt động toàn ngành thanh
tra nói chung trong đó có Thanh tra cấp huyện đã góp phần bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động giải quyết KNTC và thanh tra. Nhờ
có phạm vi hoạt động rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực nên thanh tra đã góp
phần đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm, bảo vệ
các quyền tự do cơ bản của công dân, lợi ích của Nhà nước và cộng
đồng. Đúng là“Chúng ta có chính sách đúng, có pháp luật phù hợp với thực
15
tiễn nhưng nếu
không thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thì các chủ trương, pháp luật đó
sẽ không đi vào đời sống và nạn tham nhũng, sách nhiễu, phiền hà dân vẫn sẽ
xảy ra” [18, tr.52].
Trong quá trình thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình, công dân có
quyền tố cáo đối với những cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức vi phạm
pháp luật khi thực thi công vụ; khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nếu quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Với vị trí, vai trò là cơ quan tham mưu UBND huyện, trực tiếp là Chủ
tịch UBND huyện trong giải quyết KNTC thuộc thẩm quyền, cơ quan Thanh
tra có trách nhiệm tham mưu UBND huyện tiến hành xác minh, ban hành kết
luận tố cáo, quyết định giải quyết khiếu nại hành chính và gửi công dân. Bảo
đảm đơn thư KNTC của công dân đều được xem xét giải quyết, bảo vệ tốt
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời kiến nghị việc xử lý đối với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Thanh tra cấp huyện còn có vai trò quan trọng, thể hiện là phương tiện
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh trong quản lý nhà nước;
các thông tin và kết quả thanh tra có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn. Tuy nhiên tác dụng này chỉ có được khi các kết luận, kiến
nghị thanh tra được đưa ra trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan, đúng pháp
luật, hợp lý và cán bộ thanh tra là người không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ mà còn là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức.
Thanh tra còn là phương tiện hoàn thiện bản thân chủ thể quản lý nhà
nước là UBND cấp huyện. Thông qua hoạt động thanh tra sẽ giúp UBND cấp
huyện hoàn thiện các phương tiện quản lý nhà nước đặc biệt là sự chỉ đạo,
điều hành và hoạt động của UBND cũng như đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra cấp huyện giúp cho UBND cấp huyện
ra các quyết định áp dụng chính xác, đúng đắn, khách quan và phù hợp hơn
với thực tế.
16
- Xem thêm -