Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều nguyễn gia...

Tài liệu Tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều nguyễn giai đoạn 1802 1885

.PDF
59
353
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------------------- Lê Tiến Công TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62 22 03 13 Huế, 2015 Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Bang PGS.TS. Nguyễn Văn Đăng Phản biện 1: PGS.TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân, Trung tâm nghiên cứu đô thị TP HCM Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Phản biện 2: PGS.TS. Lưu Trang, Trường Đại học Sư Phạm, ĐH Đà Nẵng Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp tại: số 3, đường Lê Lợi, TP Huế. Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện trường Đại học Khoa học, Đại học Huế và Thư viện Quốc gia. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN I. Báo cáo khoa học 1. Lê Tiến Công (2006), “Thông tin liên lạc trong việc bảo vệ biển dưới thời Gia Long, Minh Mạng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (366), tháng 10. ISSN 08667497. 2. Lê Tiến Công (2007), “Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua Nguyễn”, Xưa & Nay, (275,276). ISSN 868-331X. 3. Lê Tiến Công (2008), “Tuần tra, kiểm soát vùng biển thời Nguyễn sơ”, tham luận tại hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Hà Nội. 4. Lê Tiến Công (2012), “Những cuộc đụng độ của nhà Nguyễn với phương Tây tại Đà Nẵng trước năm 1858”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Xứ Quảng, số 1. 5. Lê Tiến Công (2012), “Ví trí chiến lược Nam Trung bộ trong cái nhìn an ninh biển đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 10. ISSN 1859-2163. 6. Lê Tiến Công (2012), “Những người Việt lưu lạc trong cuộc chiến với Hà Lan năm 1644”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, 12. ISSN 1859-2163. 7. Lê Tiến Công (2012) “Tổ chức phòng thủ vùng biển Miền Trung dưới triều Nguyễn”, Hội thảo khoa học Biển Đông - hợp tác và phát triển, Học viện chính trị Quốc gia, Khu vực III. 8. Lê Tiến Công (2013), “Biến cố trên Côn Đảo đầu thế kỷ XIII”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 2/ 2013. ISSN 1859-2163. 9. Lê Tiến Công (2013), “Tổ chức phòng thủ vùng biển Miền Trung đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, số 1 (99). ISSN. 1859-0152. 10. Lê Tiến Công (2013), “Tuần tra, kiểm soát vùng biển thời Nguyễn Sơ”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 6. ISSN 18591388. 11. Lê Tiến Công (2013), “Tìm thấy tư liệu quý về công tác tuần tra vùng biển tại Cù Lao Chàm- Tân Hiệp, Hội An”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 119. ISSN 1859-2163. 12. Lê Tiến Công (2013), “Hệ thống phòng thủ cảng biển miền Trung trong cuộc kháng chiến chóng ngoại xâm dưới triều Nguyễn (1858-1883)”, Hội thảo khoa học Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc vào thế kỷ XIX do Hội KHLS tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức. Đã xuất bản trong sách: Đỗ Bang chủ biên (2014), Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX, NXB Đà Nẵng. 13. Lê Tiến Công (2014), “Việc bố phòng tại các cửa biển miền Trung trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm (1858-1883)”, Tạp chí Xưa & Nay, số 448, tháng 6. ISSN 868-331X 14. Lê Tiến Công (2014), “Về công tác vẽ bản đồ, thăm dò đường biển và vận tải công trên biển dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu & phát triển, số 3 (110). ISSN. 1859-0152. 15. Lê Tiến Công (2014), “Triều Nguyễn với công tác cứu hộ, cứu nạn tại v ng iển miền Trung”. Tạp chí KHXH&NV, sở KHCN Nghệ An, số tháng 7. II. Đề tài nghiên cứu khoa học Tham gia đề tài: Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam thời Nguyễn giai đoạn 1802-1885. Đề tài khoa học Nafoted do PGS.TS. Đỗ Bang chủ nhiệm, thời gian thực hiện: 2012-2014. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Vùng biển Việt Nam dài rộng, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với kinh kế xã hội và an ninh quốc phòng. Hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, vùng biển và hải đảo được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đó là, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, nhằm bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, trong đó có vùng biển và hải đảo. Từ trong lịch sử, các triều đại quân chủ Việt Nam luôn coi trọng vị trí chiến lược của biển đảo. Vào đầu thế kỷ XIX, để đối phó với âm mưu xâm lược từ bên ngoài triều Nguyễn vừa phải quan tâm bảo vệ biên giới trên đất liền, vừa phải quan tâm đến công tác phòng thủ quốc gia từ phía biển. Mặc dù triều Nguyễn không thành công trong công cuộc chống ngoại xâm vào nửa sau thế kỷ XIX nhưng những nỗ lực trong bảo vệ đất nước mà triều đại này đã làm vẫn là bài học kinh nghiệm quý cho hậu thế trong xây dựng và bảo vệ vùng biển, bảo vệ đất nước. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa lớn hơn trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn dần trên Biển Đông, không phải từ các nước xa lạ mà chính từ nước láng giềng. Vùng biển luôn có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bảo vệ vững chắc và xây dựng vùng biển đảo giàu mạnh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nghiên cứu truyền thống quốc phòng, an ninh nói chung, bảo vệ biển nói riêng dưới triều Nguyễn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lịch sử và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong truyền thống giữ nước. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu việc tổ chức và hoạt động bảo vệ quốc gia trên biển, trực tiếp là hệ thống phòng thủ vùng biển dưới triều Nguyễn có ý nghĩa thời sự, khoa học và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở trong nước Những năm đầu thế kỷ XX, tạp chí Những người bạn cố đô Huế có một số bài viết giới thiệu các tư liệu liên quan đến quá trình xâm nhập của phương Tây vào Việt Nam. Giai đoạn trước năm 1975 đáng chú ý nhất là Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa trên tập san Sử Địa số 29 năm 1975 với các bài viết giá trị cung cấp nhiều tư liệu và luận cứ khoa học khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa được người Việt khẳng định chủ quyền từ nhiều thế kỷ trước. Sau 1975, việc nghiên cứu chú trọng nhiều về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa, lịch sử thủy quân và lịch sử chống ngoại xâm. Đáng chú ý là các sách trắng về Hoàng Sa, Trường Sa vừa cung cấp tư liệu, vừa phân tích tính pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Năm 1995, đề tài cấp Quốc gia về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Nguyễn Quang Ngọc làm chủ nhiệm được thực hiện thành công với nhiều đóng góp trong tiến trình nghiên cứu về Hoàng Sa, Trường Sa đặc biệt ở góc độ bản đồ, tài liệu thư tịch cổ trong nước và tư liệu phương Tây. Năm 2003, Nguyễn Nhã bảo vệ luận án Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Luận án chứng minh quá trình chiếm hữu thực sự, hoà bình và thực thi liên tục của các nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bên cạnh đó có một số đề tài liên quan như: Đề tài Hệ thống công trình phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885) do Đỗ Bang làm chủ nhiệm. Đề tài Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam với huyện đảo Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng do Trần Đức Anh Sơn làm chủ nhiệm... Từ đầu năm 2012 đến cuối năm 2014, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế chủ trì thực hiện đề tài khoa học “Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn thời kỳ 18021885”. Đề tài do Đỗ Bang làm chủ nhiệm, mã số IV4-2011.10, thuộc quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (Nafosted). Ở đề tài trên chúng tôi thực hiện các nội dung: “Hệ thống các công trình phòng thủ ở các cửa biển miền Trung dưới triều Nguyễn”, “Chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “Cứu hộ, cứu nạn”. Bên cạnh đó, chúng tôi tham gia viết các phần chống cướp biển (phần miền Trung), vẽ bản đồ, vận tải biển, kiểm soát tàu thuyền. Những năm gần đây có nhiều cuốn sách liên quan đến Biển Đông được xuất bản của của một số tác giả như Nguyễn Nhã, Đinh Kim Phúc, Nguyễn Văn Kim, Trần Công Trục, Vũ Hữu San, Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Ngọc Trường... Điểm nổi bật của các công trình trên là tiếp tục công bố những tài liệu, bản đồ và phân tích cơ sở pháp lý của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Bên cạnh đó còn có một số cuốn sách có liên quan trực tiếp đến đề tài như Tuyển tập các Châu ản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Ủy ban Biên giới Quốc gia). Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các v ng iển của Việt Nam ở Biển Đông (Viện nghiên cứu Hán Nôm). Tháng 5.2014, sách Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX do Đỗ Bang chủ biên là cuốn sách mới nhất có liên quan trực tiếp đến đề tài. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn khách quan về Triều Nguyễn – với tư cách là triều đại quản lý lãnh thổ, lãnh hải rộng lớn. Cũng trong cuốn sách này, chúng tôi có thực hiện phần “Hệ thống phòng thủ cảng biển miền Trung trong cuộc kháng chiến chóng ngoại xâm dưới triều Nguyễn (18581883)”. Tháng 9.2014, Trần Đức Anh Sơn (đứng tên và chủ biên) công bố 3 cuốn sách về thuyền chiến và tư liệu Hoàng Sa, Trường Sa góp phần vào thành tựu nghiên cứu về biển đảo Việt Nam. Các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Xưa & Nay, Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu & Phát Triển, Huế xưa & nay,… trong những năm qua đã đăng nhiều bài viết liên quan đến Hoàng Sa – Trường Sa cũng như các nội dung liên quan đến đến đề tài. Ngoài ra còn phải kể đến một số luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phòng thủ và hoạt động chống ngoại xâm dưới triều Nguyễn của các tác giả Lưu Trang, Lưu Anh Rô, Lê Thị Toán, Lê Tiến Công, Bùi Gia Khánh, Đinh Thị Hải Đường… 2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài Các học giả phương Tây có nghiên cứu về lịch sử chủ quyền Biển Đông phải kể đến Marwyn S. Samyels, Tranh chấp Biển Đông, Methuen. Monique Chemillier- Gendreau, Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Braice M. Claget, Những yêu sách và đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vựa ãi ngầm Tư Chính và Thanh Long trong Biển Đông. Philippe Devillers, Nước Pháp và người An Nam, bạn hay th ?… Liên quan đến về quá trình ứng phó của vua đầu triều Nguyễn đối với âm mưu xâm lược của phương Tây phải kể đến các luận án tiến sĩ của Trương Bá Cần, Cao Huy Thuần, Y. Tsuboi… Nếu như các học giả phương Tây có những nghiên cứu khách quan về lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì các học giả Trung Quốc lại ngụy biện trong các công trình của họ. Tiêu biểu trong các nghiên cứu của Trung Quốc là cuốn sách của Hàn Chấn Hoa có tựa đề Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hối iên. Tuy nhiên nghiên cứu của họ bị các nhà nghiên cứu Việt Nam bác bỏ bằng các tư liệu trong và ngoài nước. Đặc biệt hơn, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng chỉ ra trong các sử liệu của Trung Quốc không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà các nhà nước quân chủ Việt Nam đã chiếm hữu. Như vậy, nghiên cứu về Biển Đông mà đặc biệt là chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông là chủ đề không mới. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung nhiều về vấn đề lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, trong khi những nghiên cứu về vấn đề bảo vệ vùng biển chưa được quan tâm đúng mức như: hệ thống phòng thủ, công tác tuần tra, kiểm soát vùng biển, chống cướp biển, cứu hộ cứu nạn, vận tải công,… đều là những hoạt động thường xuyên, liên tục trong suốt giai đoạn độc lập của nhà Nguyễn. Trên cơ sở kế thừa, phát triển từ kết quả nghiên cứu luận văn thạc sĩ của tác giả bảo vệ năm 2006, chúng tôi mở rộng về thời gian nghiên cứu cũng như hệ thống và cập nhật những tư liệu, kết quả nghiên cứu mới nhất để thực hiện luận án tiến sĩ. Quá trình nghiên cứu luận án cũng là quá trình tác giả tham gia thực hiện đề tài khoa học mã số IV4-2011.10. Tác giả là người tham gia viết các phần liên quan trực tiếp đến hệ thống phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung. Luận án cũng là sản phẩn đào tạo thuộc đề tài khoa học nói trên. Trong luận án chúng tôi bổ sung nhiều tư liệu điền dã là các văn bản Hán Nôm, bằng sắc thủy quân, các văn bia, đặc biệt là các Châu ản triều Nguyễn chưa từng được công bố để nghiên cứu nhằm bổ sung, góp phần nghiên cứu về lịch sử bảo vệ biển đảo dưới triều Nguyễn. 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu về việc tổ chức và các hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung của triều Nguyễn nhằm thấy được một cách cụ thể và khái quát những thành công và hạn chế về công cuộc bảo vệ vùng biển cũng là bảo vệ quốc gia đương thời. Nhiệm vụ của luận án là nêu và phân tích các chính sách, biện pháp của triều Nguyễn trong việc thực hiện phòng thủ và bảo vệ vùng biển. Nghiên cứu, đánh giá hệ thống phòng thủ vùng biển miền Trung trong mối tương quan với nhiệm vụ phòng thủ đất nước dưới triều Nguyễn. Nghiên cứu về cách thức tổ chức, huấn luyện và trang bị của thủy quân; các hoạt động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển, bao gồm chống ngoại xâm, chống cướp biển, tuần tra kiểm soát vùng biển, cứu hộ cứu nạn. Luận án cũng nghiên cứu việc tổ chức bảo vệ và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa dưới triều Nguyễn, nhằm thấy được tính liên tục và quyết tâm khẳng định chủ quyền của các vua triều Nguyễn trên hai quần đảo này... 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng của đề tài là nghiên cứu toàn bộ công cuộc tổ chức phòng thủ và những hoạt động bảo vệ vùng biển ở miền Trung Việt Nam dưới triều Nguyễn, được thể hiện bằng những chủ trương, cơ chế tổ chức cũng như những hoạt động cụ thể, sinh động đương thời. Đề tài giới hạn trong phạm vi không gian vùng biển các tỉnh miền Trung Việt Nam đương thời, bao gồm tất cả vùng biển, bờ biển, cửa biển, hải đảo, chú trọng đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian nghiên cứu trong đề tài từ năm 1802 đến năm 1885, đây là giai đoạn từ khi triều Nguyễn thành lập đến sự kiện Kinh đô thất thủ, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. 5. NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU Nguồn tư liệu quan trọng nhất là các tư liệu gốc liên quan trực tiếp đến triều Nguyễn. Đặc biệt nguồn tư liệu quan trọng được chúng tôi khai thác là Châu ản triều Nguyễn. Nhiều Châu ản triều Nguyễn được chúng tôi sử dụng trong luận án là những tư liệu quý chưa từng được công bố. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước gồm các nhóm tài liệu như: các báo cáo kết quả công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các tham luận hội thảo quốc gia và quốc tế. Một nguồn tài liệu quan trọng khác là các tư liệu điền dã của tác giả tại miền Trung. Đó là các văn bản Hán Nôm (chưa công bố) gồm các sắc, bằng, chế, báo cáo của thủy quân; các văn bia, tài liệu địa chí địa phương. Bên cạnh đó, tác giả xác định vị trí, đo vẽ một số di tích còn lại trên thực tế nhằm bổ sung và củng cố các luận chứng trong luận án. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này tác giả sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và phương pháp lôgic để nghiên cứu. Chúng tôi áp dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu liên ngành: Khảo cổ học, bản đồ, thống kê, so sánh,… 7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN Luận án là kết quả của một quá trình nghiên cứu có tính hệ thống của tác giả, được hoàn thiện và bổ sung bằng các tư liệu mới phát hiện, đặc biệt là các tư liệu điền dã, bao gồm các văn bia, văn bản Hán Nôm như: sắc phong, bằng, chế, báo cáo… liên quan đến thủy binh triều Nguyễn. Bên cạnh tư liệu điền dã, tác giả cũng đã khai thác các tư liệu Châu ản triều Nguyễn liên quan đến đề tài, nhiều tài liệu châu bản sử dụng trong luận án chưa được công bố. Đóng góp mới của luận án là cung cấp những tư liệu mới, có hệ thống, khách quan liên quan đến chủ đề bảo vệ đất nước và vùng biển Miền Trung dưới triều Nguyễn. Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về công cuộc tổ chức và bảo vệ biển đảo tại miền Trung dưới triều Nguyễn. Tác giả đã nghiên cứu và làm rõ những nỗ lực bảo vệ chủ quyền, an ninh vùng biển của nhà Nguyễn. Luận án chỉ ra những cơ sở tác động đến việc tổ chức phòng thủ. Quá trình xây dựng và thiết lập hệ thống phòng thủ, lực lượng, phương tiện phòng thủ. Các hoạt động thực thi chủ quyền vùng biển… được nêu và phân tích những mặt tích cực, hạn chế của các hoạt động này. Thông qua kết quá nghiên cứu về công cuộc bảo vệ biển, bảo vệ đất nước dưới triều Nguyễn, luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học có thể tham khảo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay. 8. BỐ CỤC LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận án được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở tác động đến việc tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885 Chương 2: Tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885 Chương 3: Hoạt động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885 Chương 1 CƠ SỞ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885 1.1. VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG Vùng biển miền Trung có vị trí quan trọng trong tổng thể biển đảo Việt Nam, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển. Với vị trí quan trọng của nó, từ trong lịch sử, vùng biển đã được cha ông chú ý khai thác và bảo vệ, thực thi chủ quyền lãnh thổ như là một phần máu thịt của quốc gia Đại Việt. 1.2. TRUYỀN THỐNG BẢO VỆ VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TẠI MIỀN TRUNG TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN 1.2.1. Truyền thống bảo vệ biển Dưới thời chúa Nguyễn, tài liệu ghi nhận những chiến công trong việc bảo vệ vùng biển đảo, chống lại sự đe dọa của các thế lực bên ngoài. Tiêu biểu là năm 1559, tàu Tây Ban Nha đã bị lực lượng phòng hải của chúa Nguyễn đuổi ra khỏi vùng biển. Giữa thế kỷ XVII, thủy quân chúa Nguyễn cũng giành thắng lợi trong cuộc đụng độ với tàu Hà Han tại vùng biển miền Trung. Đầu thế kỷ XVIII, quân chúa Nguyễn đã đẩy lui quân Anh muốn xâm chiếm Côn Đảo. Dưới thời Tây Sơn, tuy thời gian tồn tại không dài nhưng triều đại này rất chú trọng là tăng cường thủy quân theo hướng quân thủy biển. Như vậy mặc dù có sự quan tâm khác nhau nhưng các triều đại trong lịch sử Việt Nam luôn chú ý đến phòng thủ ở các cửa biển, vùng biển chiến lược. Bên cạnh hệ thống phòng thủ là việc thường xuyên trang bị thuyền chiến, vũ khí sẵn sàng thực thi chủ quyền khi cần thiết. 1.2.2. Bảo vệ và khai thác nguồn lợi trên quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa trước triều Nguyễn Đồng thời với quá trình Nam tiến của dân tộc, các chúa Nguyễn đã tiếp tục quản lý các quần đảo ngoài khơi. Đây là hai quần đảo nằm xa bờ, không phải là dải cát ven biển miền Trung kéo dài từ cửa Nhật Lệ (Quang Bình) tới Tư Dung (Thừa Thiên Huế) thường được gọi là “Đại Trường Sa”, “Tiểu Trường Sa”. Điều này được các nhà hàng hải phương Tây ghi chép và luôn xem các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Trong sách Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, người Trung Quốc sang Đàng Trong năm 1695 có đoạn miêu tả về Vạn Lý Trường Sa thuộc sự quản lý của chúa Nguyễn. Ở Việt Nam, những tư liệu được chép trước thế kỷ XIX hầu hết có những nội dung tương đồng, trong đó sách Phủ iên tạp lục của Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 có thể xem là đầy đủ nhất. Sách Đại Việt sử ký tục iên hay về sau là Đại Nam thực lục tiền iên, Đại Nam nhất thống chí căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Nhiều văn bản hiện còn lưu trữ trong dân gian ở huyện đảo Lý Sơn cũng bổ sung thêm tư liệu về việc quản lý và khai thác tại Hoàng Sa... Có thể nói việc quản lý và khai thác quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trước thế kỷ XIX đã được ghi chép trong các thư tịch trong và ngoài nước. Các tư liệu đều khẳng định từ đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã quản lý và khai thác tại đây. Đây là công việc do nhà nước quản lý và đội Hoàng Sa, Bắc Hải thực thi nhiệm vụ. Hàng năm vào lúc thuận gió, từ tháng 3 đến tháng 8 họ lại ra biển để làm nhiệm vụ của Nhà nước giao phó. Họ đã xác định được tại đây có hơn 130 bãi cát và hải trình đi tới các hòn đảo như thế nào. Bên cạnh đó, họ tổ chức thu lượm hóa vật, sản vật đem về phủ Phú Xuân giao nộp. Hoạt động này diễn ra thường xuyên, được duy trì dưới thời Tây Sơn và được kế tục, nâng cao hơn dưới triều Nguyễn. 1.3. BỐI CẢNH CẢNH LỊCH SỬ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885 Vào đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn thành lập thì bối cảnh thế giới đang có bước chuyển biến mạnh mẽ. Đây là thời đại của các nước tư bản ráo riết tranh giành thị trường và xâm lược thuộc địa. Nhiều nước phương Đông lần lượt bị thôn tính, điều đó trực tiếp đe dọa đến chủ quyền của các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam. Các vua Nguyễn đã luôn coi phương Tây có những đe dọa tiềm tàng đối với an ninh và rối loạn tư tưởng thống trị là Nho giáo. Trong bối cảnh đó các vua Nguyễn nhận thấy những nguy cơ tiềm ẩn buộc phải thực thi một số chính sách về quốc phòng, an ninh nói chung, phòng thủ biển nói riêng nhưng nhìn chung không đủ để vươn tới tầm khoa học kỹ thuật của thời đại. 1.4. BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG TRONG TẦM NHÌN QUỐC PHÒNG - AN NINH DƯỚI TRIỀU NGUYỄN Cơ sở cho việc triều nguyễn tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung có sự kết thừa từ truyền thống hướng biển từ các triều đại trước. Các vua từ Gia Long tới Tự Đức đều phải chăm lo xây dựng và củng cố chính quyền, phát triển kinh tế xã hội lại phải đặc biệt quan tâm đến an ninh quốc phòng, bảo vệ đất nước. Nghiên cứu về cái nhìn hướng biển của các vua Nguyễn, chúng tôi nhận thấy quan điểm về biển của các vua đầu triều Nguyễn không chỉ thể hiện sâu sắc qua những phát biểu trong các buổi nghị sự, những chỉ dụ mà còn được thể hiện qua những đánh giá xác thực về tầm quan trọng của biển cả. Cái nhìn về an ninh quốc phòng vùng biển miền Trung còn được thể hiện qua hệ thống phòng thủ, thủy quân hay tổ chức thực thi chủ quyền trên vùng biển đảo... Tất cả những điều đó là cơ sở để vua Nguyễn thực thi một số biện pháp trong tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung, vừa bảo vệ vùng biển, vừa trực tiếp bảo vệ cho Kinh đô của mình. CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885 2.1. HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN Từ việc đánh giá cao vị thế quan trọng của vùng biển và hải đảo miền Trung nên suốt một dải miềm Trung từ bắc vào nam nhà Nguyễn đều cho đặt các cơ sở phòng thủ vùng biển, là các thành đồn, tấn sở trong đó ưu tiên đặc biệt cho cửa Thuận An, Đà Nẵng. Các tỉnh duyên hải “không đâu không lập pháo đài”. Điều đáng lưu ý là mỗi khi Đà Nẵng hữu sự thì các vua Nguyễn đều tỏ ra vô cùng lo lắng và tăng cường bố phòng cửa Thuận An. Nhìn chung dưới triều Nguyễn đứng trước nguy cơ bị tấn công từ phía biển, nhà nước đã cho xây dựng tại các cảng biển miền Trung một hệ thống các công trình phòng thủ khá kiên cố. Tùy theo mức độ quan trọng để bố trí lực lượng tại các cửa biển. Các công trình phòng thủ vùng