Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận xử lý tình huống bạo lực trong gia đình chị trần thị lan....

Tài liệu Tiểu luận xử lý tình huống bạo lực trong gia đình chị trần thị lan.

.PDF
21
3036
160

Mô tả:

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài Gần đây, nhiều cuộc bạo hành gia đình xảy ra liên tục, hậu quả ngày càng trở nên nghiêm trọng đã gây không ít bức xúc đối với dư luận xã hội. Những phụ nữ tay yếu chân mềm bị chồng hành hạ, làm nhục đã không biết cách để bảo vệ bản thân mình. Vì vậy, bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận quan tâm sâu sắc. Đây là một dạng tệ nạn xã hội gây hậu quả ở nhiều mức độ lên đời sống gia đình và xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Trường hợp nhiêm trọng, bạo lực gia đình là tác nhân gây ra những hậu quả tai hại về cuộc đời, nhân cách của con người, gián tiếp tạo nên mầm mống các tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác trong xã hội. Bạo lực trong gia đình tồn tại dưới nhiều hình thức, từ việc sử dụng sức lực, vật dụng để đánh đập gây thương tích, tổn hại về thể xác cho đến dùng lời nói nhục mạ, chửi mắng, đe dọa gây tổn thương về tâm lý và tinh thần của các thành viên đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, tâm lý, tình cảm của mỗi cá nhân. Trên thực tế, hầu hết người dân chưa biết cách và có ít cơ hội tiếp cận với các dịch vụ Công tác xã hội, họ thường cố gắng chịu đựng trong một thời gian dài và không biết làm sao để thoát khỏi tình cảnh bị bạo lực, vì vậy cuộc sống cảu họ dễ đi đến chỗ bế tắc và có những hành vi tiêu cực, thậm chí kéo dài sẽ gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng... Vì những lý do trên, trong phạm vi bài tiểu luận, em xin trình bày một tình huống “Xử lý tình huống bạo lực trong gia đình chị Trần Thị Lan” thuộc quản lý của Trung tâm Công tác xã hội Hà Nội, đơn vị trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội. Em xin trân thành cảm ơn tất cả các thầy cô của Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong đã nhiệt tình giảng dạy trong thời gian khóa học lớp bồi dưỡng ngạch chuyên vừa qua. Do giới hạn về thời gian cũng như giới hạn về trình độ, kinh nghiệm của bản thân nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của thầy cô! 1 1.2 Mục tiêu của đề tài Với đề tài này, em đề ra mục tiêu mô tả được tình huống , phân tích được những nguyên nhân xảy ra tình huống đó, hậu quả của tình huống. Từ đó, đưa ra được các phương án xử lý tình huống, chọn được phương án tối ưu nhất. Xây dựng được kế hoạch và tổ chức thực hiện phương án tối ưu. 1.3 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp được sử dụng trong bài tiểu luận đó là phương pháp so sánh, phân tích và xử lý tình huống. 1.4 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Trung tâm Công tác xã hội Hà Nội - trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội . 1.5 Bố cục của tiểu luận Bố cục của bài tiểu luận bao gồm các phần sau: Phần I: Lời mở đầu. Phần II: Nội dung bài tiểu luận gồm các mục: 1. Mô tả tình huống. 2. Xác định mục tiêu giải quyết tình huống. 3. Phân tích nguyên nhân, hậu quả của tình huống. 4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn các phương án xử lý tình huống. 5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án tối ưu. Phần III: Kết luận và kiến nghị 2 PHẦN II: NỘI DUNG 2.1 Mô tả tình huống: Sáng ngày 26 tháng 10 năm 2015 Phòng tư vấn và trợ giúp đối tượng của Trung tâm Công tác xã hôi Hà nội có tiếp nhận trường hợp của chị Trần Thị Lan – nạn nhân của bạo lực gia đình. Hoàn cảnh gia đình chị Lan như sau: Chồng: Lê Văn Sơn. Tuổi: 35 tuổi Quê quán: Thị trấn Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội Nơi ở hiện nay: Kim Giang, phường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, Hà Nội Nghề nghiệp: chủ tiệm cầm đồ Trình độ văn hoá:12/12 Vợ: Trần Thị Lan Tuổi: 32 tuổi Quê quán: Phú Châu, Ba Vì, Hà Nội. Nghề nghiệp: Thợ trang điểm, làm móng. Hoàn cảnh gia đình : Do cùng quê nên hai anh chị có cơ hội gặp gỡ và quen nhau sau đó hai người kết hôn năm 2006. Sau khi kết hôn, bố mẹ anh Sơn do làm kinh doanh nên có vốn, ông bà hỗ trợ cho vợ chồng anh Sơn tiền vốn để hai vợ chồng làm ăn kinh tế. Ngay sau đó, hai vợ chồng anh Sơn chuyển xuống quận Hà Đông sinh sống và dùng tiền vốn để anh Sơn mở tiệm cầm đồ, còn chị Lan quyết định đi học nghề làm thợ trang điểm và làm móng. Hiện nay hai vợ chồng anh chị có 1 con trai 8 tuổi và 1 con gái 5 tuổi. Bạo lực bắt đầu diễn ra từ năm 2012, cửa tiệm của Anh Sơn đến giai đoạn làm ăn thua lỗ, vắng khách, không có lãi, không đủ bù vào chi phí phải bỏ ra, nên dần dần anh Sơn chán nản, theo bạn bè ham chơi cờ bạc, rượu chè. Anh Sơn không những không đưa tiền sinh hoạt cho chị Lan chăm lo cho gia đình và các con mà còn thường xuyên hỏi chị Lan đưa tiền cho mình. Một mình chị phải vất vả lo kiếm tiền trang trải toàn bộ sinh hoạt cho gia đình và tiền cho chồng chơi cờ bạc. Vì kinh tế khó khăn, cuộc sống ngày càng vất vả nên hai anh chị thường 3 xuyên cãi vã dẫn đến xô sát, cứ mỗi lần hai vợ chồng cãi nhau là anh Sơn lại sử dụng vũ lực với chị Lan. Anh Sơn thường xuyên uống rượu, chơi cờ bạc. Khi cần tiền thì về nhà và đòi tiền chị Lan, nếu chị không có tiền để đưa cho chồng thì anh ta đánh. Thường thì cứ hàng tuần lại có một trận xung đột, có khi lâu hơn thì hai ba tuần một lần. Anh Sơn vẫn yêu vợ yêu con nhưng cứ thua cờ bạc, uống rượu vào là anh ta thượng cẳng chân hạ cẳng tay với chị Lan, chửi bới chị suốt ngày đi làm mà không có tiền cho chồng, thậm chí còn cho rằng chị mượn cớ đi làm để ngoại tình và tỏ ra tức giận, ghen tuông vô cớ. Hình thức bạo lực: Thể chất, tinh thần và kinh tế: Mỗi lần xung đột, anh Sơn thường quát mắng, đe dọa, đánh vợ bằng cách tát vào mặt, đá vào mông, vào lưng, xương sườn, rồi nắm tóc xô đẩy...Sau khi đánh xong thì anh ta chửi bới, chì chiết rồi bỏ đi… Lần gần đây nhất, anh ta uống rượu say rồi về nhà đánh vợ một trận nhừ tử, mặt mũi thâm tím, khiến vợ phải nhập viện. 2.2 Mục tiêu xử lý tình huống - Mục tiêu 1: Giải quyết vấn đề do tình huống đặt ra: Bạo lực gia đình với phụ nữ, quyền con người, tính pháp lý của luật phòng chống bạo lực gia đình, vai trò chính quyền và các tổ chức có liên quan,… - Mục tiêu 2: Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: cụ thể ở đây là hệ thống pháp luật của Việt Nam về phòng chống bạo lực gia đình, quyền con người,… Bộ luật quốc tế về quyền con người ( Internationnal Bill of Human Rights) bao gồm tuyên ngôn thế giới về nhân quyền và cac điều ước quốc tế khác về quyền con người do Liên Hiệp Quốc ban hành đã xác lập một khung các quyền con người cơ bản mà mọi thành viên trong gia đình nhân loại đều được hưởng và được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh và môi trường kể cả môi trường gia đình. Bạo lực gia đình là một trong các hành vi cấu thành sự vi phạm nhiều quyền con người cơ bản cụ thể là: Quyền Sống: Mọi người đều có quyền sống, quyền này được pháp luật bảo vệ, không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ. 4 Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm: không ai được tự ý làm tổn hại đến thân thể, danh dự, nhận phẩm của người khác. Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật: theo quy định này mọi người, bất kể sự khác biệt về giới tính, độ tuổi… đều có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Theo đó, quy định về quyền này trong pháp luật quốc tế về quyền con người có ý nghĩa phòng, chống bạo lực gia đình trước hết nảy sinh từ vị thế bất bình đẳng giữa kẻ có hành vi bạo lực với người bị bạo lực mà thông thường là giữa nam giới và phụ nữ. Quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử: Quyền này trở thành nền tảng cho việc phòng, chống bạo lực gia đình, bởi lẽ bạo lực gia đình cơ bản có nguyên nhân từ sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Căn cứ luật số 02/2007/ QH12 của Quốc Hội Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên trong gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Điều 2 của luật này quy định về các hành vi bạo lực gia đình gồm có: Hành hạ, ngược đãi đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe tính mạng. Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng… Điều 3 luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định về nguyên tắc phòng chống bạo lực gia đình: Kết hợp các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình , lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 5 Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện và ngăn chặn kịp thời theo quy định của pháp luật. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ giúp đỡ kịp thời, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước… Phát huy vai trò trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan tổ chức trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Điều 4, luật này quy định: Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng, chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Chấp hành quyết định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị, chăm sóc trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị bạo lực gia đình khi có yêu cầu của pháp luật. Chương IV của luật này quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan tổ chức trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Trên đây là một số căn cứ pháp lý mà theo học viên chọn lọc có thể áp dụng để giải quyết tình huống bạo hành trong gia đình chị Lan. Toàn bộ những điều khoản quy định trong luật này sẽ được áp dụng để phân tích tình huống của gia đình chị Lan và cũng sử dụng làm căn cứ để xây dựng phương án giải quyết tình huống của gia đình chị ở phần sau. -Mục tiêu 3: Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân Dựa vào cơ sở lý luận trên ta nhận thấy rằng tình trạng bào hành ở gia đình chị Lan không dừng lại ở phạm vi trong gia đình nữa mà vấn đề chị Lan gặp phải hoàn toàn được pháp luật can thiệp và bảo vệ. Anh Sơn không những thường xuyên mắng nhiếc chị Lan trong thời gian dài, thậm chí còn đánh chị đến mức phải nhập viện. Những hành động này của anh Sơn đã xâm phạm đến cả thể xác và tinh thần của chị. Xét theo luật phòng 6 chống bạo hành gia đình thì anh Sơn đã và đang có hành vi bạo hành đối với chị Lan. Xét thấy mức độ và thời gian bạo hành của anh Sơn đối với chị Lan thì vấn đề của anh chị cần được cơ quan chức năng can thiệp và chị Lan hoàn toàn có cơ sở để kiện anh Sơn ra tòa án địa phương. 2.3 Phân tích nguyên nhân và hậu quả * Nguyên Nhân: Nguyên nhân chủ quan từ phía chị Lan và anh Sơn: Về phía anh Sơn và chị Lan, Hai gia đình cùng trú tại huyện Ba Vì, Hà Nội do vậy sự khác biệt về văn hóa sống là rất ít hoặc không có. Do vậy có thể kết luận nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là do đặc điểm công việc của hai người và do điều kiện kinh tế của gia đình. Thứ nhất, trình độ học vấn của anh Sơn chỉ hết lớp 12, còn thiếu nhận thức về những vấn đề pháp luật liên quan tới luật hôn nhân và gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình. Việc bạo hành của anh Sơn với chị Lan không còn là vấn đề riêng của hai vợ chồng mà ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình và vi phạm pháp luật. Về phía anh Sơn: Sau khi kết hôn với chị Lan, anh làm ăn thua lỗ lại theo bạn bè chơi cờ bạc và rượu chè, chi phí hàng ngày trong gia đình dựa phần lớn vào khoản thu nhập từ công việc của chị Lan. Anh Sơn rơi vào cái vòng luẩn quẩn, rượu chè cờ bạc, thiếu tiền lại về đòi chị Lan. Khi không được đáp ứng thì có hành vi đánh đập chị Lan. Anh Sơn không nhận thấy mình sai và luôn cho những hành vi chửi bới, mắng nhiếc, đánh chị Lan là điều đương nhiên, là quyền của anh được làm với chị Lan – vợ anh. Thứ hai, về phía chị Lan: Tình trạng cãi vã, anh Sơn đánh chị Lan sau những lần rượu chè, thiếu tiền chơi cờ diễn ra và thời gian này đã kéo dài gần bốn năm. Anh Sơn vẫn tiếp tục những hành vi sai trái của mình và chị Lan vẫn tiếp tục sự chịu đựng. Chị vì hạnh phúc gia đình, vì con và thông cảm cho chồng trong thời gian khó khăn làm ăn thua lỗ… chị âm thầm chịu đựng và không hề 7 biết là chị hoàn toàn được pháp luật bảo vệ và chị được quyền yêu cầu anh Sơn không được thực hiện những hành vi bạo lực đó với mình. Nhưng thời gian gần đây những hành động của anh Sơn càng ngày càng quá đáng, anh mượn rượu để chửi bới, đánh chị vô cớ, thậm chí đánh chị tới mức phải nhập viện. Chị Lan không chịu đựng được nữa và đã lên tiếng nhờ sự tư vấn giúp đỡ của trung tâm Công tác xã hội Hà Nội. Nguyện vọng của chị vẫn muốn giữ hạnh phúc gia đình, chị vẫn còn tình cảm với anh Sơn, hơn nữa chị muốn giữ lại hạnh phúc gia đình vì các con, chị mong các đoàn thể tư vấn giúp đỡ để chị chia sẻ với chồng, giúp chồng chị hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh, công việc và những khó khăn của chị, tu trí làm ăn và con chị có cuộc sống gia đình trọn vẹn. Nguyên nhân khách quan: - Kiến thức của một bộ phận dân cư về bạo lực gia đình còn hạn chế. Yêu cầu cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông pháp luật đặc biệt là cung cấp những thông tin kiến thức về bạo lực gia đình để các chị em có điều kiện tiếp cận, hiểu và nắm được vấn đề để phòng, tránh nguy cơ bạo hành gia đình trong chính cuộc sống của họ. Thêm một nguyên nhân nữa cũng do nhận thức đó là bản thân người phụ nữ bị bạo hành họ không cho đấy là hành vi vi phạm pháp luật nên họ không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Rào cản văn hóa cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho chính quyền cơ sở và các cơ quan liên quan vào cuộc can thiệp vấn đề bạo hành gia đình gặp nhiều khó khăn. - Sự bất cập trong văn bản hệ thống pháp luật: mức độ răn đe chưa cao. Đa phần các vụ việc được giải quyết trên phương diện nhắc nhở, khuyên bảo nên tỷ lệ bạo hành tái phạm cao. - Sự thiếu sót của cơ quan tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước: không phát hiện được vi phạm hoặc khi phát hiện xử lý thì hậu quả đã nghiêm trọng. Trường hợp của chị Lan đã bị bạo hành nhiều năm mà không có sự can thiệp của chính quyền, cơ quan tổ chức liên quan. 8 Có thể nói nguyên nhân dẫn đến hậu quả của tình huống này chủ yếu vẫn là do bản thân anh Sơn và chị Lan không nhận thức đúng được hoàn cảnh và hành vi của mình. Do vậy muốn khắc phục tình trạng hiện tại chị Lan phải là người chủ động lên tiếng để giữ lấy hạnh phúc gia đình, giải thoát cho mình. * Hậu quả: Về phía chị Lan: Thiệt hại về mặt sức khỏe, tinh thần và kinh tế. Nếu tình trạng bạo hành của anh Sơn đối với chị Lan vẫn tiếp diễn thì hạnh phúc gia đình anh chị sẽ không được đảm bảo. Nguy cơ đi đến kết thúc hôn nhân là rất cao. Chị Lan sẽ phải chịu cảnh bạo hành ảnh hưởng nghiêm trọng về mặt thể chất và tinh thần mà hạnh phúc gia đình cũng không có được do anh Sơn không hiểu được bản chất của vấn đề. Gia đình tan vỡ kéo theo các con của chị sẽ không có một gia đình yên ấm, đầy đủ tình cảm. Hai con sẽ bị thiếu tình thương của cả cha và mẹ ảnh hưởng đến sự phát triển sau này. Hậu quả về mặt xã hội: Tình huống bạo hành ở gia đình nhà chị Lan là một trong những tình huống khá điển hình của nạn bạo hành gia đình mà xưa nay vẫn được gọi dưới vỏ bọc là “chuyện trong nhà”. Nó ảnh hưởng đến tinh thần và thể chất trong khoảng thời gian dài, tác động lớn đến tâm lý của người bị bạo hành. Cụ thể trong tình huống là ảnh hưởng đến chị Lan, bị ảnh hưởng mặt sức khỏe, tâm lý thậm chí có nguy cơ tan vỡ gia đình. Nếu chính quyền cơ sở và các cơ quan liên quan không có biện pháp xử lý, can thiệp cách khéo léo thì sẽ không giúp được anh Sơn, chị Lan và toàn bộ người dân trong xã nhận thức được đúng đắn về vấn đề bạo hành gia đình, vấn đề giới hiện nay trong xã hội, gây tình trạng mất ổn định trật tự xã hội. Có thể nói bạo hành gia đình là một trong những hành vi lệch chuẩn mà cần được nhận thức đúng. Do vậy một xã hội văn minh, một xã hội phát triển trong tương lai hi vọng sẽ không còn nạn bạo hành gia đình, đặc biệt phổ biến như tình huống của chị Lan và anh Sơn. 9 2.4 Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống *Mục tiêu: Giúp chị Lan giải quyết được vấn đề trong gia đình, thoát khỏi cảnh bạo hành hiện tại. Giải quyết vấn đề của chị Lan nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền cũng như sức mạnh của các đơn vị đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước. Giúp cho người dân trong xã nhận thức được rõ ràng các hành vi bạo lực gia đình để họ từ nhận thức đi đến hành động không tái phạm nữa. Nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ công chức có liên quan tại chính quyền. Giải quyết tình huống bạo hành ở gia đình chị Lan góp phần đảm bảo pháp chế, trật tự kỷ cương của cơ sở. Bởi bạo hành gia đình dưới nhiều hình thức và dưới nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau đã và đang còn tồn tại rất nhiều ở các gia đình trong xã hội. Nếu một trường hợp điển hình được giải quyết sẽ giúp cho người dân có cơ hội hiểu rõ hơn vấn đề và nhận thức vấn đề bạo hành một cách đúng đắn hơn, làm tăng thêm uy tín và trách nhiệm của chính quyền cơ sở về vấn đề này. Bạo hành gia đình thường xuyên diễn ra cũng do một phần ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa. Với người phụ nữ thì quan điểm “ tam tòng tứ đức” còn rất nặng nề và khuôn mẫu. Nghĩa là họ cho rằng phục tùng chồng và người đàn ông trong gia đình là điều tất nhiên người phụ nữ phải làm, thậm chí sự phục tùng đó là trái với lẽ thường. Họ luôn cam chịu, không dám nói lên ý trí, nguyện vọng và lý tưởng sống của riêng mình mà chấp nhận cuộc sống phụ thuộc. Do vậy thông qua việc giải quyết tình huống bạo hành ở gia đình nhà chị Lan giúp gửi thông điệp đến những gia đình, những cá nhân đã và đang có hành vi bạo hành đối với người phụ nữ, người vợ trong gia đình rằng: phụ nữ có tiếng nói riêng của họ, họ có quyền được sống, quyền thể hiện bản thân và tất cả những quyền ấy họ được pháp luật bảo vệ. 10 * Phương án 1: chị Lan làm đơn kiện anh Sơn vì tội bạo hành. Căn cứ vào các quy định của điều luật số 02/2007/QH12 - Luật phòng, chống bạo hành gia đình thì suốt khoảng thời gian gần hai năm qua anh Sơn liên tục chửi mắng, lăng mạ và thậm chí đánh chị Lan, do vậy chị Lan hoàn toàn có cơ sở pháp lý để kiện anh Sơn. Nhưng xét về mặt tình thì đây là phương án không phù hợp do: Một là, chị Lan còn tình cảm với anh Sơn, mục đích chị muốn đạt được sau lần giải quyết này là làm sao để cuộc sống gia đình chị được cải thiện êm ấm. Nếu chị Lan kiện anh Sơn về những hành vi bạo hành vừa qua thì tình cảm của hai anh chị sau khi giải quyết sẽ không còn được như xưa nữa và có thể việc ly hôn sẽ xảy ra với anh chị. Đây là kết cục cả chị Lan và anh Sơn không mong muốn. Hơn nữa hai bên gia đình cũng không ủng hộ chị khi lựa chọn phương án giải quyết này. Minh chứng là những lần chị đưa con về quê cả hai bên đều động viên chị quay về và khuyên nhủ chồng để hai vợ chồng lại có cuộc sống êm ấm. Hai là, trong suốt khoảng thời gian gần bốn năm, mặc dù hai vợ chồng có va chạm với nhau nhưng với gia đình hai bên anh Sơn đối xử không có vấn đề gì và anh Sơn không bao giờ đánh con. Hay hiểu theo cách khác là phạm vi xung đột chỉ mới dừng lại ở giữa hai vợ chồng. Chị Lan được gia đình bên nhà anh Sơn rất thương yêu, quý mến và ngược lại bên gia đình chị Lan cũng không có điều tiếng gì đối với anh Sơn. Do vậy việc chị Lan lựa chọn phương án giải quyết làm đơn kiện anh Sơn sẽ không được các thành viên trong hai gia đình ủng hộ. Ba là, xét khung hình phạt hành vi bạo lực gia đình của anh Sơn đối với chị Lan thì chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Với những hành vi này anh Sơn chị bị xử phạt ở mức nhắc nhở cảnh cáo hoặc xử phạt hành chính và mới mức phạt này thì không đủ mạnh để răn đe những hành vi của anh mà còn làm cho tình cảm vợ chồng của anh chị tồi tệ hơn. Do vậy có thể nói phương án chị Lan làm đơn kiện hành vi bạo hành của anh Sơn là phương án hợp lý nhưng không hợp tình. Ưu điểm và hạn chế của phương án: 11 Ưu điểm: Tính răn đe cao, chấm dứt ngay được hành vi bạo hành của anh Sơn đối với chị Lan. Có sức ảnh hưởng mạnh đến những trường hợp bạo hành tương tự trên địa bàn phường, quận. Hạn chế: Hợp lý nhưng không hợp tình. Nguy cơ hạnh phúc gia đình của anh Sơn và chị Lan sẽ tan vỡ. Chị Lan sẽ phải chịu sức ép tâm lý từ nhiều phía và không đạt được mục đích ban đầu đề ra, đó là giải quyết vấn đề để anh Sơn điều chỉnh hành vi, chị Lan vẫn giữ được gia đình. *Phương án 2: chị Lan nói chuyện với anh Sơn và nhờ sự can thiệp hỗ trợ của hai bên gia đình. Sử dụng phương án này chị Lan có thể tập hợp một cuộc họp gia đình có sự tham gia của bố mẹ hai bên, các anh chị em những người có sức ảnh hưởng đến anh Sơn, hoặc những người anh thường hay tâm sự trong gia đình. Trong cuộc họp chị Lan trình bày với gia đình về tình trạng của hai vợ chồng và cũng trình bày nguyện vọng của mình. Chị Lan nên cho mọi người biết về hành vi đối xử của anh Sơn với mình để mọi người cùng phân tích và cho cả hai vợ chồng chị những lời khuyên hữu ích. Trong cuộc họp chị cũng phải khơi gợi cho anh Sơn chia sẻ hết những suy nghĩ của mình và hướng giải quyết của anh. Chị Lan và các thành viên trong cuộc họp luôn lấy mục tiêu chung của cuộc họp là cứu vẫn cuộc hôn nhân, hướng cả hai anh chị nghĩ về tương lai của các con để đưa ra ý kiến và hướng giải quyết cho phù hợp. Hai vợ chồng nên đưa ra những thỏa thuận nhất định cho khoảng thời gian sau này dựa trên nguyên tắc hai vợ chồng cùng có sự hy sinh cái tôi của mình để cải thiện cuộc sống hôn nhân có thể như sau: Về phía chị Lan, cũng phải hiểu và thông cảm cho chồng mình. Thường xuyên chia sẻ công việc của chồng, lắng nghe những suy nghĩ của anh để điều chỉnh thời gian làm việc của mình để tạo niềm tin nơi anh. Chánh những tình huống dễ gây hiểu lầm cho anh Sơn trong công việc. Về phía anh Sơn, phải chấm dứt ngay tình trạng chửi mắng vợ mình. Anh phải tin tưởng vợ, không mượn cớ say rượu để đánh chị Lan như trước nữa. 12 Trong cuộc họp này cả gia đình đều thống nhất một số quy định cụ thể nếu anh Sơn hoặc chị Lan vi phạm sẽ như thế nào và yêu cầu cả hai anh chị phải chấp nhận thực hiện quy định này nếu vi phạm. Ưu điểm và hạn chế như sau: Ưu điểm: vợ chồng chị Lan có thêm cơ hội để hiểu nhau và thêm một lần lắng nghe ý kiến của nhau và cũng cho nhau thêm cơ hội để lắng nghe quan điểm của mình về vấn đề đang xảy ra với anh chị. Tận dụng được nguồn lực là lời khuyên của các thành viên trong gia đình giúp anh chị hiểu nhau và nhận thức hành vi của mình sâu sắc hơn. Vấn đề gia đình anh chị được giải quyết êm thấm không cần đến yếu tố pháp luật. Hạn chế: Mất thời gian và phải lựa chọn thời điểm thích hợp thì mới áp dụng được. Có thể mức độ răn đe không đủ mạnh để khiến anh Sơn thay đổi hành vi của mình. *Phương án 3: kết hợp tác động của gia đình và sự tham gia của các Đoàn thể, trợ giúp từ phía trung tâm công tác Xã hội Hà Nội. Sử dụng phương án này tức là vẫn tổ chức họp gia đình như phương án 2 nhưng kết hợp với đó là những cuộc thăm hỏi, nói chuyện động viên của các cán bộ các đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương như đại diện Hội Phụ nữ xã phường, đại diện Trung tâm công tác Xã hội, Công an phường…. Các cán bộ với tư cách là thành viên đến tư vấn cho anh Sơn về những hành vi của mình. Đồng thời cũng gợi mở cho anh tiếp cận với Luật phòng, chống bạo lực gia đình để cho anh nhận thấy những hành vi anh ứng xử với vợ là sai trái và cần điều chỉnh. Nếu anh Sơn không có thái độ hợp tác và không thay đổi hành vi của mình cần đưa ra những ví dụ điển hình hoặc có thể cho anh Sơniết chị Lan có đơn kiện anh là pháp luật có thể can thiệp ngay trong trường hợp này. Sau khi anh Sơn đã nhận thức được hành vi của mình nên khuyến khích anh tham gia các phong trào tập thể ở phường, quận, các chương trình, chính sách về lao động việc làm để thay đổi hành vi rượu chè cờ bạc, lô đề, tham gia vào các hoạt động lành mạnh, tập trung vào làm ăn và quan tâm chăm sóc gia đình. 13 Nếu kết quả tình cảm vợ chồng anh Sơn được cải thiện có thể nhờ anh chị là nhân vật điển hình chia sẻ trong các buổi truyền thông, tư vấn về bạo lực gia đình ở địa bàn để mọi người hiểu thêm và có thêm kiến thức kỹ năng thực tế trong việc nhận thức và phòng, chống bạo hành gia đình. Đây sẽ là biện pháp rất hiệu quả trong công tác phòng ngừa mà các đoàn thể nên áp dụng. Ưu điểm và hạn chế của phương án: Ưu điểm: Phạm vi giải quyết trên phương diện tình cảm, vừa có tính răn đe lại vừa mềm dẻo tạo cơ hội cho anh Sơn sửa chữa những hành vi lệch chuẩn của mình và hiểu được nguyên nhân của vấn đề giữa hai vợ chồng anh chị. Giúp anh Sơn tiếp cận được với luật phòng, chống bạo hành gia đình và nhân cơ hội này các đoàn thể phát huy được vai trò của mình trong công tác hòa giải, can thiệp kịp thời khi có bạo hành gia đình xảy ra. Hạn chế: Yêu cầu sự khéo léo trong công tác ứng xử của cán bộ đến thăm hỏi, giúp đỡ nhà anh Sơn để không bị mất lòng và giúp anh nhận thức đúng vấn đề. Đồng thời, mất nhiều thời gian. Tóm lại, xét mức độ ưu tiên của ba phương án đề xuất em nhận thấy phương án thứ 3, tức là phương án kết hợp họp gia đình và sự tham gia góp ý kiến của các đoàn thể ở chính quyền địa phương là tối ưu nhất trong việc giải quyết bạo hành ở gia đình nhà chị Lan. Phương án này vừa hợp tình, vừa hợp lý lại có tính răn đe và sức lan tỏa cao. Vừa giúp gia đình chị Lan giải quyết được vấn đề lại vừa có sức lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng đến nhận thức của người dân địa phương, giúp họ nhận thức đúng hơn về bạo hành gia đình để người dân có những kiến thức và kỹ năng riêng, những kinh nghiệm nhất định để giải quyết vấn đề gia đình của mình ở mức độ nào đó. Do vậy em sẽ chọn phương án này để xây dựng kế hoạch can thiệp cho tình huống “Vụ việc bạo lực trong gia đình chị Trần Thị Lan”. 2.5 Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn Kế hoạch thực hiện phương án tối ưu “Xử lý tình huống bạo lực trong gia đình chị Trần Thị Lan” – kết hợp giữa gia đình hai bên và các đoàn thể, Trung tâm Công tác xã hội Hà Nội. 14 Stt 1 Nội dung công việc Thời gian thực hiện Chủ thể thực hiện Điều kiện thực hiện Gặp chị Lan nói chuyện để Cán bộ TT Cán bộ TT sắp xếp nắm bắt lại vấn đề của gia 27/10/2015 Công tác xã địa điểm phòng tư đình chị. Giúp chị hiểu ra vấn hội, đề mình đang bị bạo hành và diện chính chị Lan. hợp tác với các cán bộ cùng quyền giải quyết vấn đề trong gia phương. đại vấn đề gặp riêng địa đình chị. Cùng chị Lan tìm hiểu những 2 Cán bộ TT văn bản hướng dẫn hoặc các 28/10/2015 Công tác xã bản quy phạp pháp văn bản quy phạm pháp luật đến ngày hội. luật, văn bản liên quan, giúp chị hiểu rõ tình 31/10/2015 hướng dẫn của trãng của mình có thể đưa ra pháp luật về vấn đề pháp luật nếu cần thiết. bạo lực gia đình. Lên được kế hoạch chi tiết các 3 Tập hợp các văn Cán bộ TT Mời chị Lan đến bước thực hiện và nội dung 01/11/2015 Công tác xã Trung tâm để thảo cần đưa ra thuyết phục anh đến hội, Đại luận riêng trước Sơn. Lên danh sách các đơn vị 03/11/2015 diện Hội khi thực hiện cuộc cá nhân và thành viên tham dự Phụ nữ (xã) họp. Liên hệ các cuộc họp. Liên hệ mời các phường. thành viên trogn gia đình tham thành viên sẽ tham dự cuộc họp mặt. gia họp mặt, Chuẩn bị họp chính thức: gặp mặt và trình bày vấn đề và kế 4 Cán bộ TT 04/11/2015 Tổ chức, chọn địa công tác xã điểm cụ thể, bên hoạch thực hiện với gia đình hội, thành cạnh đó 1 cán bộ hai bên trước khi vào họp viên trong gặp riêng anh Sơn chính. Nói chuyện với anh gia đình. để thuyết phục mời 15 Sơn để anh chuẩn bị tâm lý và Đại diện anh tham dự họp. tham gia cuộc họp. Sau khi chính Liên hệ và nhờ sự thỏa luận trước với gia đình quyền địa can thiệp giúp đỡ xong thì mời anh Sơn vào phương. của các cơ quan cuộc họp chính thức. đơn vị liên quan. Tiến hành cuộc họp: Anh Sơn được nghe tất cả đại diện các 5 Cán bộ TT 04/11/2015 Tổng hợp các văn Công tác xã bản quy phạm bên tham gia góp ý kiến cho hội và Các pháp luật, các văn hành vi hiện tại của anh, giúp thành viên bản có hiệu lực anh tiếp cận với các văn bản có liên liên quan, cán bộ quy phạm pháp luật để anh quan nói trực tiếp tổ chức hiểu những hành vi của mình trên. xử lý là người có là sai, vi phạm pháp luật. Nếu kinh nghiệm, có tiếp tục sẽ bị xử lý theo pháp đại diện lãnh đạo luật. Tư vấn sao để anh Sơn cơ quan và đại diện tham gia các hoạt động cộng cơ quan chính đồng thay cho hành vi cờ bạc quyền địa phương. rượu chè Kêt thúc buổi họp và đánh giá Các thành Lập biên bản cuộc viên tham họp, có xác nhận đích đạt được: anh Sơn nhất trí gia cuộc của Trung tâm, xác với thỏa thuận đưa ra, dừng họp mặt. nhận của cơ quan kết quả của cuộc họp. Mục 6 04/11/2015 các hành vi bạo hành, tham địa phương có gai các hoạt động hỗ trợ việc thẩm quyền. làm và hoạt động cồng đồng khác tại địa phương, sửa thói quen cũ, cùng chia sẻ khó khăn với chị Lan. 16 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ *Kiến nghị: - Đối với Đảng và Nhà nước: Cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật, chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình; xử lý kịp thời các hành vi bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật; tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành, kiểm tra theo chuyên đề về phòng, chống bạo lực gia đình. Đưa mục tiêu về phòng, chống bạo lực gia đình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm ở cấp Trung ương và địa phương; xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành phù hợp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Nghiên cứu việc hình thành mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên phòng, chống bạo lực gia đình ở cơ sở. Đánh giá các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình; nghiên cứu chuyển các mô hình hoạt động có hiệu quả thành nhiệm vụ thường xuyên. Biểu dương, khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Xây dựng và đưa vào sử dụng cơ sở dữ liệu về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình. - Đối với các cơ quan chức năng: Phối hợp với các cấp, các ngành, đoàn thể tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân, phụ nữ về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình. Các cấp, các ngành tăng cường hoạt động tuyên truyền về giới và bình đẳng giới, kiến thức phòng chống bạo lực gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân gia đình và các chuyên đề liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình với nhiều nội dung và hình thức phong phú: Tập huấn chuyên đề, hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt nhóm, sinh hoạt câu lạc bộ, giao lưu văn nghệ, mít tinh và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tích cực tổ chức tập huấn kiến thức, kỹ năng về phòng chống bạo lực gia đình cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của các Ban, ngành, đoàn thể các cấp, đặc biệt là báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội phụ nữ. 17 Lồng ghép tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình vào các hoạt động của các Ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, tuyên truyền tại các cuộc họp tổ dân phố, họp thôn, xóm, các đoàn thể. Tăng cường các biện pháp giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại các địa phương. Nắm bắt kịp thời các vụ bạo lực gia đình xảy ra tại địa phương để can thiệp kịp thời, có thể thiết lập "đường dây nóng" để nhận tin báo về các vụ bạo lực gia đình. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hòa giải của các tổ hòa giải, các tuyên truyền viên, cộng tác viên. Tăng cường tổ chức hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý ở cơ sở. Xây dựng các địa chỉ tin cậy, tuyên truyền để người dân biết dến các dịch vụ của Trung tâm Công tác xã hội giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình. Cung cấp các địa chỉ tin cậy ở cộng đồng là cá nhân, tổ chức có uy tín, có khả năng và tự nguyện giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình tại cộng đồng dân cư. Các trung tâm cứu giúp phụ nữ bị bạo lực tại địa phương nằm trong trạm y tế xã, phường, thị trấn hoặc các bệnh viện của địa phương. Giao trách nhiệm cho các cán bộ y tế có trách nhiệm chữa trị vết thương cho nạn nhân, các cán bộ y tế không được có thái độ kỳ thị, gây khó khăn đối với nạn nhân bị bạo lực gia đình. Áp dụng các biện pháp giáo dục tại cộng đồng dân cư. tổ chức họp, phê bình, góp ý đối tượng gây bạo lực gia đình. Đối tượng bị góp ý, phê bình là người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải nhiều lần mà vẫn tiếp tục có hành vi bạo lực. Xử lý nghiêm người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo luật định. 18 *Kết luận: Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó làm hạn chế sự tham gia của họ vào đời sống cộng đồng, không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho bản thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã hội và vi phạm nghiêm trọng các quyền con người. Nhiều thập kỷ qua, cùng với các chủ trương phát triển kinh tế, chính trị, an sinh xã hội Nhà nước và nhiều cấp ở địa phương chú trọng; vấn đề phụ nữ, giới và bình đẳng giới. Nhiều phụ nữ nay được tín nhiệm, đề cử vào nhiều vị trí quan trọng trong chính quyền và xã hội. Theo Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội, nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình là do tư tưởng bất bình đẳng giới, lối xử sự gia trưởng từng tồn tại dai dẳng ở nước ta. Từ lâu nay, chế độ phụ hệ, tư tưởng trọng nam, khinh nữ kéo theo sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Trước đây, người phụ nữ bị hành hạ do sống phụ thuộc chủ yếu vào chồng. Khi nền kinh tế thị trường, vai trò của phụ nữ có nhiều thay đổi và thành đạt hơn chồng thế nhưng họ vẫn bị chồng ngược đãi. Mặc dù ở nước ta Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực từ tháng 7-2008 nhưng hiện tượng bạo lực vẫn chưa thuyên giảm. Làm thế nào để đưa luật vào cuộc sống, ngăn chặn được tình trạng bạo lực gia đình. Ðiều đáng quan tâm nữa là một số nạn nhân của bạo lực gia đình có tâm lý cam chịu, không muốn tố cáo, sợ vạch áo cho người xem lưng. Nhiều vụ bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng nhưng hình phạt dường như còn quá nhẹ. Vì vậy tính phòng ngừa răn đe hạn chế. Phòng, chống bạo lực gia đình phải được kết hợp đồng bộ với nhiều giải pháp, song lấy phòng ngừa là chính; cần chú trọng trước hết là công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình và làm tốt công tác tư vấn hòa giải và đi đôi với phòng, chống tệ nạn xã hội. Làm tốt công tác tuyên truyền sẽ giúp thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình, từ đó dần xóa bỏ bạo lực gia đình, đề cao truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật số 02/2007 QH12 về Phòng, chống bạo lực gia đình. 2. Quyết định số 215/QĐ-TTg, ngày 06/02/2014 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020. 3. Nghị định Chính Phủ sô 08/2009/NĐ – CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật phòng, chống bạo lực gia đình. 4. Quyết định số 2879/QĐ-BVHTTDL ngày 27/6/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc triển khai mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình trên toàn quốc. 5. Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL ngày 16/3/2010 của Bộ văn hóa, thể thao và Du lịch quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động; giải thể cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; tiêu chuẩn của nhân viên tư vấn; cấp thẻ nhân viên tư vấn; chứng nhận nghiệp vụ chăm sóc, tư vấn và tập huấn phòng, chống bạo lực gia đình. 6. Bạo lực gia đình, một sự sai lệch giá trị, (Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh, 2007) 7. Gia đình học, (Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan