Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tín hiệu thẩm mĩ là vấn đề được sự quan tâm của tất cả các ngành nghệ
thuật nói chung và của văn học nói riêng. Nghiên cứu, giải mã tín hiệu thẩm
mĩ là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều tâm sức của các nhà nghiên cứu
và cũng đã gây ra không Ýt tranh luận về vấn đề này. Trong văn học, nghiên
cứu tín hiệu thẩm mĩ tức là tiếp cận tác phẩm văn học từ phương diện ngôn
ngữ học, từ góc độ văn bản tác phẩm. Vì vậy mà sẽ cho chóng ta những nhận
xét chính xác, khách quan về tác phẩm văn học, không phải là những suy diễn
dội từ bên ngoài vào nh trong một số ngành nghiên cứu văn học từ phương
diện xã hội học, lịch sử,...
Theo GS. Đỗ Hữu Châu ngôn ngữ văn học có thể được xem là một hệ
thống tín hiệu bao gồm các tín hiệu thông thường và các tín hiệu thẩm mĩ.
Các tín hiệu thông thường chỉ thực hiện chức năng tái tạo hiện thực (thực
hiện chức năng giao tiếp lí trí là chủ yếu. Có thể gọi đó là các chữ rỗng, các
chữ bao bì). Các tín hiệu thẩm mĩ luôn chứa đựng những tư tưởng, những ý
nghĩ nào đó của tác giả thông qua quá trình khái quát hoá, biểu trưng hoá
nghệ thuật. Vì vậy tín hiệu thẩm mĩ là cơ sở giải mã hình tượng, lý giải tính
hàm súc, biểu trưng, giàu sức gợi của ngôn ngữ nghệ thuật.
Nhà thơ Nguyễn Duy mang đến cho nền thơ ca một bản sắc riêng, một
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật riêng, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và
giới nghiên cứu phê bình. Nhìn chung các tác giả đều đánh giá cao tài năng
thơ Nguyễn Duy với phong cách sử dụng ngôn ngữ riêng, độc đáo, đậm chất
dân tộc, giản dị, thô mộc, gần gũi với cuộc sống thường ngày. Trong thơ
Nguyễn Duy có một số tín hiệu thẩm mĩ xuất hiện với tần số khá cao như gió,
trăng, đất... Chúng tôi lựa chọn tín hiệu thẩm mĩ đất vì với tín hiệu thẩm mĩ
này thể hiện rất rõ tài năng thơ Nguyễn Duy trong việc sử dụng ngôn ngữ và
chất thô mộc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người lao động
đặc biệt là của những người dân quê. Tìm hiểu giá trị biểu trưng của tín hiệu
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
thẩm mĩ đất, chúng tôi nhằm khẳng định những giá trị và đóng góp của nhà
thơ Nguyễn Duy về phương diện ngôn ngữ cho thơ ca dân tộc.
2. PHẠM VI ĐỀ TÀI
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là "Tín hiệu thẩm mĩ đất trong thơ
Nguyễn Duy"; khảo sát, phân tích, đánh giá giá trị biểu trưng của tín hiệu
thẩm mĩ đất trong Tuyển tập thơ Nguyễn Duy được rót ra từ các tập thơ đã
xuất bản:
- Cát Trắng - NXB Quân Đội Nhân Dân, 1973
- Ánh Trăng - NXB Tác Phẩm Mới, 1984
- Mẹ Và Em - NXB Thanh Hoá, 1987
- Đãi Cát Tìm Vàng - NXB Văn Nghệ(Tp.HCM), 1987
- Đường Xa - NXB Trẻ, 1989
- Quà Tặng - NXN Văn Học, 1990
- Về - NXB Hội Nhà Văn, 1994
- Sáu Và Tám - NXB Văn Học, 1994
- Vợ Ơi - NXB Phụ Nữ, 1995
- Bôi - NXB Hội Nhà Văn, 1997
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ năm 1973 trên Báo Văn nghệ với bài "Đọc mét số bài thơ của
Nguyễn Duy", nhà phê bình Hoài Thanh đã đánh giá cao chất quê mặn mà,
đằm thắm trong những hình ảnh "quen thuộc mà không nhàm".
Sau Hoài Thanh, một số nhà nghiên cứu có tên tuổi nh Lê Trí Viễn, Lê
Đình Kỵ, Hà Minh Đức,... các nhà văn, nhà thơ lớn nh Chế Lan Viên, Tế
Hanh, Nguyễn Quang Sáng,... các giảng viên nh Phạm Thu Yến, Trần Hoà
Bình... Nhìn chung các tác giả khi phân tích thơ Nguyễn Duy dù Ýt dù nhiều
cũng đã chú ý đến ngôn ngữ thơ bởi đây là một lĩnh vực rất đặc sắc trong thơ
ông. Có thể khẳng định, cách sử dụng ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy khá táo
bạo, mới mẻ, đậm chất dân tộc, chất quê, thô mộc, giản dị đồng thời cũng cho
thấy những cách tân, sáng tạo mang dấu Ên riêng của tác giả.
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
Có thể kể đến một vài nhận xét đáng chú ý về phương diện ngôn ngữ :
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khẳng định sự thành công của Nguyễn
Duy trên nhiều phương diện trong đó có phương diện ngôn ngữ, đó là việc
vận dụng, chắt lọc rất tinh tế ngôn ngữ đời thường để tạo lời thơ, làm cho
Tiếng Việt thêm giàu đẹp "Thơ Nguyễn Duy đậm tính dân tộc và nhuần
nhuyễn ngôn ngữ dân gian, lời thơ đơn sơ gần với khẩu ngữ..."( Nguyễn
Quang Sáng - Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy. Phụ lục tập " Mẹ và
em").
Lê Trí Viễn chỉ ra thơ Nguyễn Duy vừa mang âm hưởng ca dao dân ca
ngọt ngào thân mật vừa vang vọng của thơ ca bác học sâu lắng và trí tuệ (Lê
Trí Viễn - Đến với bài thơ hay. NXB Giáo dục, 1997).
Anh Ngọc khi phân tích bài "Vợ ốm" nhận ra "cái thứ khẩu ngữ của
thập loại chúng sinh" cùng với "cách tạo từ mới có nội lực sống" làm bật lên
tiếng cười nhưng lại khiến mủi lòng, thêm nặng tình thương mến với vợ.
Lê Quang Hưng khẳng định tài năng thơ Nguyễn Duy trong việc chọn
chữ khi thể hiện và cũng rất tiết kiệm lời.(Lê Quang Hưng - Thơ Nguyễn Duy
và Ánh trăng. Tạp chí văn học số 3.1986).
Phạm Thu Yến trong công trình nghiên cứu "Nguyễn Duy - Ca dao
vọng về" đã phát hiện ra thơ Nguyễn Duy có lối tả, kể gần với ngôn ngữ đời
thường, giàu sức gợi cảm và sắc màu hiện đại( Phạm Thu Yến - Nguyễn Duy
"Ca dao vọng về", tạp chí văn học số 7, 1998).
Các tác giả của ba luận án: Mai Thị Nguyệt với "Phong cách thơ
Nguyễn Duy"; Nguyễn Thị Minh Tâm với "Chủ đề quê hương đất nước trong
thơ Nguyễn Duy" và Nguyễn Thị Bích Nga với "Thơ lục bát của Nguyễn
Duy", trong công trình nghiên cứu của mình các tác giả đã chỉ ra các đặc điểm
ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy đậm chất dân tộc,
giản dị, thô mộc, gồ ghề, gần với ngôn ngữ thường ngày.
Qua các công trình, các bài nghiên, các tác giả đều chỉ ra sù phong phó
trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, các sắc thái đa dạng trong việc sử dụng
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
ngôn từ của nhà thơ. Từ đất trong thơ Nguyễn Duy xuất hiện với tần số cao
với nhiều sắc thái, ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ
đất cho thấy sự đa dạng trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Duy, sự
phát triển, mở rộng ý nghĩa biểu trưng của từ đất.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê, phân loại
4.2. Phân tích tổng hợp
5. BỐ CỤC TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Phần nội dung
chính gồm 2 chương:
Chương I: Những vấn đề lý thuyết về tín hiệu thẩm mĩ
Chương II: TÝn hiệu thẩm mĩ đất trong thơ nguyễn duy
Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.1. TÝn hiệu
P.Guiraud định nghĩa theo nghĩa rộng: “ Một tín hiệu… là một kích thích
mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác.”
Theo nghĩa hẹp, A.Schaff định nghĩa: “một sự vật vật chất hay thuộc
tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành tín hiệu nếu như trong quá
trình giao tiếp, nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của
một ngôn ngữ để truyền đạt một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới
bên ngoài hay về những cảm thụ nội tâm ( những cảm xúc, những cảm thụ
nghệ thuật, một ý chí).
Dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì khái niệm tín hiệu vẫn là
một khái niệm quan hệ, không phải là một khái niệm tự thân. Có nghĩa là một
sự vật (hay thuộc tính) muốn trở thành tín hiệu phải nằm trong quan hệ với
những sự vật khác. Và bản chất của tín hiệu bao gồm hai mặt hình thức và nội
dung, hai mặt đó gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau.
1.2. TÝn hiệu ngôn ngữ
Ngôn ngữ là mét hệ thống tín hiệu đặc biệt, cũng giống nh tín hiệu, tín
hiệu ngôn ngx cũng gồm hai mặt, mặt âm thanh và mặt ý nghĩa, tức là cái
biểu hiện và cái được biểu hiện. Nhưng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ rất phức
tạp, bao gồm những đơn vị đồng loại nh âm vị, hình vị, từ . Khác với các loại
tín hiệu khác, mặt nội dung trong tín hiệu ngôn ngữ quan hệ với hình thức
không phải bao giờ cũng chỉ có quan hệ trực tiếp khái niệm và âm thanh. Hệ
thống ngôn ngữ là hệ thống nhân tạo, xã hội, có chức năng quan trọng nhất là
chức năng giao tiếp. Văn tự là kí hiệu của ngôn ngữ.
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
Đối với tác phẩm văn học, hình thức vật chất của tín hiệu thẩm mĩ
chính là ngôn ngữ. Cấu trúc đặc biệt của hệ thống tín hiệu ngôn ngữ cho phép
chứa đựng trong mỗi ngôn từ của tác phẩm văn học một phạm vi nào đó của
đời sống hiện thực được phản ánh (làm thành ý nghĩa biểu vật, biểu niệm của
từ). Với ngôn ngữ, có thể tiếp nhận từ văn học những hiện thực trực tiếp
“thông qua ý nghĩa của ngôn ngữ”. Chính vì thế “ngôn ngữ không chỉ là
phương tiện mà còn là chất liệu của văn học”.
2. TÍN HIỆU THẨM MĨ
2.1. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mĩ
- Quan niệm về tín hiệu thẩm mĩ: Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu: tÝn hiệu
thẩm mĩ là phương tiện quan trọng nhất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói
chung và văn học nói riêng. Đó là “Phương tiện sơ cấp (primaire) của văn
học là các tín hiệu thẩm mĩ… Rồi cái tín hiệu thẩm mĩ đó mới được thể hiện
bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông thường”.
- Nguồn gốc:
+ Những tín hiệu thẩm mĩ đầu tiên được con người nhận thức từ trong
thời kì sơ khai của xã hội loài người, các ý nghĩa biểu trưng của nó là một
mẫu số chung trong tâm thức của cộng đồng nhân loại. Ví dụ “Mặt trời” là
một tín hiệu thẩm mĩ có tính chất mẫu gốc của chung văn hoá nhân loại.
+ Nguồn gốc phát sinh các tín hiệu thẩm mĩ mang tính truyền thống của
các ngành văn học nghệ thuật là từ các mẫu gốc của một nền văn hoá. Đó là
các tín hiệu thẩm mĩ nguyên cấp. Các tín hiệu thẩm mĩ, do đó, gắn liền với sự
nhận thức về bản chất của đối tượng trong những điều kiện lịch sử, xã hội,
văn hoá nhất định. Chẳng hạn, bến- đò là một cặp tín hiệu thẩm mĩ có nguồn
gốc từ văn hoá dân gian Việt Nam đã đI vào trong thơ Nguyễn Bính như một
Èn dụ về tình yêu lứa đôi:
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau.
(Tương tư)
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
+ Thứ ba có nguồn gốc từ các nguồn văn hoá khác nhau. Một tín hiệu
thẩm mĩ của một nền văn hoá có thể chuyển hoá vào nhiều ngành nghệ thuật
qua chất liệu, phương tiện đặc trưng của các ngành này. Các ngành nghệ thuật
tạo hình như hội hoạ, điêu khắc chuyển hoá vào nhiều ngành nghệ thuật qua
chất liệu, hình ảnh, màu sắc, đường nét…Các ngành nghệ thuật biểu hiện như
âm nhạc, văn học chuyển hóa các tín hiệu thẩm mĩ vào hệ thống âm thanh đặc
trưng của từng ngành. Văn học sử dụng tín hiệu thẩm mĩ dưới hình thức âm
thanh ngôn ngữ, tức là chuyển hoá các tín hiệu thẩm mĩ vào hệ thống từ ngữ,
cú pháp của văn bản nghệ thuật. Trong quá trình phát triển của các ngành
nghệ thuật, do sù giao lưu, tiếp xúc văn hoá, các tín hiệu thẩm mĩ của một nền
văn hoá, văn học này có thể gia nhập vào một nền văn hoá, văn học khác. Đây
là tín hiệu thẩm mĩ thứ cấp, tín hiệu phái sinh. Chương Đài, Hoàng Hạc, lá
ngô đồng…trong văn học trung đại Việt Nam là những tín hiệu nh vậy:
- Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
- Sương nh búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô.
(Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm)
2.2. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
* Tính chất hai mặt của tín hiệu thẩm mĩ:
- Hình thức biểu hiện(cái biểu hiện): tín hiệu thẩm mĩ phải có cái phần tri
giác được, phần có thể nhận biết được bằng các giác quan. Nó là âm thanh trong
âm nhạc, là màu sắc trong hội họa, là ngôn từ trong văn học…Nghệ thuật không
thể phản ánh hiện thực bên ngoài những phương tiện vật chất của nó.
- Nội dung ý nghĩa(cái được biểu hiện): tín hiệu thẩm mĩ phải thông
tin về một cái gì đó trong đời sống hiện thực, nó mới thể hiện được chức năng
phản ánh nghệ thuật của mình. Thông qua hiện thực được phản ánh, nội dung
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
tư tưởng nghệ thuật được toát lên. Bởi vậy, ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ
chính là ý nghĩa thẩm mĩ.
* Mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu của tín hiệu thẩm mĩ:
- Tín hiệu thẩm mĩ thuộc loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa hai mặt
biểu hiện và được biểu hiện là quan hệ hoàn toàn có lý do.
- Tín hiệu thẩm mĩ tham gia vào một hoạt động tinh thần độc đáo của
con người: hoạt động sáng tạo nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ liên quan đến
những vấn đề về cảm xúc, liên tưởng…Tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu của cáI
đẹp, của những giá trị nghệ thuật, đầy tính sáng tạo và luôn đòi hỏi khả năng
liên tưởng của cả người sáng tạo lẫn chủ thể tiếp nhận.
2.3. Vai trò của Èn dụ, hoán dụ, tượng trưng trong việc cấu tạo các
tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ nghệ thuật
Èn dụ, hoán dụ và tượng trưng là những phương thức chuyển nghĩa phổ
biến của ngôn ngữ:
+ ÈN DÔ là phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi của đối tượng này
làm tên gọi cho đối tượng khác dựa trên mối quan hệ tương đồng, tức là giống
nhau về một nét nào đó giữa hai đối tượng.
+ HOÁN DÔ là phương thức chuyển nghĩa dựa trên mối quan hệ liên
tưởng kế cận, dùng một đặc điểm hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối
tượng để gọi tên chính đối tượng đó; hoặc ngược lại, lấy đặc điểm toàn thể
của đối tượng để gọi tên bộ phận của đối tượng đó.
+ TƯỢNG TRƯNG là phương thức lấy một nét tổng quát nào đó trong
đặc trưng của sự vật, hiện tượng để làm hình ảnh thay thế cho sự vật, hiện
tượng đó; nghĩa là từ hình ảnh Êy người ta có thể liên tưởng tới toàn bộ sự
vật, hiện tượng. Phương thức tượng trưng có liên quan đến ngôn ngữ của một
thời đại và những biểu tượng của xã hội. Những biểu hiện tượng trưng là
những tín hiệu thẩm mĩ trở thành quy ước.
Không chỉ là các phương thức chuyển nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên, Èn
dụ, hoán dụ và tượng trưng còn là các phương thức để cấu tạo lại tín hiệu
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
thẩm mĩ trong ngôn ngữ nghệ thuật. Trong quá trình tổ chức lại bằng Èn dụ
hoặc hoán dụ hay tượng trưng, tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học đã
biến các tín hiệu thẩm mĩ nguyên cấp thành tín hiệu thẩm mĩ thứ cấp. Tín hiệu
thẩm mĩ ngôn từ, do đó, là các tín hiệu phức hợp mà bình diện nội dung biểu
đạt có thể đồng thời là một cấp độ mới của hình thức biểu đạt. Hoán dô hay
Èn dụ không phải chỉ là thủ pháp chuyển nghĩa các tín hiệu thẩm mĩ ở cấp độ
từ vựng mà còn ở cấp độ văn bản.
Trường nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ là một trong những dấu hiệu chỉ
dẫn mối liên hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc nổi của tác phẩm. Các phương
thức tổ chức lại tín hiệu thẩm mĩ nh Èn dụ, hoán dụ chính là những kiểu quan
hệ cơ bản giữa các cấp độ của cái được biểu đạt: tương đồng hay kế cận. Trong
kiểu quan hệ tương đồng, mối quan hệ giữa các cấp độ của cái được biểu đạt
thường có một sự dứt đoạn, chìm khuất, gián cách. Trong kiểu quan hệ kế cận
lại có một độ chênh, khoảng lệch pha, khúc xạ giữa các cấp độ ý nghĩa.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng Èn dụ và hoán dụ cũng nh tất cả các thủ
pháp biểu đạt khác không có vai trò quyết định hoàn toàn đối với giá trị của
tác phẩm. Nghệ thuật cần đến những thủ pháp nhưng chúng ta đã thấy quá rõ
ràng rằng nghệ thuật không phải là thủ pháp.
2.4. TÝnh chất của tín hiệu thẩm mĩ
a) Tính nhân loại, tính dân tộc, tính lịch sử của tín hiệu thẩm mĩ
- Tính nhân loại: các tín hiệu thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học là sự
chuyển hoá của các mẫu gốc, các biểu tượng. Vì vậy các hướng nghĩa biểu
trưng mà nó gợi lên có tính chất chung cho toàn nhân loại. Đó là những mẫu số
chung mà một tín hiệu thẩm mĩ có thể gợi lên. Ví dụ “Mặt trời” là một mẫu gốc
trong văn hoá nhân loại với hướng nghĩa biểu trưng chung tượng trưng cho
quyền uy tối thượng, cho vẻ đẹp tuyệt đối. Các tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm
văn học xuất phát từ mẫu gốc mặt trời: ban mai, rạng đông, vừng đông, hoa
hướng dương đều có chung mét ý nghĩa nh ý nghĩa của mẫu gốc mặt trời.
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
Đi liền với tính nhân loại là tính cộng đồng. Các mẫu gốc đi liền với
nền văn hoá khác nhau sẽ sản sinh ra những biến thể cái biểu đạt và cái được
biểu đạt do ảnh hưởng của những điều kiện về địa lí, tôn giáo.
- Tính dân tộc: các mẫu gốc khi đi vào các nền văn hoá khác nhau sẽ
sản sinh ra những biến thể cái biểu đạt và biến thể cái được biểu đạt do ảnh
hưởng của những điều kiện địa lí, kinh tế, tôn giáo.
Ví dô: NƯỚC: mẫu gốc của văn hoá nhân loại, khi đi vào các nền văn
hoá khác nhau sản sinh ra những biến thể:
- Biến thể cái biểu đạt làm thành hệ biểu tượng trong văn hoá Hi Lạp:
biển- bọt biển-vỏ sò- nữ thần Aphrodite-nàng tiên cá- con thuyền lớn…; trong
văn hoá Ên Độ: nước- bùn - hoa sen - cõi Niết Bàn….
- Biến thể cái được biểu đạt: trong thần thoại Hy Lạp, nước gắn liền với
biểu tượng biển: ngọn nguồn phát sinh của tình yêu, sắc đẹp, nghệ thuật, nơi
đã sản sinh ra Nữ thần Arphrodite…. Trong văn hoá Trung Hoa, nước là trạng
thái vố cực không có đỉnh, hỗn mang, gợi lên sự biến hoá, trôi chảy, dòng
nước, biển nước cũng là dòng đời, biển đời, là thời gian làm suy biến hay bồi
đắp thương hải tang điền, thuỷ lưu hoa tạ….
Nh vậy từ mẫu gốc nước trong các nền văn hoá hình thành hệ biểu
tượng có mối quan hệ về bản thể với mẫu gốc này. Trong đó so các biểu
tượng mang tính phổ quát như: biển, sông, mưa, mây, sương, giếng, thuyền,
bến bờ, nguồn mạch…
- Tính lịch sử: Giá trị của một tín hiệu thẩm mĩ không bao giờ là một
hằng thể. Cùng bắt nguồn từ một mẫu gốc, các biểu tượng khi đi vào bình
diện chủ thể sẽ bị điều biến, tiêu giảm một số nét nghĩa vốn có và bổ sung
thêm một số nét nghĩa mới làm phong phú giá trị biểu trưng của biểu tượng.
Cùng một biểu tượng, các thời kì khác nhau, có ý nghĩa khác nhau.
b) Tính phi vật thể, phi trực quan của tín hiệu thẩm mĩ
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
- Tính phi vật thể: Do dạng chất liệu phi vật thể là ngôn ngữ. Các ngành
nghệ thuật khác nh hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc sử dụng chất liệu mang tính
vật thể.
- Tính phi trực quan:
+ Không phải chỉ là tính chất riêng mà là tính chất chung của các loại
hình nghệ thuật.
+ Biểu tượng trực quan: là những biểu tượng tâm lý, hình ảnh của sự
vật hiện tượng vẫn tồn tại trong trí óc của chúng ta khi kích thích bên ngoài đã
chấm dứt.
+ Biểu tượng: từ đặc điểm bản thể phải gợi lên giá trị biểu trưng tín
hiệu thẩm mĩ khi từ những đặc điểm bản thể của nó, người nghệ sĩ có thể gợi
ra những hướng nghĩa biểu trưng, những ý nghĩa tinh thần.
c) Tính hình tuyến
Trong ngôn ngữ văn học, các tín hiệu thẩm mĩ đều phải được tổ chức
lại dựa trên tính hình tuyến chặt chẽ của ngôn từ. Tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm văn học cũng mang tính hình tuyến. Các tín hiệu thẩm mĩ lần lượt được
thể hiện trên trục thời gian, chỉ có thể xuất hiện từng yếu tố nối tiếp nhau chứ
không thể đồng thời xuất hiện nhiều yếu tố.
2.5. Chức năng của tín hiệu thẩm mĩ
a) Chức năng biểu hiện của tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học
Trong phạm vi tác phẩm văn học, chức năng biểu hiện đối tượng và xây
dựng hình tượng của tín hiệu thẩm mĩ luôn luôn phải là một sự tương tác của
các kiểu quan hệ, các cấu trúc. Chức năng này theo V.X.Soloviev có thể thực
hiện theo 3 cách cơ bản:
+ Biểu hiện trực tiếp (trong thơ trữ tình thuần tuý)
+ Biểu hiện gián tiếp: tức là thông qua sự tăng cường, làm mạnh lên cái
đẹp hiện hữu, tái tạo những hiện tượng của đời sống dưới hình thức tập trung,
được thanh lọc và lý tưởng hoá (trong hầu hết các thể loại trữ tình và bi kịch)
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
+ Biểu hiện gián tiếp thông qua những phản xạ của thực tại cần có, thực
tại mang tính lý tưởng khỏi đời sống hiện hữu không tương ứng (trong tác
phẩm tự sự, hài kịch, thơ trào phúng...)
b) Chức năng tác động của tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm nghệ thuật
Nghệ thuật luôn tác động đến cảm xúc của con người, nhưng đó là
trạng thái cảm xúc có khả năng thanh lọc những cảm xúc thông thường trở
thành những giá trị tinh thần cần phải có, xứng đáng được hiển lộ trong thế
giới tâm hồn con người.
Tóm lại, tín hiệu thẩm mĩ là một giá trị ngôn ngữ trong nghệ thuật nói
chung và trong văn học nói riêng. Tín hiệu thẩm mĩ có những đặc trưng, chức
năng riêng, Và để hiểu được ý nghĩa, giá trị của tín hiệu thẩm mĩ cần phải đặt
nó trong ngữ cảnh tu từ, trong mối quan hệ với nghĩa gốc của từ đất.
Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
CHƯƠNG II
TÍN HIỆU THẨM MĨ ĐẤT TRONG THƠ NGUYỄN DUY
1. KHẢO SÁT, THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI
1.1. Các câu thơ trong thơ Nguyễn Duy có xuất hiện tín hiệu thẩm
mĩ đất
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
Nội dung câu thơ
Em dạy nhạc cho tôi khác nào đi vì ĐẤT
ĐẤT nước mình những năm nhiều gian khổ
Con dấu ĐẤT đai tươi rói mãi đây này
Chân ĐẤT đi xem lễ đền Sòng
đang liền lại cùng ĐẤT đai liền lại
Ta đi trên ĐẤT đai sum họp
Chiến hào xẻ dọc ngang mặt ĐẤT
trần trôi con người với ĐẤT đá
ĐẤT mềm - xẻng
ĐẤT cứng - cuốc chim
bôi ĐẤT bốc cao phủ khói một vùng đồi
xoa xuống ĐẤT gặp bàn tay rát bỏng
từ gương mặt hồng hào bôi ĐẤT
ĐẤT này của những chàng Sơn Tinh
Có đất nào nh ĐẤT này không?
Có ai trên ĐẤT nước này
đám cưới - đám tang trong lòng ĐẤT còng quen
Tên bài thơ
Âm thanh bàn tay
18.
19.
20.
21.
rồi
lại trần trụi con người với ĐẤT đá
ĐẤT mềm - xẻng
ĐẤT cứng - cuốc chim
Trái ĐẤT sẽ ra sao khi một ngày kia không còn Gửi từ vùng gió Phan
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
gió nữa
Anh về nơi cuối ĐẤT
Anh gác nơi cuối ĐẤT
Mòi ĐẤT đầu mũi súng
đợi anh nơi cuối ĐẤT
bùn ĐẤT tiếp tục dời chất phác
quả ĐẤT bỗng nghèo nàn đi mất
Với việc đoạt huy chương vàng dưới ĐẤT
Để cho dưới ĐẤT đám người chạy mưa
30.
ĐẤT đai cằn khô chưa bao giờ bình yên
Tuổi thơ
Đò Lèn
Tìm thân nhân
Chiến hào
Rang
Tình ca nơi cuối đất
Lời ru từ mũi Cà Mau
Nhịp điệu bóng đá
Đám mây dừng lại trên
trời
Nấp vào bóng mình
Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56.
57.
58.
59.
60.
61.
62.
63.
64.
65.
66.
67.
68.
69.
70.
71.
72.
73.
74.
75.
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
rơi ĐẤT cát rơi rơm rạ
ĐẤT chẳng dưới chân trời chẳng trên đầu
Tuổi trẻ anh áo nâu chân ĐẤT
Cha cói lom khom tìm gì trong lòng ĐẤT kia?
Mẹ cói lom khom tìm gì trong lòng ĐẤT kia?
Bà cói lom khom tìm gì trong lòng ĐẤT kia?
Em cói lom khom tìm gì trong lòng ĐẤT kia?
cho dù ĐẤT sái ĐẤT vôi bạc màu
rễ siêng không ngại ĐẤT nghèo
ĐẤT xanh tre mãi xanh màu tre xanh
ĐẤT im lặng dưới chân ta
lắng nghe có tiếng hát thầm - ĐẤT thôi
Hòn ĐẤT là hòn ĐẤT rời
hòn ĐẤT là hòn ĐẤT mềm
hòn ĐẤT là hòn ĐẤT nâu
ra lò - ĐẤT rực rỡ màu đỏ tươi
phố nhà rơi xuống ĐẤT ta những ngày
nhà cao lại dưới ĐẤT dày trồi lên
Tay nâng hòn ĐẤT lặng yên
để nguyên là ĐẤT cất nên là nhà
nghìn năm trên dải ĐẤT này
bây giê hầm ĐẤT sốt rừng lại quen
bom tuôn xuống ĐẤT ĐẤT tuôn lên trời
ĐẤT vụn tơi, đá vụn tơi
Gối đầu lên tảng ĐẤT nung
nảy xanh cho ĐẤT nước này tốt tươi
Bom đào ĐẤT đỏ đỏ au
ĐẤT tuôn lặng lẽ một dòng nước xanh
ơ hay trong ĐẤT có trời
trắng ĐẤT, trắng tay, trắng một vùng đai trắng
dải ĐẤT tận cùng của nước
bởi vì có rất nhiều dải ĐẤT
Bài thơ làm chung của ĐẤT và trời
mà sang cuối ĐẤT mà qua cùng trời
để thêm yêu mặt ĐẤT quê hương mình
Trước khi có người trái ĐẤT đã có cây
Hãy thức dậy ĐẤT đai
Còn mặt ĐẤT hôm nay em nghĩ thế nào?
lòng ĐẤT rất giàu, mặt ĐẤT cứ nghèo sao?
trang sử ĐẤT ngoằn ngoèo trận mạc
Bao nhiêu thời vỡ đê trắng ĐẤT, mất đồng
ĐẤT nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
ĐẤT cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
ĐẤT tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
ĐẤT ghiền phân vô cơ nh ghiền á phiện
Rơi và nhặt
Yêu là yêu
Gửi về trường Lam Sơn
Với đồng bằng
Tre Việt Nam
Bài hát người làm gạch
Khúc dân ca
Một người cha
Nắng
Sao
Lời ru trong bão
Đất đỏ - nước xanh
Cát trắng
Quà tặng
Cỏ dại
Với Xiôncôpxki
Rừng và phố
Đánh thức tiềm lực
Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
76.
77.
78.
79.
80.
81.
82.
83.
84.
85.
86.
87.
88.
89.
90.
91.
Này, ĐẤT nước của ba miền cày ruộng
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách ĐẤT
lũ trẻ chúng tôi vầy ĐẤT tối ngày
Thuở tới trường cũng đầu trần chân ĐẤT
đừng quên ĐẤT nước mình nghèo
khắp ĐẤT nước
mộ đấy ư... bằng phẳng nh mặt ĐẤT
và hình dung một lần chui xuống ĐẤT
Những tên người sâu trong lòng ĐẤT
thành tên ĐẤT sâu trong lòng người
Mặt ĐẤT trên mặt ta rung rinh
tâm tưởng ta mộng du lòng ĐẤT
Ai đưa em lìa ĐẤT nước
Hình như ĐẤT dư thừa mọi thứ
ĐẤT bày biện phơi
Người trái ĐẤT bay xoay tít mù ngoài trái ĐẤT
92.
Mancha
ĐẤT ngàn độ dung nham kia có địa ngục Diêm Thắp nhang và khấn
93.
94.
95.
Vương
Nén nhang khấn ĐẤT
cúi đầu xuống gặp chân mình lấm ĐẤT
Quả ĐẤT nóng dần lên
Thăm nghĩa trang Talin
Trong đất
Giã từ Arêkhôvơ
Tí tẹo Bắc Âu
Đường hầm qua biển
Trăng sông Tiền
Kim mộc thuỷ hoả thổ
1.2. Tần số xuất hiện và khả năng kết hợp của tín hiệu thẩm mĩ đất
trong thơ Nguyễn Duy
* Tín hiệu thẩm mĩ đất trong thơ Nguyễn Duy xuất hiện 102 lần / 205
bài thơ; nh vậy trung bình có khoảng 49,76 lần / 1 bài thơ.
* Khả năng kết hợp của từ đất:
- Kết hợp ngang trước:
+ Danh từ: chân ( ); mặt ( ); vách ( );bụi ( ); bùn ( ); lòng ( ); dải ( );
trang sử ( ); trái ( ); cuối ( ); mũi ( ); quả ( ); hòn ( ); hầm ( ); tảng ( ); trang sử
( ). Các kết hợp này cho thấy hình dạng của đất rất đa dạng, Có thể thấy đất ở
trong cuộc sống của con người ở mọi phương diện. Riêng kết hợp trang sử đất
cho thấy chiều sâu văn hoá của THTM đất.
+ Động từ: vỡ ( ); vầy ( ); khấn ( ); lấm ( ). Các kết hợp này cho thấy tác
động của con người lên đất, cho thấy mối quan hệ qua lại của con người và đất.
- Kết hợp ngang sau:
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
+ Danh từ: ( ) nước; ( ) đai; ( ) đá; ( ) cát; ( ) vôi; ( ) sỏi. Các kết hợp
này cho thấy các dạng đất tồn tại trong tự nhiên rất đa dạng và mang mét ý
nghĩa biểu cảm nhất định. Riêng trường hợp đất kết hợp với từ nước chỉ phạm
vi sinh sống và mang ý nghĩa khẳng định chủ quyền của một cộng đồng
người, của một dân tộc.
+ Tính từ: ( ) mềm; ( ) cứng; ( ) đỏ; ( ) nâu; ( ) nung; ( ) xanh; ( ) nứt nẻ;
( ) nghèo. Các kết hợp trên cho thấy tính chất của đất cùng những giá trị biểu
trưng của những kết hợp này.
Có thể thấy cách sử dụng từ, cách kết hợp từ đất trong thơ của Nguyễn
Duy rất linh hoạt, đa dạng, đầy tính sáng tạo. Đất trong thơ Nguyễn Duy rất
nhiều giá trị biểu trưng. Nó là một tín hiệu thẩm mĩ rất đặc trưng trong thơ
ông, thể hiện tài năng và phong cách Nguyễn Duy, con người luôn hướng về
cội nguồn, về những miền đất lam lũ mà nặng nghĩa tình....
1.3. Khái quát về các nét nghĩa của từ đất trong thơ Nguyễn Duy
Từ đất trong thơ Nguyễn Duy không bao giờ ở nghĩa thực. Chúng
luôn mang thêm nhiều giá trị thẩm mĩ mới. Tín hiệu thẩm mĩ đất xuất hiện
trong thơ Nguyễn Duy theo 2 hướng nghĩa: nghĩa thực nửa biểu trưng và
nghĩa biểu trưng hoàn toàn.
1.3.1. Dùng với nghĩa thực nửa biểu trưng: từ đất cùng một lúc
mang 2 chức năng:
- Miêu tả cụ thể hình dáng, tính chất của đất. Với nghĩa này, đất là môi
trường sống, là nơi để con người trú ngụ, làm nhà cửa, trồng trọt.
- Từ đất khơi gợi liên tưởng đến những công việc khó khăn, vất vả, đến
cuộc sống của con người.
1.3.2. Dùng với nghĩa biểu trưng hoàn toàn. Tín hiệu thẩm mĩ đất
mang giá trị biểu trưng hoàn toàn, chỉ tình cảm của con người ở nhiều cung
bậc, nhiều sắc thái khác nhau, chỉ bề dày lịch sử, văn hoá của đất nước, chỉ sự
trường tồn, vĩnh cửu, bất biến.
2. Ý NGHĨA CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ ĐẤT TRONG THƠ NGUYỄN DUY
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
2.1. Nghĩa của từ đất trong từ điển
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, các tác giả đã chỉ ra
nghĩa gốc và 5 nét nghĩa chuyển. Cụ thể:
Nghĩa gốc: Đất là chất rắn làm thành lớp trên cùng của bề mặt trái đất,
ở trên đó người và các loài động vật đi lại, sinh sống, có thể trồng cấy được.
Với nghĩa gốc này, từ đất gợi sự ổn định, cố định và những lợi Ých do đất
mang lại.
Trong Từ điển, các tác giả đã chỉ ra 5 nét nghĩa chuyển xuất phát từ
nghĩa gốc:
- Chỉ cuộc sống ổn định, bình yên (trong thành ngữ đất bằng nổi sóng.
Trong thành ngữ này, trong mối quan hệ với sóng chỉ sự biến đổi, đất chỉ sự
ổn định). Nét nghĩa chuyển này dựa trên nét nghĩa gốc đất là chất rắn tạo sự
chắc chắn, vững chãi của sự vật.
- Chỉ cuộc sống thuận lợi, công việc làm ăn thì dễ dàng, nhiều người tìm
đến sinh sống (trong thành ngữ đất lành chim đậu). Nét nghĩa chuyển này dùa
trên cơ sở Ých lợi của đất là nơi có thể trồng cấy tạo ra nguồn sống cho con
người.
- Chỉ phong tục, tập quán riêng của từng địa phương, khó thay đổi, có
tính bền vững (trong thành ngữ đất lề quê thói). Nét nghĩa chuyển này dựa
trên tính chất ổn định, Ýt thay đổi của đất.
- Đất (trong cấu trúc của từ đất nước) mang nét nghĩa khái quát chỉ
phạm vi sinh sống, truyền thống lịch sử, văn hoá,... của dân tộc làm chủ và
sống trên đó.
- Đất (trong cấu trúc của từ đất thánh) chỉ sự thiêng liêng.
2.2. Các nét nghĩa biểu trưng cụ thể của tín hiệu thẩm mĩ đất
trong thơ Nguyễn Duy
Ở phần 1.4 khái quát về nét nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mĩ đất
trong thơ Nguyễn Duy, chúng tôi đã chỉ ra tín hiệu thẩm mĩ đất xuất hiện
trong thơ Nguyễn Duy theo 2 hướng nghĩa: nghĩa thực nửa biểu trưng và
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
nghĩa biểu trưng hoàn toàn. Trong phần này, chúng tôi đi sâu vào lý giải cắt
nghĩa từng nét nghĩa biểu trưng cụ thể của tín hiệu thẩm mĩ đất.
2.2.1. Nghĩa thực nửa biểu trưng
Nguyễn Duy miêu tả từ đất với hình dáng, tính chất cụ thể, là môi
trường sống, là nơi để con người trú ngụ, làm nhà cửa, trồng trọt. Trong
những kết hợp cụ thể, trong ngữ cảnh cụ thể, trong mối quan hệ chặt chẽ với
hình ảnh, hình tượng của câu thơ cụ thể, từ đất có giá tri bộc lộ cuộc sống
nghèo khổ, đến những công việc khó khăn, vất vả.
a) Biểu trưng cho hiện thực cuộc sống của con người ở nhiều mức độ:
Cùng mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống nhưng ở nhiều góc độ, và
sắc thái, mức độ của nghĩa này trong mỗi bài thơ, mỗi câu thơ khác nhau.
Điều này cho thấy sự đa dạng trong nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mĩ đất
và sù linh hoạt trong ngòi bút Nguyễn Duy.
+ Đất biểu trưng cho cuộc sống nghèo nàn, thiếu thốn, khó khăn của
con người:
- bây giờ hầm đất sốt rừng lại quen
- Bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất, mất đồng
- đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
- Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
- quả đất bỗng dưng nghèo nàn đi mất
Với những kết hợp từ: hầm đất, trắng đất, đất nứt nẻ, vách đất đã thể
hiện cuộc sống nghèo nàn, vất vả, khó khăn của con người. Phải ở trong hầm
đất, sống trong căn nhà vách đất nghèo nàn, biểu hiện cho cuộc sống khốn
khó. Và những thiên tai, lũ lụt, hạn hán đã khiến cho tiềm lực đất trở nên kiệt
quệ, cuộc sống của con người trở nên khó khăn. Đất trong những kết hợp từ
trên là những hình ảnh của cuộc sống thực được miêu tả cụ thể, sống động và
mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn. Nét nghĩa biểu
trưng này xuất phát từ đặc điểm của đất, từ màu của đất, đất có thể là chất liệu
làm nhà được nhưng căn nhà Êy là căn nhà của sự nghèo khổ, nghèo đói.
Bài tập chuyên đề
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
Ngữ văn
+ Đất biểu trưng cho cuộc sống lam lũ, lấm láp, nghèo khó:
- chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
- thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
- Tuổi trẻ anh áo nâu chân đất
- cúi đầu xuống gặp chân mình lấm đất
- lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
- bụi đÊt bốc cao phủ khói một vùng đồ
- từ gương mặt hồng hào bụi đất
Với kết hợp từ chân đất đã thể hiện cuộc sống lấm láp, nghèo khổ.
Cuộc sống gắn liền với thời tuổi thơ, một thời kì nghèo đói, khó khăn, những
đứa trẻ phải chịu cuộc sống thiếu thốn về vật chất, chỉ có thể lấy "vầy đất"
làm trò chơi, làm niềm vui của mình. Cuộc sống nghèo nàn, niềm vui của con
người cũng toát lên một sự nghèo khổ. Cuộc sống lam lũ, lấm láp Êy bao
trùm lên con người ở mọi phương diện. Hình ảnh: bụi đất bốc cao phủ khói
một vùng đồi là hình ảnh được miêu tả thực. đồng thời có giá trị biểu trưng
cho cuộc sống lấm láp, lam lũ và nghèo khổ. Hình ảnh: cúi đầu xuống gặp
chân mình lấm đất, gương mặt hồng hào bụi đất được miêu tả chân thực.
Đằng sau cái cúi nhìn Êy, đằng sau cái bàn chân lấm đất kia, đằng sau gương
mặt hồng hào nhưng đầy những bụi đất là cả một nỗi ngậm ngùi đến xe xót
cho cảnh nghèo khổ đầu trần chân đất, cho cảnh bụi đất mù trời, cho cảnh
bàn chân mình, cuộc sống của mình lúc nào cũng lấm láp... Phương thức
chuyển nghĩa của từ đất trong những trường hợp này là dựa trên những đặc
điểm của đất, màu nâu nâu của đất, màu của cuộc sống nghèo khó.
+ Đất biểu trưng cho hiện thực cuộc sống chiến tranh với những nhọc
nhằn, đau đớn:
- Từ trên đỉnh núi mây bay
xin hãy nhìn đây
chiến hào xẻ dọc ngang mặt đất.
- Khói ngòm suốt dải Trường Sơn
Bài tập chuyên đề
Ngữ văn
Phạm Thị Minh Nguyệt - K54A
bom tuôn xuống đất đất tuôn lên trời
- Bom đào đất đỏ đỏ au
- Đất vụn tơi, đá vụn tơi.
Chiến tranh với những vết thương không lành, với những khó khăn,
cực khổ. Tất cả bầy ra trên mặt đất, đất là nơi chịu nhiều thương tổn, bị xẻ
dọc, bị đào xới, là một nhân chứng cho sự khốc liệt của chiến tranh và cả sự
chịu đựng gian khổ của nhân dân ta. Nguyễn Duy đã miêu tả đất trong chiến
tranh với gương mặt chịu nhiều thương tổn, qua đó đã phơi bày cái ác liệt của
chiến tranh.
+ Đất biểu trưng cho cuộc sống khó khăn, vất vả
- cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
- rễ siêng không ngại đất nghèo.
- trần trụi con người với đất đá
đất mềm - xẻng
đất cứng - cuốc chim
Với những kết hợp từ đất sỏi, đất vôi, đất đá, đất nghèo, đất mang nét
nghĩa biểu trưng cho những khó khăn, thiếu thèn của cuộc sống con người,
Nét nghĩa biểu trưng này xuất phát từ kết hợp từ cụ thể, được hiểu trong câu
thơ cụ thể của bài Tre Việt Nam mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống, cho
phẩm chất của con người Việt Nam.
+ Đất biểu trưng cho cuộc sống nhiều nhiều biến động, thăng trầm:
- Mặt đất trên mặt ta rung rinh
thành phố sống mấy khoảng đời dữ dội
mấy lần xây lên đổ sập xuống mấy lần...
- đất đai cằn khô chưa bao giờ bình yên.
Đất là nơi chứng kiến những mọi sự biến đổi, kể cả những biến thiên
dữ dội nhất của lịch sử, của cuộc sống con người. Sự biến đổi của mặt đất cho
thấy sự biến đổi trong cuộc sống con người. Đất và người có sự gắn bó dường
nh là máu thịt. Nói đến sự biến đổi của đất cũng là nói đến sự biến đổi của
- Xem thêm -