biển nói trên được xây dựng vào thời bình, về sau, với cuộc kháng chiến chống xâm lược, hệ thống này được tiếp tục tăng cường theo hướng chú trọng các cửa biển quan trọng. Cho đến nay, những di tích đáng kể của hệ thống phòng thủ cửa biển là di tích Thành Trấn Hải, Hải Vân Quan và thành Điện Hải. Cũng qua khảo sát tại Hải Vân Quan, chúng tôi xác định vị trí đặt cửa ải này không phải là chỗ “hiểm yếu” nhất mà là chỗ dễ quan sát xuống cửa biển Đà Nẵng nhất. 2.3. TỔ CHỨC, HUẤN LUYỆN THỦY QUÂN 2.3.1. Tổ chức thủy quân Quân thủy thời Nguyễn gồm bộ phận đóng ở kinh và các tỉnh. Thủy quân đóng ở Kinh đô gọi là Thủy sư kinh kỳ. Vào đầu thời Gia Long, lực lượng thủy quân có 5 doanh, gồm các doanh Nội thủy, Tiền thủy, Tả thủy, Hữu thủy, Hậu thủy. Thời Minh Mạng chia đặt lại làm 3 doanh là Trung, Tả, Hữu. Mỗi doanh 5 vệ, mỗi vệ 10 đội. Thủy quân ở các tỉnh đến năm 1827 dưới thời Minh Mạng cho đổi là vệ, chịu sự chỉ huy trực tiếp của Đề đốc hoặc Lãnh binh (tỉnh lớn), Lãnh binh hoặc Phó lãnh binh (tỉnh nhỏ). Ở các tỉnh, tùy theo vị trí mà quân số và biên chế có khác nhau. Các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Trị, Quảng Bình đều chỉ có 1 vệ (khoảng 500 người). Các tỉnh Quảng Nam, Bình Thuận, Thanh Hóa đều có 2 vệ, riêng Nghệ An có 4 vệ. Cần lưu ý rằng quân số tại cửa biển Đà Nẵng là quân chính qui của triều đình được chia đóng luân phiên thay đổi tại đây. Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi có tiếp cận các tài liệu chữ Hán hiện lưu giữ ở địa phương chưa từng được công bố cho thấy rất nhiều các tư liệu trong dân gian về các dòng họ có truyền thống bám biển, giữ biển được nhà nước trọng dụng vào việc công. Những tư liệu phát hiện tại địa phương đã bổ sung những tư liệu quý vào chính sử triều Nguyễn về công tác bảo vệ biển và tính cộng đồng giữ biển dưới triều đại này. 2.3.2. Huấn luyện thủy quân Công tác huấn luyện của thủy quân dưới thời Nguyễn chủ yếu là các cuộc diễn tập tại các cửa biển. Bên cạnh đó, nhà Nguyễn cũng kết hợp giữa việc diễn tập với công tác tuần tra hay vận tải. Vua Minh Mạng từng khẳng định: khi đưa thủy quân ra biển là một việc mà có 3 điều lợi, vừa giúp vận tải, tuần tra – thao diễn, vừa quen đường biển. Trên biển, thủy quân thao diễn cách bắn đại bác vào mô hình thuyền giả định. Đó là cách diễn tập theo mô hình tĩnh, chủ động tạo đích bắn phá trong các cuộc tập luyện. Về chiến thuật, hiện nay chúng ta không tìm thấy những tài liệu riêng biệt nói về chiến thuật dụng binh, trong đó về thủy binh và cách bố trí thuyền chiến mỗi lúc xung trận mặc dù từ khi Nguyễn Ánh còn ở Gia Định, thủy quân của ông đã biết sử dụng chiến thuật hàng hải. 2.3. THUYỀN CHIẾN, VŨ KHÍ VÀ THÔNG TIN LIÊN LẠC 2.3.1. Thuyền chiến của thủy quân Thuyền chiến dưới triều Nguyễn có nhiều loại nhưng đáng chú ý và chiếm số lượng nhiều là thuyền bọc đồng. Theo thống kê của chúng tôi, trong các năm từ năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đến năm Tự Đức thứ 4 (1852), có 43 lần đóng thuyền bọc đồng nhiều dây. Trong đó, thuyền đồng được đóng nhiều nhất dưới thời Minh Mạng (29 chiếc). Thiệu Trị chỉ cho đóng 10 chiếc, nhưng trong đó có những chiếc rất lớn với chiều dài lên tới 8, 9 trượng. Cũng cần lưu ý rằng thuyền đồng không chỉ được đóng ở kinh mà còn được đóng ở các tỉnh sẵn có vật liệu tốt để đóng thuyền. Thuyền công hay thuyền tuần dương thời Nguyễn đều mang nặng yếu tố quân thuyền do đặc điểm cần triển khai nhanh, phối hợp chiến đấu khi cần thiết. Bên cạnh thuyền bọc đồng là thuyền máy hơi nước. Tuy có những khó khăn trong việc đóng tàu hơi nước nhưng dưới thời Minh Mạng đã cho đóng được 3 chiếc tàu hơi nước là Yên Phi, Vân Phi, Vụ Phi. Thiệu Trị cho mua một thuyền máy hơi nước mới rất lớn là Điện Phi. Ngoài tàu chiến do nhà nước đóng hàng năm để trang bị cho thủy quân thì các địa phương cũng được khuyến khích đóng các thuyền
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan