Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh từ góc nhìn trần thuật học (lv02190...

Tài liệu Tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh từ góc nhìn trần thuật học (lv02190)

.PDF
119
532
139

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 HOÀNG THỊ THƢỜNG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH TỪ GÓC NHÌN TRẦN THUẬT HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 HOÀNG THỊ THƢỜNG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH TỪ GÓC NHÌN TRẦN THUẬT HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÙNG GIA THẾ HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS. Phùng Gia Thế, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tận tình để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Lí luận văn học, khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo, chuyên viên phòng Sau đại học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình triển khai và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2016 Học viên Hoàng Thị Thƣờng LỜI CAM ĐOAN Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan: - Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. - Đề tài không trùng với kết quả của bất cứ tác giả nào khác. Tôi chịu trách nhiệm trƣớc lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày 6 tháng 11 năm 2016 Học viên thực hiện Hoàng Thị Thƣờng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 3 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................. 7 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................ 8 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... 8 NỘI DUNG ........................................................................................................ 9 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TRẦN THUẬT HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH .................................................. 9 1.1. Khái quát về trần thuật học ......................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm trần thuật, trần thuật học......................................................... 9 1.1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật ............................................................ 13 1.1.3. Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết ................ 27 1.1.4. Vài nét về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 28 1.2. Hành trình sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh ........................................... 31 1.2.1. Truyện ngắn ........................................................................................... 31 1.2.2. Tiểu thuyết.............................................................................................. 34 CHƢƠNG 2. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ KĨ THUẬT TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH ............................................................................................................... 37 2.1. Ngƣời trần thuật ........................................................................................ 38 2.1.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất ............................................................... 39 2.1.2. Ngƣời trần thuật ngôi thứ ba .................................................................. 56 2.2. Kĩ thuật tổ chức điểm nhìn ........................................................................ 66 2.2.1. Kĩ thuật tổ chức điểm nhìn không gian, thời gian ................................. 67 2.2.2. Kĩ thuật tổ chức điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong......................... 74 2.2.3. Kĩ thuật tổ chức điểm nhìn từ ngƣời kể chuyện sang nhân vật, giữa các nhân vật với nhau.............................................................................................76 CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH ........................................... 81 3.1. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................... 81 3.1.1. Ngôn ngữ đặc tả không gian chiến trƣờng ............................................. 81 3.1.2. Ngôn ngữ trữ tình giàu chất thơ ............................................................. 85 3.1.3. Ngôn ngữ dung tục, đời thƣờng ............................................................. 86 3.1.4. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh ....................................................................... 88 3.2. Giọng điệu ................................................................................................. 90 3.2.1. Giọng điệu thƣơng cảm xót xa ............................................................... 91 3.2.2. Giọng điệu tra vấn, hoài nghi.................................................................94 3.2.4. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý ......................................................... 98 KẾT LUẬN .................................................................................................... 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 105 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trần thuật (narration) là phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng của loại tác phẩm tự sự. Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, thuật lại những sự kiện, con ngƣời, hoàn cảnh nào đó theo một cách nhìn nào đó. Trần thuật vừa là sự chiếm lĩnh, nhận thức đời sống bằng văn chƣơng, vừa thể hiện trình độ tƣ duy nghệ thuật và ý thức thể loại của nhà văn. Tồn tại nhƣ một thuộc tính của truyện, song ở các nghệ sĩ tài năng, trần thuật lại trở thành yếu tố nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tính hấp dẫn, cái “ma lực” của tác phẩm ngôn từ vừa ở chiều sâu vừa ở mặt cụ thể cảm tính. Trần thuật còn là bằng chứng của trình độ vƣợt thoát của nghệ sĩ trong quá trình khắc phục những giới hạn của tự sự truyền thống. Từ lâu, việc nghiên cứu phƣơng diện quan trọng này đã đƣợc các nhà thi pháp học chú ý. Ngành Trần thuật học (Narratology) trên thực tế đã trở thành một mũi nhọn trong khoa nghiên cứu văn học trên thế giới vào thế kỉ XX, tập trung hơn, vào nửa sau thế kỉ XX, gắn với những thành tựu xuất sắc. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật, từ những góc nhìn khác nhau giúp chúng ta có cơ sở để định giá đúng giá trị thẩm mĩ của tác phẩm, khẳng định tài năng và đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn chƣơng. Nói về tầm quan trọng của trần thuật, nhà nghiên cứu văn học ngƣời Nga G. N. Pospelov cho rằng: “Đóng vai trò quyết định trong loại tác phẩm tự sự là trần thuật”. 1.2. Ở Việt Nam, từ sau 1975, văn học đã có sự chuyển hƣớng mạnh mẽ trên tinh thần đổi mới. Nền văn học trong bối cảnh xã hội mới đã vận động xa dần khỏi quỹ đạo của văn học cách mạng với cảm hứng sử thi bao trùm để hƣớng đến cảm hứng thế sự, đời tƣ. Hiện thực bề bộn sau chiến tranh đã trở thảnh mảnh đất màu mỡ thu hút các nghệ sĩ, đặc biệt là các cây bút văn xuôi khai thác. Tiểu thuyết với ƣu thế về khả năng bao quát hiện thực đã hăng hái 2 tiến vào lãnh địa của đời sống để khám phá và ngày càng khẳng định vai trò là “xƣơng sống”, là “cột trụ” của nền văn học với nhiều tín hiệu đổi mới, nhiều khuynh hƣớng tìm tòi thể nghiệm, quẫy cựa để “khơi thông dòng chảy” (Nguyên Ngọc). Nằm trong dòng chảy văn học đổi mới từ 1986, nhiều tác phẩm, tác giả mới đã lần lƣợt xuất hiện, tạo đƣợc dấu ấn trên văn đàn. Tiêu biểu trong số này phải kể đến cây bút văn xuôi nổi tiếng Sƣơng Nguyệt Minh. Sƣơng Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn vào khoảng những năm đầu thập niên chín mƣơi của thế kỉ XX, cho tới nay với sự đam mê và lao động nghệ thuật nghiêm túc, nhà văn đã cho ra đời sáu tập truyện ngắn, hai tập bút kí – tạp văn, định hình đƣợc một phong cách riêng vừa ổn định lại không ngừng đổi mới. Sƣơng Nguyệt Minh từng nhận đƣợc nhiều giải thƣởng: - Giải thƣởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1996 với tác phẩm Bản kháng án bằng văn. - Giải thƣởng truyện ngắn cuộc thi Cây bút vàng của tạp chí Văn hóa – Văn nghệ Công an (1998 -2001) với tác phẩm Lửa cháy trong rừng hoang. - Giải thƣởng cuộc thi truyện ngắn cuộc thi Nhà xuất bản Giáo dục 2004 với tác phẩm Những bƣớc đi vào đời. - Giải thƣởng cuộc thi bút ký báo Giáo dục thời đại 2004 với tác phẩm Nhọc nhằn gieo chữ vùng cao. - Giải thƣởng cuộc thi tập truyện ngắn của Nhà xuất bản Thanh niên 2004 với tập truyện ngắn Đi qua đồng chiều. - Giải thƣởng cuộc thi bút ký Đài tiếng nói Việt Nam 2002 -2003 với tác phẩm Đêm Pà Cò. - Giải thƣởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2003-2004 với tác phẩm Mƣời ba bến nƣớc. - Giải thƣởng Văn học nghệ thuật Bộ Quốc phòng 5 năm 1999 – 2004 với tập bút ký Trong cơn đại hồng thủy. 3 Năm 2014, Sƣơng Nguyệt Minh xuất bản cuốn tiểu thuyết Miền hoang. Tiểu thuyết dày 631 trang, viết về ngƣời lính Việt Nam trên chiến trƣờng Campuchia năm 1979. Cuốn tiểu thuyết mới ra đời đã gây tiếng vang trong giới nghiên cứu, phê bình và đoạt giải Sách Hay năm 2015. Có thể nói, làm nên thành công của tiểu thuyết Miền hoang trƣớc hết là ở nghệ thuật trần thuật đặc biệt của Sƣơng Nguyệt Minh. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh từ góc nhìn trần thuật học ” với mong muốn tìm hiểu sâu cấu trúc, tổ chức trần thuật trong tiểu thuyết của nhà văn, từ đó khẳng định những đóng góp mới của nhà văn trên phƣơng diện trần thuật vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sƣơng Nguyệt Minh là cây bút văn xuôi đƣơng đại nổi tiếng. Truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã nhận đƣợc sự quan tâm lớn từ phía các nhà nghiên cứu, phê bình. Ngay từ truyện ngắn đầu tiên của nhà văn (Nỗi đau dòng họ) đƣợc in trên báo đã có ý kiến đánh giá là những trang văn “có mùi có vị, rõ ra tƣ chất nhà văn”. Cùng với sự ra đời của các tập truyện ngắn đặc sắc, những ý kiến bình luận về tác phẩm của Sƣơng Nguyệt Minh ngày càng phong phú. Nhà văn Khuất Quang Thụy trong lời tựa cho tập truyện ngắn Mƣời ba bến nƣớc thì phát hiện ra “những cái không thông thƣờng” trong cách viết của Sƣơng Nguyệt Minh, ngay ở những “bến nƣớc” đầu tiên trên con đƣờng sáng tạo văn học nghệ thuật, từ việc phá vỡ bút pháp truyền thống của thể loại, đến việc phá vỡ môtip chủ đề và tạo ra sự đa thanh trong tác phẩm [36]. Trong buổi tọa đàm về sự ra đời của tập truyện Dị hƣơng, nhà phê bình Văn Giá đã gói gọn phong cách văn chƣơng của Sƣơng Nguyệt Minh trong ba từ Hoạt - Phiêu - Thỏa (linh hoạt, phong phú về chất liệu và sự trẻ trung). Ba 4 từ ấy đã phản ánh khá đầy đủ điểm mạnh trong truyện ngắn của tác giả quân đội này [1]. Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh ra mắt bạn đọc vào năm 2014, sau đó đƣợc Nhà xuất bản Trẻ in thành sách cùng tên. Nếu chỉ tính tiểu thuyết, nó là đứa con đầu lòng của tác giả. Cuốn tiểu thuyết đã đoạt giải Sách Hay năm 2015 và đƣợc nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, nhà báo quan tâm giới thiệu, phân tích, bình luận. Trong buổi tọa đàm Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh với tiểu thuyết Miền hoang đƣợc tổ chức vào ngày 17/12/2014 tại Đại học Văn hóa Hà Nội, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trong và ngoài quân đội đã bày tỏ ý kiến, nhận định về tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh. Phạm Xuân Nguyên nhận định Miền hoang là cuốn tiểu thuyết công phu, tâm huyết; môtíp “lạc rừng” tuy không mới nhƣng với tƣ cách là một ngƣời từng trực tiếp can dự vào cuộc chiến trên đất bạn Campuchia nhƣ Sƣơng Nguyệt Minh thì đây có lẽ là sự lựa chọn khả dĩ nhất để nhà văn trút vào đấy một phần đời của mình với tất cả những trải nghiệm, suy tƣ, ám ảnh đầy ứ chật căng trong mình. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu, vừa là đồng đội cũ, vừa là ngƣời biên tập cuốn sách này, rất đồng cảm với những gì nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh hồi ức, tái hiện, gửi gắm trong Miền hoang, một cuốn tiểu thuyết ám gợi, vừa có Campuchia vừa không có Campuchia. Nhà văn Lê Minh Khuê và nhà phê bình Mai Anh Tuấn lại muốn tác giả Miền hoang viết tốc độ hơn, cô nén hơn, gợi nhiều hơn tả thực. Mai Anh Tuấn tỏ ra không muốn ngày hôm nay một câu chuyện lớn về chiến tranh đƣợc viết bằng một hình thức cổ điển. Nhà phê bình này ƣa hƣ cấu, suy tƣ về cuộc chiến, phơi mở tâm tƣ hậu chiến hơn là tái hiện, tả thực về cuộc chiến. Tóm lại, đƣờng đi của một tác phẩm lớn viết về chiến tranh theo Mai Anh Tuấn là tác phẩm đó phải đƣợc viết bằng tâm thế trí thức thay vì tâm thế của 5 ngƣời trực tiếp can dự, và từ một cuộc chiến cụ thể phải nâng lên thành phạm trù mang tính phổ quát, mang tầm nhân loại. Bên cạnh đó, trên phƣơng diện nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Văn Thọ và nhà văn Đỗ Bích Thúy tâm đắc với việc nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh biết tận dụng lợi thế của một tác giả truyện ngắn có nghề để viết tiểu thuyết, đó là nghệ thuật chọn lựa, xử lý, phân bố và xâu chuỗi hệ thống chi tiết. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ đánh giá cao sự “khôn ngoan” của tác giả Miền hoang trong việc lựa chọn nhiều ngôi kể, quy chiếu đƣợc nhiều góc nhìn, điểm nhìn, nhờ đó nội dung câu chuyện đƣợc kể thoải mái hơn, thật hơn, khách quan hơn. Nhà văn Đỗ Bích Thúy cho rằng mình bị cuốn sách của nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh hấp dẫn ngay lần đọc bản thảo đầu tiên, và cảm thấy mình là ngƣời phụ nữ dũng cảm khi đọc tiểu thuyết này bởi tính chất tàn bạo, man rợ ngoài sức tƣởng tƣợng của bản thân về một cuộc chiến đã đƣợc tác giả phơi trần. Nữ nhà văn này hoàn toàn tin tƣởng rằng nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh có thể làm chủ thể loại tiểu thuyết. Nhà văn Đỗ Tiến Thụy cũng đánh giá cao nghệ thuật tự sự của Miền hoang khi cho rằng, tuy là lần đầu viết tiểu thuyết nhƣng Sƣơng Nguyệt Minh đã trổ hết những “ngón nghề” của thể loại. Cả nhà văn Đỗ Tiến Thụy và nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan đều cho rằng tác giả Miền hoang “khôn ngoan” khi dùng những bản tin thông tấn ngắn gọn làm đề từ nhƣ một sự hỗn dung thể loại: văn chƣơng – báo chí, tiểu thuyết tƣ liệu – tiểu thuyết phiêu lƣu; bản thân những bản tin đã có sức khơi tạo đƣợc không khí, bối cảnh của sự kiện, tiết kiệm đƣợc công sức của nhà văn. Nhận xét về sự sáng tạo, đổi mới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền hoang, nhà văn Nguyên Ngọc chia sẻ: "Với đời sống văn học, chiến tranh luôn là một đề tài lớn, trong đó, đề tài về cuộc chiến của ngƣời lính Việt Nam trên chiến trƣờng Campuchia là cuộc chiến vô cùng ác liệt, phức tạp, khắc nghiệt 6 và gay gắt. Sự sáng tạo trong bút pháp của Sƣơng Nguyệt Minh đã góp phần giúp cho độc giả hiểu thêm về bản chất của cuộc chiến này" [54]. Nhà thơ Lê Minh Quốc trong bài viết “Tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh” cho rằng: “ Miền hoang ( NXB Trẻ-2014 ) của nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh là cuốn tiểu thuyết viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trƣờng K. những năm 1980. Viết chân thành, sự việc tàn khốc, bi thảm và hào hùng từ chất liệu vốn có. Hãy đọc. Nên đọc” [43]. Nhà phê bình văn học Lã Nguyên (La Khắc Hòa) trong bài viết: Tôi đọc Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh cho rằng: “Đọc Miền hoang, tôi thấy ông dồn hết tâm huyết vào lớp ngôn ngữ kiến tạo bức tranh thế giới, ngôn ngữ biểu hiện tƣ tƣởng nghệ thuật. Tôi nghĩ, nó là cuốn tiểu thuyết khó đọc đối với độc giả đại chúng, nhƣng chắc sẽ là chất liệu thú vị dành cho giới phê bình chuyên nghiệp.” [39] Nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức trong bài viết: Tiểu thuyết Miền hoang… giật mình và nghiền ngẫm ! cho rằng: “ Nghệ thuật hiện đại đƣợc nhiều chuyên gia ví: đó là cách đạo diễn nhiều hơn viết kịch bản. Nếu xét về mặt này, nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh hoàn toàn giống một đạo diễn tài ba đạo diễn mọi chi tiết. Chỉ có cuộc đào thoát khỏi rừng rậm mà anh viết hơn sáu trăm trang với bút pháp hiện thực - huyền ảo đƣợc sử dụng đan xen với những tình huống đƣợc dàn cảnh cong phu và kĩ lƣỡng.”[14] Nhà báo Việt Quỳnh (Báo Thể thao Văn hóa) trong bài viết: Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của ngƣời lính lạc rừng cho rằng: “Cảm hứng để viết cuốn tiểu thuyết “ định mệnh” này, có lẽ bắt nguồn từ những ám ảnh ký ức của nhà văn, khi từng là “ngƣời lính lạc rừng lang thang đói khát, mặt quắt nhƣ ngón tay chéo ở những cánh rừng Campuchia” nhƣ tác giả đã chia sẻ. Những mảnh vụn còn sót lại trong trí nhớ lúc hiển hiện, lúc mờ nhạt qua từng trang viết tạo nên một thế giới nội tâm đầy ấm ức. Trải nghiệm 7 lạ thƣờng trong dòng chảy cảm giác và cảm xúc đƣợc kể lại bằng chất văn mềm mại bình dị, pha cả trong sáng ngây thơ” [44]. Điểm qua các bài viết, những ý kiến bàn luận về Sƣơng Nguyệt Minh và tiểu thuyết của ông, chúng tôi nhận thấy, cuốn tiểu thuyết đặc sắc của nhà văn hiện vẫn chƣa đƣợc các giới nghiên cứu, phê bình quan tâm thỏa đáng. Chính vì vậy, trên cơ sở những gợi ý của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi đặt vấn đề tập trung tìm hiểu tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh dƣới góc nhìn trần thuật học với mục đích tìm hiểu sâu cấu trúc, tổ chức trần thuật trong tiểu thuyết của nhà văn, từ đó khẳng định những đóng góp mới của nhà văn trên phƣơng diện trần thuật vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khảo sát, phân tích tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh từ góc nhìn trần thuật học; từ đó làm rõ thêm nét độc đáo trong lối viết của Sƣơng Nguyệt Minh và khẳng định vai trò của nhà văn trên con đƣờng cách tân tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát lí thuyết trần thuật học - Phân tích tổ chức trần thuật trong Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh - Chỉ ra những nét độc đáo, khẳng định đóng góp của Sƣơng Nguyệt Minh vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Miền hoang của Sƣơng Nguyệt minh dƣới góc nhìn trần thuật học 4.2. Phạm vi nghiên cứu Miền hoang – tiểu thuyết của Sƣơng Nguyệt Minh, Nxb. Trẻ, 2014. 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp phân tích đối tƣợng theo quan điểm hệ thống - Phƣơng pháp xác định lịch sử - phát sinh - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp so sánh hệ thống. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa kiến thức về trần thuật học; - Phân tích những nét đặc sắc trong tổ chức trần thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt và chỉ ra những đóng góp của nhà văn về phƣơng diện này vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Khái quát về trần thuật học và hành trình sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh. Chƣơng 2. Ngƣời trần thuật và kĩ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh. Chƣơng 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh. 9 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ TRẦN THUẬT HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH 1.1. Khái quát về trần thuật học 1.1.1. Khái niệm trần thuật, trần thuật học 1.1.1.1. Khái niệm trần thuật Xét về thuật ngữ, trần thuật (narration) còn gọi tên khác là kể chuyện đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đƣa ra những cách hiểu khác nhau. Khi bàn về kể chuyện, J. Lin Velt cho rằng: “Kể là một hành vi trần thuật, và theo nghĩa rộng là một tình thế hƣ cấu bao gồm cả ngƣời trần thuật (narrateur) và ngƣời nghe kể (narrataire)” [47, tr.154]. Cũng bàn về kể chuyện, nhà nghiên cứu Hayden White lại lƣu ý đến động cơ của hành động kể và hiểu kể chuyện trong phạm vi rộng lớn bao quát cả đời sống: “Động cơ khiến ngƣời ta phải kể lại điều gì đó là rất tự nhiên, hình thức tự sự dƣờng nhƣ là hình thức tất yếu cho bất kì một sự tƣờng thuật nào về những gì đã thực sự xảy ra” [47, tr.119]. Ở Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng cho rằng trần thuật là một hoạt động sáng tạo của nhà văn trong việc tái hiện hiện thực trong tác phẩm, nhất là tác phẩm tự sự. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật “là phƣơng diện cơ bản của phƣơng thức tự sự, là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của ngƣời trần thuật nhất định” [17, tr.307]. Cũng bàn về khái niệm trần thuật, tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng: “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của hành động, tả ngoại hình, tả nội thất…bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân 10 vật. Do vậy, trần thuật là phƣơng thức chủ yếu để cấu tạo các tác phẩm tự sự hoặc của ngƣời kể, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời nói trực tiếp của các nhân vật.” [2, tr.338] Trong bài Việc mở ra môn trần thuật học trong nghành nghiên cứu văn học ở Việt Nam, tác giả Lại Nguyên Ân có viết: “Trần thuật (narration) chỉ phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng trong các tác phẩm thuộc văn học tự sự (tƣơng tự, trầm tƣ/ meditation/ đặc trƣng cho văn học trữ tình, đối thoại đặc trung cho văn học kịch)”, “Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, là cái đƣợc kể, đƣợc thuật, trong tác phẩm văn học là chuyện” [45, tr.146]. Cùng với quan điểm này là định nghĩa trong Giáo trình lí luận văn học: “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật miêu tả sự kiện nhân vật theo một thứ tự nhất định.” [46, tr59]. Nhƣ vậy, trần thuật là một vấn đề đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm. Qua nghiên cứu, tìm hiểu những quan niệm trên, tựu trung có thể thấy: Trần thuật trƣớc hết là một phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự, thực chất của hoạt động trần thuật là việc kể lại, thuật lại những sự kiện, con ngƣời, hoàn cảnh…theo một thứ tự nhất định, dƣới một cái nhìn nào đó. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật giúp ta có cơ sở để khẳng định giá trị của tác phẩm đòng thời khẳng định tài năng và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn học. 1.1.1.2. Trần thuật học Thuật ngữ narratology: đƣợc dịch là trần thuật học đã xuất hiện và nhanh chóng trở nên quen thuộc trong giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Nếu trần thuật là hoạt động kể thì trần thuật học là bộ môn nghiên cứu về hoạt động trần thuật (kể) với các vấn đề lí thuyết về nghệ thuật kể chuyện. Trần thuật học còn đƣợc gọi tên khác là tự sự học. Trong thực tế nghiên cứu đã có những ý kiến tranh luận xung quanh việc dùng thuật ngữ trần thuật học hay tự 11 sự học. Trong công trình Trần thuật học - dẫn luận lí luận tự sự (1999), Micke Bal (ngƣời Hà Lan) đã dùng hai thuật ngữ này không có ý nghĩa phân biệt khi cho rằng: “Tự sự học (narratology) là lí luận về trần thuật, văn bản trần thuật, hình tƣợng, hình ảnh sự vật sự kiện cùng sản phẩm văn hóa kể chuyện” [47, tr.12]. Ở Việt Nam, trong các cuộc hội thảo, nhiều ý đề xuất dùng thuật ngữ trần thuật học (Lại Nguyên Ân, Đỗ Hải Phong…), nhƣng phần lớn dùng cách gọi tự sự học (Trần Đình Sử, Phƣơng Lựu, Lê Thời Tân…). Thực chất, sự khác nhau trong cách dùng thuật ngữ cũng không cản trở sự phát triển mạnh mẽ của môn nghiên cứu. Trong luận văn, chúng tôi chọn cách gọi trần thuật học vì tự sự vốn đã là khái niệm dùng để chỉ một trong ba loại văn lớn của văn học (phân biệt với trữ tình và kịch). Về lịch sử nghiên cứu, theo quan điểm của Trần Đình Sử thì đấy “là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, có lịch sử nghiên cứu lâu đời” [86, tr.8] với những dẫn chứng về các nghiên cứu của Platon (khi đối lập mô phỏng với tự sự), Thomas Lister (thế kỉ XIX) với khái niệm khoảng cách… Nhƣng trên thực tế, chỉ đến đầu thế kỉ XX, trần thuật học mới thực sự trở thành một vấn đề lí thuyết tự sự thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu về lí luận trần thuật đã có những bƣớc tiến dài và đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Những thành tựu này kết tinh tronh các công trình nghiên cứu tự sự của các nhà hình thức Nga (V.propp, V.Shklovski, Eikhenbau); nguyên tắc đối thoại của M.Bakhtin, loại hình học vẽ kĩ thuật trần thuật Anh Mỹ do P.Lubblook khởi tạo và N.Friedman tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần thuật của các học giả Đức (E.LeibFried,W.Fuger,F.K.Stanzel, W.Kayser, O.Ludwig, K.Friedman); các quan niệm của nhà cấu trúc ngƣời Crech Z.Doleze, các học giả Nga Ju.Lotman và B.Uspenski… Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lí luận trần thuật diễn ra muộn hơn. Đầu thế kí XX, khi nền phê bình hiện đại xuất hiện, các nhà nghiên cứu bắt 12 đầu quan tâm đến bút pháp, lối viết nhƣng chƣa đi sâu tìm hiểu về trần thuật nhƣ một vấn đề lí luận thực sự. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975, nền văn học chuyển động theo quỹ đạo của văn học kháng chiến, với cảm hứng sử thi bao trùm. Các nhà văn trong khi sáng tạo cũng đã chú ý đến nghệ thuật kể chuyện nhƣng việc nghiên cứu về trần thuật thì còn rời rạc, lẻ tẻ. Từ năm 1986, văn học thoát khỏi đà trôi quán tính của khuynh hƣớng sử thi để trở về với hiện thực ngổn ngang, bề bộn sau chiến tranh. Trƣớc bối cảnh mới, quan điểm nghệ thuật và thị hiếu thẩm mĩ cũng đổi thay. Nhà văn không chỉ quan tâm đến việc phản ánh đời sống mà còn rất chú ý đến kỹ thuật, lối viết. Bởi vậy, việc nghiên cứu về lí luận trần thuật cũng đƣợc đẩy mạnh. Đặc biệt, lí luận trần thuật đƣợc quan tâm rộng rãi khi liên tiếp diễn ra những cuộc hội thảo về tự sự học năm 2001 và 2003 tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Thực tiễn văn học cho thấy, trong văn xuôi cổ trung đại trên thế giới và Việt Nam, nhà văn thƣờng chú ý đến việc xây dựng các sự kiện và triển khai cốt truyện, ngay cả tâm lí ngƣời đọc cũng luôn luôn theo dõi để biết đƣợc diễn biến câu chuyện ra sao, kết cục thế nào. Nhƣng bƣớc sang xã hội hiện đại, nhu cầu thị hiếu của bạn đọc thay đổi. Họ không còn tìm đến tác phẩm chỉ để biết diễn biến cốt truyện mà họ còn quan tâm đến cách kể chuyện của nhà văn. Thậm chí, họ xem trọng cách kể, cách triển khia câu chuyện hơn là bản thân câu chuyện ấy. Trƣớc sự đổi thay này, mỗi nhà văn đều phải nỗ lực trong cách viết nhằm mang lại những tác phẩm thực sự hấp dẫn bạn đọc. Và đây cũng là cơ sở cho sự hình thành của bộ môn trần thuật học. Việc nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của một tác giả đòi hỏi phải đi ssau tìm hiểu lí thuyết trần thuật học và vận dụng lí thuyết ấy để phân tích những biểu hiện cụ thể của sự độc đáo trong nghệ thuật dẫn chuyện, kiến tạo điểm nhìn, ngôi kể, sự xác lập ngôn ngữ, giọng điệu đặc trƣng từ đó có những nhận xét, kết luận chính xác về tài năng, bản lĩnh nghệ thuật cũng nhƣ phong cách của nhà văn. 13 1.1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật Nhƣ trên đã nói, trần thuật là vấn đề lý luận thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, vì thế, các yếu tố cấu trúc của nó cũng không ngừng đƣợc tìm hiểu và khám phá. Đề cập đến các yếu tố của trần thuật, M. Gorki đã chỉ ra rằng: “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con ngƣời đƣợc tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở cạnh họ, mách cho ngƣời đọc biết rõ phải hiểu họ nhƣ thế nào, giải thích cho ngƣời đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật đƣợc miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi khéo léo, mặc dù ngƣời đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tƣơng quan của họ” [4, tr.307]. Nhƣ vậy, M. Gorki đã kể ra các thành phần của trần thuật không chỉ gồm lời thuật, chức năng của nó, không chỉ là kể việc mà nó bao hàm cả việc miêu tả đối tƣợng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả. Theo Trần Đình Sử, trần thuật gồm sáu yếu tố cơ bản là kể chuyện, ngôi trần thuật và vai trần thuật, diểm nhìn trần thuật, lƣợc thuật, miêu tả chân dung và dựng cảnh, phân tích, bình luận, giọng điệu. Theo quan niệm của chúng tôi, trần thuật đòi hỏi trƣớc hết phải có ngƣời kể. Chủ thể của hoạt động kể phải xử lý tốt mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi các sự kiện và nhân vật. Và nhƣ vậy có hai nhân tố quy định tới trần thuật là ngƣời kể chuyện và chuỗi ngôn từ. Từ ngƣời kể chuyện ta có ngôi trần thuật, điểm nhìn trần thuật; từ chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, không gian trần thuật, thời gian trần thuật… Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số yếu tố tiêu biểu 14 thuộc nghệ thuật trần thuật của Sƣơng Nguyệt Minh. Vì thế, chúng tôi sẽ tiến hành xác lập những khái niệm cơ bản liên quan đến những vấn đề nằm trong phạm vi nghiên cứu. 1.1.2.1. Ngƣời trần thuật Để tái hiện câu chuyện, nhà văn phải tạo ra ngƣời kể bởi nếu không có ngƣời kể thì sẽ không có truyện. Nói về điều này, Tz. Todorov từng khẳng định: “Ngƣời kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tƣởng tƣợng… Không thể có trần thuật nếu thiếu ngƣời kể chuyện” [45, tr. 117]. Ngƣời kể chuyện hay còn gọi là “ngƣời trần thuật” cũng nhƣ nhiều khái niệm khác, cho đến nay vẫn chƣa đƣợc các nhà lý luận văn học thống nhất hoàn toàn. Theo Pospclov thì ngƣời kể chuyện là “ngƣời môi giới giữa các hiện tƣợng đƣợc miêu tả và ngƣời nghe (ngƣời đọc), là ngƣời chứng kiến, cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [47, tr. 196]. Trong quan niệm của W. Kayser, ngƣời kể chuyện là một khái niệm mang tính chất cực kỳ hình thức: “Đó là một hình hài đƣợc sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật kể, ngƣời kể chuyện không bao giờ là vị tác giả đã hay chƣa nổi danh, nhƣng là cái vai mà tác giả bịa ra và đã đƣợc chấp nhận”. [47, tr. 196] Với Todorov thì ngƣời kể chuyện không chỉ là ngƣời kể mà còn là ngƣời định giá: “Ngƣời kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hƣ cấu. Chính ngƣời kể chuyện là hiện thân của những khuynh hƣớng mang tính xét đoán và đánh giá” [47, tr. 197] Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng ngƣời kể chuyện “là hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [17, tr. 191]. Ngƣời kể chuyện có thể xuất hiện xƣng “tôi” trực tiếp hoặc ẩn hiện vô hình để thuật lại câu chuyện.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan