Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tại sao hcm chủ trương cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong ...

Tài liệu Tiểu luận tại sao hcm chủ trương cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên cnxh

.DOC
22
106
65

Mô tả:

Bài tập lớn cá nhân Đề tài: Tại sao Hồ Chí Minh trủ trương cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Bài làm 1.Lý luận của luận điểm 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin: Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất 1.1.1 Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? - Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kì nhất định để sản xuất của cải nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người trong mọi xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động có thói quen và kĩ năng lao động, có kinh nghiêm, tri thức và trình độ chuyên môn- kĩ thuật Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động + Đối tượng lao động là những gì mà con người tác động đến khi sản xuất và để tạo ra của cải vật chất( đất đai, sông rừng, nguyên liệu, khoáng sản…) + Tư liệu lao động hay công cụ lao động là tổng hợp những vật thể mà con người cho thích ứng và dùng làm vật dẫn tác động đến đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm(dụng cụ, máy móc, hệ thống chứa đựng chuyên chở…) -Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất( sản xuất và tái sản xuất xã hội) Nếu như trong khái niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất là mặt xã hội của sản xuất 1 Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu( quan hệ giữa người với người trong chiếm hữu tư liệu sản xuất), quan hệ tổ chức quản lí( quan hệ giữa người với người trong tổ chức quản lí xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau) và quan hệ phân phối lưu thông( quan hệ giữa người và người trong phân phối, lưu thông sản phẩm xã hội). Trong ba mặt trên thì quan hệ sở hữu là quan trọng nhất, nó có vai trò quyết định và chi phối quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ phân phối 1.1.2 Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo ra phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất được hiểu là cách thức sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của con người trong từng xã hội cụ thể Theo Marx, xã hội loài người trong các giai đoạn lịch sử và ở các khu vực khác nhau có thể trải qua 5 phương thức sản xuất khác nhau. Cụ thể là: - Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy Phương thức sản xuất phong kiến Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa 1.1.3 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển 2 1.1.4 Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. 1.1.5 Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện là biện chứng của “phù hợp” (quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất) và “không phù hợp” (do mâu thuẫn giữa tính năng động, cách mạng của lực lượng sản xuất với tính ổn định tương đối của quan hệ sản xuất). Đó là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn trong đó bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Bởi vì, “phù hợp” hay “không phù hợp” thì quan hệ sản xuất vẫn quy định khuynh hướng phát triển của các quan hệ lợi ích và từ đó quy định hệ thống các yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, tác động thúc đẩy hay kìm hãm chỉ có tính chất tương đối, bởi xét cho cùng, quy luật tất yếu sẽ vạch đường đi cho mình. ở đây, Mác đã vạch ra tính đúng đắn, khoa học của quan điểm duy vật về lịch sử thể hiện ở chỗ coi nhân tố chủ quan của con người có vai trò động lực trong việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn thúc đẩy tiến trình phát triển lịch sử xã hội. 1.2 Quan điểm của Đảng 3 Đảng ta kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mac- Lênin nhận thức đúng đắn về trình độ của lực lượng sản xuất, tìm ra điểm kết nối hợp lý giữa trình độ và xu hướng phát triển, là cơ sở để định hướng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có một đặc điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại phù hợp với xu hướng phát triển ngày càng vũ bão khoa học công nghệ của các nước trên thế giới. nên trong thời gian này nước ta tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu theo sau nó Đảng ta chủ trương kết hợp nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm bảo các yêu cầu sau đây : Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”. Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó. Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 2. Kinh nghiệm thực tiễn các nước 4 2.1 Trung Quốc Lấy ví dụ về cộng hòa nhân dân trung hoa trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội vì: - Việt nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng trong quá trình phát triển - Cộng hòa nhân dân trung hoa định hướng theo nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc đạt được thành công đáng kể. 2.1.1Trung Quốc tiến hành cải cách Kể từ năm 1978, tạihội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng cộng sản Trung Quốc (12/1978) chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã quyết định cải cách nền kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo mô hình Liên Xô sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường trong khi vẫn duy trì thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Chế độ này được gọi bằng tên "Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc", là một loại kinh tế hỗn hợp. Để thực hiện công cuộc cải cách này, Trung Quốc đã thực hiện cải cách một cách toàn diện nông nghiệp, công nghiệp,… Trong nông nghiệp, bằng việc chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã sang chế độ khoán đến từng hộ gia đình. Trong công nghiệp, trước cải cách, hoạt động kinh doanh của các xí nghiệp không được quyết định bởi lợi ích của bản thân xí nghiệp hay nhu cầu thị trường. Tất cả được quyết định bởi những người đứng đầu nhà nước với con dấu nắm chặt trong tay. Đặng Tiểu Bình chỉ đạo cuộc cải cách chỉ bằng những lý luận hết sức đơn giản: dỡ miếu tông thần, không cần nhiều lãnh đạo, nhiều con dấu, nhiều chỉ thị mà quan trọng nhất là quyền tự chủ. Quá trình cải cách nền kinh tế đã hình thành nên các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Trung Quốc: Thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,… Nói đến cải cách của Trung Quốc chúng ta không thể không nói tới sáu đột phá lớn về lý luận trong việc xây dựng CNXH 5 Lý luận về kinh tế thị trường XHCN Lý luận về giai đoạn đầu của CNXH và lý luận mang đặc sắc Trung Quốc Lý luận về chế độ sở hữu và hình thức thực hiện của chế độ sở hữu. Lý luận về chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần Lý luận về phân phối theo lao động và phân phối theo các yếu tố sản xuất Lý luận về công nhân viên chức nghỉ việc (hạ cương) và tái việc làm 2.1.2 Thành công đạt được từ khi tiến hành cải cách Năm 1979: Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba đặc khu kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu kinh tế Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm 1978-2007, FDI tích lũy vượt 760 tỉ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới. Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến hộ nông dân. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn 1953 - 1980. Năm 1986, Trung Quốc khởi động cải cách doanh nghiệp nhà nước.Năm 1993, Trung Quốc hiện đại hóa khu vực kinh tế nhà nước gồm tổ chức các tập đoàn lớn, đổi mới kỹ thuật, áp dụng phương pháp quản lý khoa học.Các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ có quyền lựa chọn hình thức tổ chức và hoạt động như cổ phần hóa, cho thuê, chuyển thành sở hữu tập thể hoặc bán cho tư nhân.Đến cuối năm 2007, 1.550 doanh nghiệp lên sàn chứng khoán. Năm 1992, Trung Quốc xác lập mục tiêu “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”.Mở đầu thị trường hóa trong lĩnh vực y tế và nhà ở thị trường hóa từ năm 1992 – 1994. Kết quả điển hình của thị trường hóa là doanh thu trong lĩnh vực kinh doanh ăn uống tăng gấp 225 lần; bình quân năm tăng 20,53%. 6 Năm 1994: Trung Quốc thông qua Luật ngoại thương, bãi bỏ việc lập kế hoạch theo chỉ thị hoạt động xuất nhập khẩu; trao cho doanh nghiệp quyền hoạt động kinh tế đối ngoại, bãi bỏ việc cấp quota đối với một loạt hàng hóa. Nhà đầu tư nước ngoài được hưởng ưu tiên và ưu đãi về thuế. Các khu vực kinh tế tự do như khu Phố Đông ở thành phố Thượng Hải, Thâm Quyến… trở thành trung tâm thu hút tư bản nước ngoài và là “trung tâm phát triển”. Từ năm 1978 – 2007, kim ngạch ngoại thương tăng từ 20,64 tỉ USD lên 2.170 tỉ USD, hơn 100 lần! Năm 1993, Trung Quốc tiến hành cải cách chính sách thuế theo hướng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và áp dụng chính sách giá theo giá thị trường. Năm 1996, Trung Quốc áp dụng tỷ giá ngoại tệ thống nhất dựa theo tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Năm 1999, kinh tế ngoài quốc doanh được xác định là một bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Năm 2001, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên WTO. Đến năm 2002, các ngân hàng nước ngoài đã mở 175 công ty với tổng số vốn 31,7 tỉ USD; chín công ty bảo hiểm nước ngoài thuộc tám nước đã mở 12 công ty tại Trung Quốc. Các tổ chức tài chính thu hút vốn FDI tập trung tại các thành phố và đặc khu như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải, Thiên Tân… Năm 2004, Trung Quốc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh; đưa điều khoản bảo hộ tài sản tư hữu vào Hiến pháp. Căn cứ theo số liệu của tạp chí Forbes, Trung Quốc có 10 tỉ phú USD năm 2005 trong số 691 tỉ phú USD của thế giới. Năm 2005, Trung Quốc bãi bỏ thuế nông nghiệp; đưa ra nhiệm vụ lịch sử xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.Nông dân chiếm hơn 70% dân số Trung Quốc thoát nghèo, một số người và khu vực dần giàu lên. Từ năm 1978 – 2007, người nghèo ở nông thôn từ 250 triệu người giảm còn 14,79 triệu người. Năm 2007: Luật về quyền tài sản tư ra đời. Theo Nhân dân nhật báo, tiền dự trữ trong dân tăng gấp 700 lần trong 30 năm. Theo con số thống kê của tạp chí Forbes tháng 3.2008, số lượng tỉ phú USD của Trung Quốc là 42 người; cộng thêm 26 tỉ phú của đặc khu Hongkong, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở thành nước có nhiều tỉ phú nhất châu Á. Ngoài ra, Trung Quốc còn là một trong những nước có nhiều triệu phú nhất thế giới. Trong 30 năm những thành tựu mà nhân dân các dân tộc Trung Quốc giành được là rất đáng khâm phục: kinh tế tăng trưởng tăng liên tục, giai đoạn 1978 – 2007, GDP bình quân tăng hơn 9%, thực lực kinh tế từ vị trí thứ 10 tăng lên thứ 4, ngoại 7 thương từ thứ 32 vươn lên thứ 3, thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 2 và dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới. Đời sống nhân dân đã từ chỗ chưa giải quyết được vấn đề no ấm, nay về tổng thể đã bước vào giai đoạn khá giả, thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng nhanh. Vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng được nâng cao. Những điều đó chứng tỏ rằng con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc lựa chọn là đúng đắn, không những phù hợp với thực tiễn, giúp cho Trung Quốc phát triển, mà còn đóng góp nhất định cho sự tăng trưởng của kinh tế thế giới đồng thời cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo rất tốt cho các nước đang phát triển khác, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. 2.2 Kinh nghiệm đối với Việt Nam Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cũng đã giành được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Chính phủ Việt Nam rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, nhất là của Trung Quốc Từ những kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc, Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm quý báu: - Trong quá trình cải cách luôn luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, lấy Đảng là nòng cốt trong quá trình định hướng các bước đi thích hợp phù hợp với tình hình thực tế - Trong quá trình phát triển kinh tế phải dựa vào điều kiện khách quan, thực trạng của đất nước để có bước đi thích hợp, không nóng vội chủ quan, mà phải tuần tự từ thấp đến cao. Xuất phát từ tình hình nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu thì trước hết phải tạo điều kiện phát triển nông nghiệp, từ đó làm tiền đề phát triển công nghiệp rồi đến các ngành dịch vụ, công nghiệp nhẹ và cao hơn nữa là công nghiệp nặng 8 - Phải biết vận dụng sức mạnh toàn dân, kết hợp nhịp nhàng các thành phần kinh tế để đạt mục tiêu phát triển kinh tế chung, cùng hỗ trợ nhau phát triển đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp - Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới kiên trì lập trường mở cửa ra thế giới, coi toàn cầu hoá là cơ hội ngàn năm có một mà Việt Nam phải nắm lấy để tiến lên - Học hỏi Trung Quốc xây dựng 5 đặc khu kinh tế, tạo đột phá mạnh, tạo đà lan toả phát triển nhanh và rộng - Phát triển xí nghiệp hương trấn; cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước “nắm lớn, buông nhỏ”; “dò đá qua sông” kết hợp “đại luận chiến” - Kết hợp cải cách kinh tế với cải cách chính trị - Huy động sức mạnh Việt kiều ở nước ngoài 3. Thực tiễn ở Việt Nam ( giai đoạn của Hồ chí minh) Trong suốt hơn 80 năm thực dân Pháp xâm lược và thống trị Việt nam, cùng với quá trình đầu tư khai thác kinh tế và thực thi hàng loật các chính sách về chính trị, xã hội , văn hoá, giáo dục, thực dân Pháp đã du nhập vào nước ta một phương thức sản xuất mới có tính chất tư bản chủ nghĩa. Dưới tác động của phương thức sản xuất TBCN do tư bản Pháp du nhập vào, nền kinh tế Việt Nam dần chuyển biến từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp sang một nền kinh tế thuộc địa- TBCN. Việc sử dụng phương thức kinh tế theo lối TBCN đã tạo ra bước phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế bắt đầu hình thành và phát triển ở một số khu vực sản xuất. Các sản phẩm làm ra không không phải chỉ đảm bảo các nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dùng để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhờ có các hoạt động kinh tế với nước ngoài mà lần đầu tiên nền kinh tế Việt Nam đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia để tiếp cận và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Như vậy có thể nói là so với giai đoạn trước , nền kinh tế Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1945 đã phát triển nhanh chóng và có những chuyển biến căn bản . 9 Quan hệ TBCN đã được mở rộng và giữ vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế. Có thể nói cho đến trước năm 1945, cơ cấu nền kinh tế thuộc địa- tư bản chủ nghĩa đã thực sự được xác lập ở nước ta. Mặc dù vậy, sự xác lập các ngành kinh tế mới và đi liền với nó là sự ra đời và phát triển của các lực lượng xã hội mới đã tạo những tiền đề vật chất cần thiết cho sự tiếp thu các quan điểm và tư tưởng mới, làm cơ sở và động lực thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân tộc, đưa xã hội Việt nam chuyển nhanh vào quỹ đạo vận hành của toàn nhân loại. 4. Chứng minh tính đúng đắn của luận điểm 4.1 Tính đúng đắn về mặt lý luận Bắt đầu từ đại hội VI( 1986) Đảng ta chủ trương chuyển đổi kinh tế bao cấp một thành phần sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bao gồm các thành phần kinh tế:Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam. Đến đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản là: 10 - Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện -Phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh nay. -Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. . -Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân... Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra. Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.. 11 Đại hội lần thứ X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4 tiêu chí cơ bản sau: Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người Thứ tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với XHCN thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội =>Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì: Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 12 lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta” Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể. Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ” 4.1.1Về mặt khách quan Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường rút ngắn”. Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình. 4.1.2Về mặt chủ quan Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí 13 địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4.1.3 Yêu cầu quan hệ sản xuất mới của Việt Nam Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”. Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó. Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 4.2 Thành tựu đạt được 4.2.1 Về mặt kinh tế 14 Trong gần 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khá ấn tượng. Một là, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 7%/năm trong nhiều năm, đặc biệt là giai đoạn 1991-1995 (đạt trên 8,2%/năm). Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch rõ nét về cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Ngành nông nghiệp Việt Nam từ chỗ không cung cấp đủ lương thực cho cả nước đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Công nghiệp đã có bước cải tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hóa, hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao: tạo cơ sở ban đầu cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao, gắn sản xuất với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá. Sự tham gia của các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp đã làm cho sản xuất mang tính đa dạng cả về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, chủng loại và chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cư có mức độ thu nhập khác nhau. Các ngành dịch vụ đã có những bước chuyển dịch tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân khoảng 7%/năm. Ngành thương mại hoạt động sôi nổi, đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư trong cả nước và trong từng vùng. Ngành du lịch có bước tăng trưởng khá nhanh và toàn diện với nhiều chiến dịch du lịch lớn thu hút đông đảo lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Tính riêng trong năm 2004 có khoảng 3,2 triệu lượt người đến Việt Nam. 15 Tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế qua các thời kỳ Đơn vị Giai đoạn Giai đoạn Ước thực tính 1991-1995 1996hiện giai 2000 đoạn 20012005 Tốc độ tăng GDP % 8,2 7,0 7,4 Tốc độ tăng giá trị sản % xuất nông- lâm- ngư nghiệp 5,9 5,8 5,1 Tốc độ tăng giá trị sản % xuất công nghiệp 13,7 13,5 15,4 Tốc độ tăng giá trị sản % xuất dịch vụ 10,1 6,8 7,5 GDP bình quân đầu người 220 462 600 USD www.mpi.gov.vn Hai là, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong gần 20 năm qua, tỷ trọng của các ngành kinh tế trong GDP đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ trọng nông- lâm - ngư nghiệp trong GDP liên tục giảm, từ 27,2% năm 1995 xuống 24,5% năm 2000 và còn 20,4% năm 2004 và ước khoảng 19% năm 2005 so với mục tiêu là 20-21%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng liên tục tăng từ 28,8% năm 1995 lên 36,6% năm 2000 và ước đạt 42% năm 2005. Tỷ trọng các ngành dịch vụ là khoảng 39%. Ba là, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng. 16 Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng được cải thiện theo hướng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tổng quỹ tiêu dùng giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng khá, bình quân khoảng 6,2%, tiêu dùng theo đầu người tăng bình quân gần 6%/năm. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong gần 20 năm qua đã có những thay đổi tích cực theo hướng xoá bỏ dần cơ chế bao cấp trong đầu tư; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách và vốn có nguồn gốc từ ngân sách đã giảm đáng kể: vốn đầu tư từ ngân sách giảm từ 22,6% năm 1995 xuống còn 22,3% năm 2004, vốn đầu tư của tư nhân và dân cư tăng từ 22% năm 1995 đã tăng lên 26% năm 2004. Bốn là, kinh tế đối ngoại có bước phát triển mạnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 đạt trên 105 tỷ USD, gấp gần 2 lần so với giai đoạn 1996-2000 và gấp gần 6 lần giai đoạn 1991-1995. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 ước đạt 342 USD tăng gần gấp 2 lần so với năm 2000 (đạt 186 USD/người). Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 ước đạt 119,8 tỷ USD, tăng gấp 1,96 lần so với giai đoạn 1996-2000 (61 tỷ USD), tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 14%. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cam kết liên tục tăng qua các năm. Việc quản lý và giải ngân nguồn vốn này ngày càng được cải thiện. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam vào khoảng 13,64 tỷ USD tăng gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 1996-2000, trong đó tập trung chủ yếu vào việc hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục và đào tạo, tăng cường năng lực và thể chế trong các lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quản lý kinh tế.... Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong một hai giai đoạn tuy có gặp một số khó khăn do các điều kiện khách quan cũng như chủ quan nhưng do môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện nên vẫn duy trì được khả năng thu hút vốn. Giai đoạn 2001-2005, vốn FDI cấp mới và bổ sung đạt 15-16 tỷ USD, tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 1996-2000. Cơ cấu vốn FDI ngày càng được thay đổi phù hợp với yêu cầu phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. 17 Năm là, trong 20 năm qua, nền kinh tế đã vượt qua 3 cuộc khủng hoảng lớn, có tính chất quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. 4.2.2. Về mặt xã hội Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, sau 20 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển xã hội, góp phần vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đạt được nhiều thành tựu tích cực. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,7% năm 1995 xuống 1,4% năm 2000 và kế hoạch 2001-2005 giảm xuống 1,2%. Năm 1998, Việt Nam đã được Liên Hiệp Quốc tặng giải thưởng cho các tiến bộ trong công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Công tác giải quyết việc làm và tạo thêm việc làm mới được thực hiện hiệu quả với sự tham gia của các ngành, các cấp, các địa phương, các đoàn thể quần chúng và các thành phần kinh tế. Trong giai đoạn 1991-1995, giải quyết việc làm và tạo thêm việc làm mới cho hơn 5 triệu lao động, giai đoạn 1996-2000 là 6,1 triệu lao động, giai đoạn 2001-2005 ước tính là 7,5 triệu lao động. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô giáo dục - đào tạo tăng ở tất cả các bậc học. Đến năm 2000 có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Đến năm 2005, ước tính có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học đạt 80%. Các mặt văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ: Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Đến năm 2004, tỷ lệ số hộ nghèo cả nước giảm còn khoảng 8,31% và dự kiến đến năm 2005 sẽ còn khoảng 7%. Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được cải thiện. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp; đến nay gần 99% số xã phường trong cả nước đã xây dựng được trạm y tế; có 30% số xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; sản xuất thuốc trong nước đáp ứng trên 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh, các trạm y tế có quỹ thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. 18 Chương trình y tế quốc gia đạt hiệu quả cao, thường xuyên có trên 90% số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm dầy đủ 6 loại vắc xin; tỷ lệ mắc bệnh và chết do 6 bệnh có vắc-xin phòng ngừa ở trẻ em giảm rõ rệt. Trong năm 2005 đã triển khai việc cấp phát thẻ Y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Các hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình đã hướng về vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn. Tính đến năm 2004, tỷ lệ hộ được nghe đài Tiếng nói Việt Nam là 99%, tỷ lệ hộ xem truyền hình Việt Nam là 86%. ….. 4.2.3 Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Sau giai đoạn cải cách vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao GDP( PPP): 240.364 tý USD( 2008) GDP bình quân đầu người( PPP): 2783USD( 2008) GDP danh nghĩa( 2008): 89.8 tỷ USD GDP bình quân đầu người( 2008): 1.040 USD GINI 37( hạng 59) HDI 0.718( hạng 114) Hiện Việt Nam đang quan hệ ngoại giao với 177 nước và 224 tổ chức kinh tế thương mại: ASEAN, WTO, AFTA… 4.2.4 Đóng góp GDP của từng thành phần kinh tế( năm 2002) Thành phần kinh tế nhà nước: 31.6% Thành phần kinh tế tập thể: 13.7% Thành phần kinh tế tư nhân : 38.4% Thành phần kinh tế tư bản nhà nước: 8.0% 19 Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 8.3% Từ nay đến 2010, số lượng hợp tác xã sẽ tăng bình quân 7,2% mỗi năm, số lượng xã viên tăng khoảng 7,3%. Tỷ trọng tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tập thể (bao gồm cả kinh tế của các thành viên) chiếm bình quân khoảng 13,8% GDP cả nước. Một mục tiêu phấn đấu khác là thu nhập bình quân của lao động trong kinh tế tập thể, của xã viên hợp tác xã trong 5 năm tới sẽ tăng gấp đôi so với năm 2005. Số doanh nghiệp tư nhân tham gia hàng năm http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/Kinh-Te/Coi-Trong-Phat-Trien-Kinh-Te-TuNhan.html Chủ trương nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn   ð 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan