Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp sử dụng thiết bị dạy và học vào việc đổi mới phương pháp...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp sử dụng thiết bị dạy và học vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trư

.PDF
68
1195
125

Mô tả:

UBND TỈNH TUYÊN QUANG SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ UBND TỈNH PHÚ THỌ TRƯỜNG ĐH HÙNG VƯƠNG ĐỀ TÀI: Thực trạng và giải pháp sử dụng thiết bị dạy và học vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ: TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG CHUYÊN ĐỀ 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng thiết bị dạy và học vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở cấp trung học phổ thông tại tỉnh Tuyên Quang. TUYÊN QUANG 12/2010 MỤC LỤC MỤC LỤC.............................................................................................................2 Tài liệu tham khảo...............................................................................................3 7.3. Những điều cần chú ý khi sử dụng phối hợp phương tiện trực quan........66 2 Tài liệu tham khảo 1. Trần Quốc Đắc. Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học ở trường phổ thông. Viện KHGD, 1999 2. Nguyễn Hữu Chí, "Định hướng và các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT", Kỷ yếu Hội thảo "Định hướng và các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông"ngày 5/4/2004 3. Nguyễn Thị Minh Phương, "Đổi mới mục tiêu - kế hoạch dạy học và đổi mới chương trình, sách giáo khoa trung học phổ thông", Kỷ yếu Hội thảo "Định hướng và các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông" ngày 5/ 4 /2004 4. Trần Kiều. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. Viện khoa học giáo dục, 1998 5. Vũ Văn Tảo, Trần Văn Hà. Dạy- học giải quyết vấn đề – Một hướng đổi mới trong công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện. Trường CBQLTW, HN 1996. 6. Nguyễn Bá Kim-Vương Dương Minh - Nguyễn sỹ Đức. “Tính giải quyết vấn đề trong toàn bộ quá trình dạy- học”. Thông tin KHGD số 66/98 7. Nguyễn Kỳ. Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm. NXB Giáo dục, Hà nội, 1995 8. Nguyễn Cảnh Toàn. Quá trình dạy- tự học. NXB GD, HN 1998 9. Trần Trọng Thuỷ. Khoa học chẩn đoán tâm lý. NXB GD, HN 1992 10. Vũ Văn Tảo. “Bốn trụ cột của giáo dục” – Tạp chí NCGD số 5/1997 11. Carl Rogers (Cao đồng Quát dịch). Phương pháp dạy và học hiệu quả, NXB trẻ, 2001 12. Dự án Việt – Bỉ. Tài liệu dịch 2002: Những thủ thuật trong dạy học Wilbert J.Mckeachie 13. Pat Maire, Liz Barnett, Adam Warrne và Davit Brunner. Sử dụng công nghệ trong giảng dạy và học tập, xuất bản lần thứ hai (LonDon: Kogan Page, 1998) 14. Website: Http//www.jime.open.ac.uk/jime/ Thông tin truyền thông đa hệ có ảnh hưởng lẫn nhau trong nên giáo dục. 15. Barbara Gross Davis. Dụng cụ giảng dạy. San Francisco: Josey – Bass, 1993 3 16. Dự án Việt- Bỉ. Tài liệu dịch 2002: Geoffrey Petty. Dạy học ngày nay. Stanley Thorner 1998. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ CBQL Cán bộ quản lí CSVC Cơ sở vật chất CT-SGK Chương trình và sách giáo khoa DHTC Dạy học tích cực DTNT DH Dân tộc nội trú dạy học ĐT&BD Đào tạo và bồi dưỡng PPGD PPGD PTNN Phương tiện nghe nhìn GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo GD Giáo dục GV GV HS HS NCKH Nghiên cứu khoa học SGK Sách giáo khoa XH Xã hội THPT Trung học phổ thông TBDH Thiết bị dạy học 4 I. Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT. 1.1. Một số cơ sở lý luận, thực tiễn "Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT phải nhìn nhận vấn đề một cách rộng rãi và linh hoạt theo ba hướng: phát triển năng lực nội sinh của người học, đổi mới quan hệ thầy trò, đưa công nghệ hiện đại vào nhà trường." [10] Cần đặt ra cho HS nhiệm vụ tìm tòi mâu thuẫn, các hiện tượng, những vấn đề, mối liên hệ mới cần phát hiện "tạo cho HS sự thành công" hiện nay GV không chỉ dạy kiến thức mà còn phải dạy cho HS cách học. Thông qua đó các em không chỉ biết tái hiện mà còn biết sáng tạo theo suy nghĩ của mình thông qua kiến thức được tiếp nhận. a) Về mặt lý luận - Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, rèn luyện tính tích cực, tư duy sáng tạo của người học đã trở thành chủ trương của Đảng và nhà nước. Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề được quan tâm hàng đầu và cũng là một vấn đề bức xúc đối với tất cả các cấp học, bậc học ở nước ta hiện nay. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 khẳng định quan điểm định hướng cho việc phát triển giáo dục và yêu cầu: “Phát huy tính độc lập suy nghĩ và sáng tạo của HS, sinh viên, để nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” [3] Từ những trích dẫn trên có thể khẳng định rằng quan điểm phát huy tính tích cực, độc lập và sáng tạo là một nội dung trọng tâm của chính sách giáo dục và quan điểm chỉ đạo giáo dục Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo này được đặt ra cho toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông cũng như đào tạo đại học, xuất phát từ những yêu cầu của xã hội, nhằm làm cho giáo dục đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong việc đào tạo con người. Để thực hiện được những 5 quan điểm chỉ đạo này cần vận dụng những tri thức khoa học giáo dục, trước hết là những quan điểm và PPGD tích cực. - Đòi hỏi của xã hội tính quy định của XH đối với GD, biểu hiện cụ thể ở các quy định trong Luật Giáo Dục, Nghị quyết/ Chỉ thị của Đảng, Quốc hội, Nhà nước và của Ngành về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông… - Sự phát triển không ngừng của KH và CN làm cho nội dung môn học ngày càng gia tăng cả về chiều rộng và chiều sâu, xuất hiện mâu thuẫn với thời gian và điều kiện dạy học cụ thể (đội ngũ GV, cơ sở vật chất, quản lí chất lượng đào tạo ở trường PT…) b) Về mặt thực tiễn - Tâm lí xã hội, thi cử làm cho HS không quan tâm học - Đội ngũ GV dạy học chưa được đào tạo/ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo chương trình và SGK một cách bài bản. Từ thói quen thuyết giảng, không ít người chỉ “chạy” theo khối lượng kiến thức có trong sách giáo khoa, không quan tâm đến việc tìm ra những biện pháp tác động đến quá trình nhận thức của HS. Đây là thói quen, cũng là rào cản của GV khi đổi mới PPGD. Bản chất của việc dạy học là làm cho HS chủ động tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ kiến thức. HS tiếp thu kiến thức không phải chỉ thông qua kênh nghe, kênh nhìn mà còn phải được tham gia thực hành ngay trên lớp hoặc được vận dụng, trao đổi thể hiện suy nghĩ, chính kiến của mình. - PPGD của phần lớn GV bộ môn hiện nay là hướng vào người dạy, HS luôn bị ở trong trạng thái thụ động, phải ghi nhớ máy móc những tri thức mặc định, có sẵn trong giáo trình, do đó chưa đáp ứng được mục tiêu của chương trình, SGK mới cũng như yêu cầu của xã hội. Kết quả của các nghiên cứu, tìm hiểu giáo án/ kế hoạch dạy và học của GV trường THPT cho thấy: 6 + Mục đích – yêu cầu của bài học đều được xác định cho người dạy và diễn đạt không rõ ràng , khó đánh giá. (thường dùng các hoạt động từ mang tính quá trình như : Cung cấp, trang bị, giới thiệu, hình thành, rèn luyện, góp phần giáo dục KTTH –HN…; nắm vững, thấm nhuần,…). + Giáo án đều được thiết kế theo nội dung (theo dàn bài trong giáo trình, bài giảng, minh hoạ là chính) + Ít thể hiện sự tương tác giữa các thành tố của hệ thống dạy – học (hỏi - đáp kiểu tìm tòi, phát hiện; thảo luận, nhận xét, cho HS tự đọc giáo trình và trả lời câu hỏi hoặc tóm tắt nội dung theo hiểu biết của mình…) + Chưa kết hợp được sự đánh giá của GV với tự đánh giá của HS, đánh giá của GV cũng mới chỉ thể hiện ở cuối bài (trong bước củng cố bài) chưa kết hợp với đánh giá quá trình. Nguyên nhân của tình trạng trên có thể có nhiều, trong đó một trong các nguyên nhân khách quan là chương trình và nội dung bài dạy quá dài, GV sợ cháy giáo án. Hơn nữa, nội dung này lại được trình bày khá đầy đủ, cặn kẽ và tường minh trong giáo trình; các câu hỏi/ bài tập cũng chỉ ở mức đòi hỏi HS nhớ lại nội dung đó là trả lời hoặc giải quyết được. Thành thử HS chưa cần cố gắng và nghị lực cao trong hoạt động trí tuệ hoặc thể lực. Quá trình đó kéo dài làm cho HS không có hứng thú học tập. Nghĩa là các em bị lâm vào trạng thái học tập thụ động, thờ ơ với môn học. 1.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng được thể chế hoá trong luật giáo dục 12/98 “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng 7 kiến thức vào thực tế; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.” Hiện nay, các trường THPT đang thực hiện chương trình & sách giáo khoa đổi mới. Đổi mới phương pháp dạy học có nhiều vấn đề đặt ra, trong đó dạy học theo hướng tích cực và tương tác là một định hướng trọng tâm, là vấn đề cốt lõi của đổi mới dạy học hiện nay. Xét về mặt hình thức, phương pháp dạy học là cách thức, con đường, hệ thống và trình tự các hoạt động mà GV sử dụng để tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn HS nhằm đạt được mục tiêu dạy học đã định. Từ những đổi mới về mục tiêu chương trình, kế hoạch dạy học đã nêu trên, PPGD cần được đổi mới theo hướng sau: + Tăng cường trực quan, thực hành trong mỗi giờ học. Đối với các bài học lý thuyết, GV hướng dẫn cho HS quan sát, phân tích những hình minh hoạ, những số liệu dẫn chứng được trình bày trong SGK và các bảng biểu, hạn chế kiểu dạy chay. Khi tổ chức cho HS thực hành, GV cần liên hệ các kiến thức với thực hành hướng dẫn các thao tác chuẩn xác theo đúng qui trình, thực hiện đầy đủ các bước trong qui trình hướng dẫn, tổ chức giờ thực hành theo hướng tạo điều kiện cho HS hoạt động thực hành một cách tự giác, tích cực, sáng tạo. + Trong các giờ học, GV giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức cho HS thu nhận kiến thức, hình thành kỹ năng thông qua việc tổ chức giờ học dưới nhiều hình thức tích cực như thảo luận theo nhóm, tổ; học trên lớp; học ngoài thực tế, kết hợp học kiến thức với rèn kỹ năng, lý thuyết với thực hành thí nghiệm, làm việc với sách giáo khoa… chú trọng hướng dẫn những vấn đề có tính hành dụng cao để HS có thể vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học giải quyết các vấn đề trong sản xuất hoặc trong cuộc sống hàng ngày. 8 Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp hiện nay là làm thế nào để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập, chống lại thói quen học tập thụ động đang tồn tại phổ biến hiện nay. Nói cách khác là phải tích cực hoá hoạt động học tập của HS. Cơ sở pháp chế của định hướng trên là dựa vào mục tiêu giáo dục phổ thông; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông trong luật giáo dục cũng như Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm khắc phục những mặt còn hạn chế, tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học v..v… 1.3. Tích cực hoá HS trong dạy học ở THPT a) Một số khái niệm. Trước hết, tích cực ở đây được hiểu theo nghĩa là hoạt động, chủ động; trái nghĩa với thụ động chứ không hàm ý trái nghĩa với tiêu cực và tích cực ở đây là nói đến tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với đối tượng nhận thức. Trong tâm lí học, tích cực nhận thức đặc trưng trong quá trình thay đổi liên tục bên trong của các mô hình tâm lí trong cấu trúc của hoạt động nhận thức của chủ thể nhằm cải tạo khách thể theo mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Tích cực nhận thức được biểu hiện ở: khả năng định hướng tới mục tiêu đề ra; hứng thú với nhiệm vụ được giao; sự tập trung chú ý và cố gắng cao về hoạt động trí tuệ cũng như hành động vật chất; có ý trí khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; khả năng linh hoạt trong giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập… Tích cực nhận thức trong học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ học tập là cái mà vì nó khiến người ta học tập (trí tò mò, ham hiểu biết, muốn làm vừa lòng người thân, muốn được tôn trọng, muốn được khẳng định mình…) 9 Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực, độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Như vậy, tính tích cực trong học tập của HS là một trạng thái hoạt động của HS được xuất hiện khi HS có động cơ/mục đích học tập đúng đắn, rõ ràng; có nhu cầu học và cảm thấy hứng thú thú trong học tập . Tính tích cực nhận thức trong học tập có các cấp độ từ thấp đến cao: + Bắt chước, cố gắng làm theo các mẫu hành động đã được quan sát . + Tìm tòi, độc lập giải quyết vấn đề, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau. + Sáng tạo, tìm ra giải pháp mới, độc đáo, hiệu quả . b) Các tiêu chí đánh giá tính tích cực nhận thức của HS - Sự tập trung chú ý vào nhiệm vụ học tập . - Khả năng định hướng nhanh vào mục tiêu học tập. - Có các biểu hiện của sự hứng thú học tập . - Tự giác thực hiện nhiệm vụ học tập . - Độc lập hành động . - Hăng hái tham gia trao đổi, thảo luận; chủ động nêu vấn đề, câu hỏi và sẵn sàng bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của mình . - Khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ học tập . - Suy nghĩ và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. c) Cơ sở khoa học của tích cực hoá hoạt động của HS Tính tích cực nhận thức là cơ sở cho tính độc lập và tính sáng tạo Đó là mục tiêu cuối cùng của quá trình dạy học. Chính vì thế, từ xưa tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu và công bố kết quả về vấn đề này. 10 Nội dung của các môn học bao giờ cũng liên quan đến các công việc/hành động /thao tác kĩ thuật. Do đó, trong thiết kế bài dạy cần phải quan tâm đến việc phân tích và vận dụng cấu trúc của hoạt động . Đặc điểm của hoạt động học tập Từ các đặc điểm hoạt động, đòi hỏi mỗi chủ thể (HS) phải liên tiếp thực hiện các hoạt động/thao tác kĩ thuật cụ thể (thao tác trí tuệ hoặc động tác vật chất) theo một trình tự quy trình nào đó để đạt tới những mục tiêu nhiệm vụ xác định. Do đó cần phải tính đến sự chuyển hoá giữa các yếu tố vật lý/bên ngoài (hoạt động, hành động, thao tác) với các yếu tố tâm lí/bên trong (động cơ, mục đích, phương tiện) của hoạt động . Kiểu dạy học tập trung vào GV tác động cản trở tính tích cực học tập Tồn tại lớn nhất trong dạy học hiện nay, như đã nói ở trên là sự ngự trị của kiểu dạy học tập trung vào GV, làm cho HS luôn ở trong trạng thái thụ động; ghi nhớ máy móc những tri thức mặc định, có sẵn trong giáo trình. Hậu quả là HS khó thích ứng, hoà nhập được với thực tiễn đang hàng ngày vận động và phát triển. d) Những dấu hiệu đặc trưng của các PPGD tích cực. • Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động của HS. Nghĩa là HS được/phải tham gia vào quá trình “làm ra” / “khám phá lại” những tri thức cần học một cách tự giác, tự lực dưới sự hướng dẫn của GV. • Dạy và học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự học Rèn luyện phương pháp tự học hơn là truyền thụ/ tiếp thu tri thức; nghĩa là coi tri thức là điều kiện/ phương tiện cho việc rèn luyện phương pháp tự học (mục tiêu cuối cùng của dạy học) 11 • Tăng cường tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng sự hợp tác/tương tác giữa các cá nhân trong nhóm/lớp; nghĩa là quan tâm đến mục tiêu hợp tác/chung sống với cộng đồng. • Kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS: Nghĩa là làm cho HS luôn tự ý thức được, khẳng định được kết quả/mục tiêu hành động của mình. 1.4. Các phương pháp tích cực hoá HS trong dạy học ở trường THPT a) Một số cơ sở khoa học Để tích cực hoá HS cần có những điều kiện nhất định (mục tiêu, chương trình, cơ sở vật chất, phương thức kiểm tra - đánh giá …. ). ở đây chỉ bàn đến một yếu tố và ở mức độ vi mô ; đó là người dạy có thể / cần phải làm gì và làm như thế nào để tích cực hoá HS trong dạy học. Một trong những cơ sở của tích cực hoá HS là lý thuyết hoạt động trong tâm lý dạy học – cho rằng con người phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động. Do đó HS phải học trong hoạt động và bằng hoạt động. Luận điểm khoa học là: Mỗi một nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định (đó là những hoạt động đã được tiến hành trong quá trình hình thành và vận dụng nội dung đó). Phát hiện được những hoạt động tiềm tàng trong một nội dung là cụ thể hoá được mục tiêu dạy học nội dung đó, chỉ ra được cách kiểm tra việc thực hiện những mục tiêu này; đồng thời vạch ra một con đường để HS tự chiếm lĩnh nội dung đó và đạt được những mục tiêu dạy học khác. Cho nên điều căn bản của PPGD là khai thác được những hoạt động tiềm tàng trong nội dung để đạt được mục tiêu dạy học tương ứng với nội dung đó. Như vậy, về mặt khách quan có thể phân tích nội dung dạy học theo quan điểm hoạt động làm cơ sở cho 12 việc xác định PPGD. Quan điểm hoạt động trong PPGD có thể được triển khai theo các bước như sau: • Cho HS thực hiện và tập luyện những hoạt động và hoạt động thành phần tương thích với nội dung và mục tiêu dạy học. • Gợi động cơ cho các hoạt động hay hoạt động ở thành phần / hành động học tập. • Dẫn dắt HS chiếm lĩnh tri thức đặc biệt là tri thức phương pháp như là phương tiện kết quả hoạt động. • Phân bậc hoạt động / phân tích hoạt động thành các yếu tố thành phần để làm căn cứ điều khiển quá trình hoạt động. Khác với thuyết hành vi trong dạy học, ở đây cần chú ý đến mục đích, động cơ, đến tri thức PP, đến trải nghiệm thành công ; nhờ đó đảm bảo được tính tự giác, tích cực của chủ thể. b) Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS. Để tích cực hoá HS phải kết hợp và khai thác ưu điểm của nhiều PPGD khác nhau (các phương pháp dùng lời, các phương pháp dạy học dùng phương tiện trực quan, các phương pháp dạy học thực hành, các lí thuyết dạy học theo hoạt động, dạy học nêu và giải quyết vấn đề...) phù hợp với điều kiện cụ thể đối với mỗi loại hình bài học. • Phương pháp thuyết trình kết hợp với sử dụng các phương tiện trực quan: Bước 1: Đặt vấn đề : Mục đích là gợi nhu cầu nhận thức và làm cho HS chấp nhận một cách tự nhiên, lôgíc về nhu cầu thực tế cần có hoặc cần cải tiến đối tượng công nghệ (định hướng khái quát vào bài học). 13 Cách làm : + GV sưu tầm, thu thập các tư liệu lịch sử có liên quan đến nội dung bài học (tiểu sử, chân dung các nhà khoa học ; lịch sử ra đời và phát triển của các phát minh, sáng chế qua các thời kì,...). Chúng thường gắn với và mang dấu ấn của con người, mốc thời gian, không gian, sự kiện cụ thể, ... + Phân tích cụ thể các tư liệu trên để rút ra nhu cầu xuất hiện đối tượng có liên quan đến nội dung bài học: cần có một máy móc, thiết bị mới, một phương pháp mới, một quy trình mới... đáp ứng đòi hỏi (về vật chất hoặc tinh thần) của thực tiễn. + Cách phát biểu nhu cầu trên: có thể thông qua một câu chuyện về lịch sử kĩ thuật, một thông tin về một vấn đề bức xúc của sản xuất và đời sống trong quá khứ hoặc hiện tại, ...Tức là cá nhân hoá, hoàn cảnh hoá, thời gian hoá lại tri thức khoa học trong bài dạy. Bước 2 : Giải quyết vấn đề và rút ra kết luận Mục đích là làm cho HS tự giác, chủ động tham gia tìm tòi, “khám phá lại” tri thức của bài học. Cách làm - Tổ chức các hoạt động sau : + GV hướng dẫn HS tổng kết các thông tin ở bước trên, bổ sung kiến thức (theo nội dung bài học trong SGK). + Hệ thống và khái quát hoá lại nội dung bài học dưới dạng các sơ đồ tóm tắt để nêu bật được trọng tâm và lôgíc của bài học. Bước 3. Vận dụng. Mục đích để củng cố kiến thức và hướng dẫn cho HS tự học. Cách làm: Có thể có nhiều cách, tuỳ theo đặc điểm bài học và trình độ HS. Chẳng hạn, GV yêu cầu HS: + Nghiên cứu đối tượng học trên mô hình hoặc vật thật. 14 + Giải thích các thông số của đối tượng. + So sánh với các đối tượng khác cùng loại hoặc tương tự. + Nhận xét về ý nghĩa và giá trị thực tế của đối tượng. + Giải các bài tập vận dụng định tính hoặc định lượng. • Phương pháp đàm thoại gợi mở - tìm tòi Phương pháp này được áp dụng khi cần : - Hồi phục những kiến thức, kĩ năng có liên quan đến bài học. - Xây dựng quy trình hành động. - Đề xuất, lựa chọn phương án (vật liệu, phương tiện, điều kiện) hành động,... Mối liên hệ giữa kiến thức, kĩ năng đã có của HS với nội dung bài học là yếu tố cơ bản bảo đảm sự thành công của phương pháp đàm thoại. Do đó, cần phải: - Biết được mặt bằng trình độ hiện có và nhu cầu cụ thể của HS đối với mỗi bài học. - Phân tích nội dung bài học để tìm ra mối liên hệ giữa nội dung này với hiểu biết, kinh nghiệm của HS. - Đặt câu hỏi, vấn đề sao cho HS chấp nhận mối liên hệ đó một cách tự nhiên, lôgíc, kích thích trí tò mò, ham hiểu biết của các em. Câu hỏi dễ hoặc khó quá đều không có tác dụng thu hút sự chú ý của HS. - Hình dung những khó khăn, sai lầm mà HS có thể mắc phải khi tư duy, suy nghĩ giải quyết vấn đề ; nguyên nhân của những khó khăn, sai lầm đó ; thời điểm và cách gợi ý giúp đỡ cần thiết,... - Nhận xét câu trả lời và động viên kịp thời những ý tưởng, đề xuất của HS (cho dù chưa phải là câu trả lời, phương án đúng nhất). - Tạo dựng, duy trì mối quan hệ hợp tác tích cực giữa thầy và trò trong quá trình dạy học. 15 Trong quá trình dạy học phương tiện dạy học, TBDH là những phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của HS, giúp HS lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng (ví dụ như các vật thật, mô hình, hình vẽ mô phỏng đối tượng...). Vì vậy GV cần khai thác triệt để thiết bị dạy học đã có và thiết bị dạy học mới được trang bị để giờ dạy đạt hiệu quả. Để đánh giá đúng kết quả học tập của HS GV sử dụng các phương pháp trắc nghiệm (trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan). • Tóm lại : - Tích cực hoá hoạt động học tập của HS là một định hướng trung tâm, là vấn đề cốt lõi của đổi mới PPGD hiện nay. - Đổi mới dạy học theo hướng này đã có những cơ sở lí luận và cơ sở pháp chế; đã bước đầu được triển khai trong việc xây dựng chương trình, SGK môn học ở trường phổ thông, tạo tiền đề cho việc thực hiện. - Đổi mới dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS còn đang gặp một số khó khăn, trở ngại như cách nghĩ, cách làm của chúng ta hiện nay chưa phù hợp (quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ dạy học : dạy kiến thức là chính hay dạy cách học là chính? Nếu coi trọng đồng thời cả hai thì giải quyết tâm lí ngại cháy giáo án như thế nào? Quan niệm về kỉ luật, trật tự trong lớp học với việc tổ chức các hoạt động và thảo luận? Cách dạy, cách học phổ biến hiện nay ; cách kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ; lớp học quá đông, cơ sở vật chất chưa đáp ứng mục tiêu đề ra...). Cũng như GV, đối với HS việc chuyển từ thói quen, cách học thụ động sang cách học chủ động, tích cực, độc lập và sáng tạo phải là một quá trình. Quá trình đó không dễ thực hiện được ngay nhưng nó phải được định hướng và khởi đầu từ phía người dạy. 16 II. Vai trò của thiết bị dạy và học trong đổi mới PPGD 2.1. Mối quan hệ của TBDH với các yếu tố của quá trình dạy học Trong các sơ đồ mô tả các yếu tố (thành phần) của quá trình dạy học, Mục tiêu Phương pháp Nội dung HS GV TBDH Hình 2.1 Trong sơ đồ 2.1, nếu xét về phương diện nhận thức thì thiết bị dạy và học vừa là “trực quan sinh động”, vừa là “phương tiện” để nhận thức và đôi khi còn là “đối tượng” chứa nội dung cần nhận thức. Nghiên cứu về vai trò của thiết bị dạy và học, người ta còn dựa trên vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức và đã chỉ ra rằng: - Tỉ lệ kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn. - Tỉ lệ kiến thức nhớ được khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được. 17 - Người ta cũng tổng kết: tôi nghe – tôi quên; tôi nhìn – tôi nhớ; tôi làm – tôi hiểu. Những số liệu trên cho thấy, để quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quá trình nghe – nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện (thiết bị, công cụ) để tác động và hỗ trợ. 2.2. Một số vai trò của thiết bị dạy và học - Cung cấp kiến thức cho HS một cách chắc chắn, chính xác và trực quan; do đó hấp dẫn và kích thích được hứng thú học tập của HS. - Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm HS lĩnh hội đủ nội dung học tập. - Gia tăng cường độ lao động của cả GV và HS; do đó nâng cao hiệu quả dạy học. - Thể hiện được những yếu tố trong thực tế khó hoặc không quan sát, tiếp cận được. 2.3. Các giá trị giáo dục của thiết bị dạy và học - Thúc đẩy sự giao tiếp, trao đổi thông tin, do đó giúp HS học tập có hiệu quả. - Giúp HS tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền. - Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống. - Giúp khắc phục những hạn chế của lớp học bằng cách biến cái không thể tiếp cận được thành cái có thể tiếp cận được. Điều này thực sự đúng khi thực hiện phim ảnh mô phỏng và các phương tiện tương tự. - Cung cấp kiến thức chung, qua đó HS có thể phát triển các hoạt động học tập khác nhau. - Giúp phát triển mối quan tâm về các lĩnh vực học tập và khuyến khích HS tham gia chủ động vào quá trình học tập. 2.4. Yêu cầu đối với thiết bị dạy và học 18 Trên cơ sở phân tích thực trạng các thiết bị dạy và học ở trường phổ thông, người ta đã bổ sung các tiêu chí đánh giá đối với các thiết bị dạy học cụ thể đó là: - Phù hợp với nội dung chương trình , sách giáo khoa và phương pháp dạy học mới; - Dễ sử dụng, tốn ít thời gian trên lớp; - Kích thước, màu sắc phù hợp; - Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, sử dụng; - Có tài liệu hướng dẫn cụ thể bằng tiếng việt. 2.5. Sử dụng thiết bị dạy và học Trên cơ sở phân tích các nguyên tắc sử dụng thiết bị dạy và học, những sai sót thường gặp trong sử dụng thiết bị dạy và học, người ta cũng rút ra những kết luận sư phạm sau: 2.5.1. Sử dụng thiết bị dạy và học phù hợp với người học Phải sử dụng kết hợp nhiều loại thiết bị dạy và học một cách có hệ thống để vừa thực hiện được các đặc trưng của đối tượng nhận thức vừa phù hợp với các phong cách học tập khác nhau của người học. Cách học (phong cách học) là cách tác động của chủ thể đến đối tượng học hay cách thực hiện hoạt động học; là cách thức thông thường một người nhận và xử lý thông tin, đưa ra quyết định và tạo ra các giá trị. Phong cách của người đọc thể hiện qua hành vi của người đó. Cách học (hay phong cách học) là tập hợp các yếu tố về mặt sinh lí, tính cách, tình cảm và nhận thức; là những chỉ số tương đối ổn định chỉ rõ một người học cảm nhận, tác động và ứng đáp lại môi trường học tập. Đương nhiên, không có cách học duy nhất cho mọi người, mọi nội dung (đối tương/ môn học). Do đó, cần: 19 + Hướng dẫn một cách có chủ ý về các cách đáp ứng nhu cầu học đa dạng (lời nói/ ngôn ngữ; logic/ toán học; nhìn/ không gian; thân thể/ vận động; nhạc/ nghe; giữa các cá nhân với nhau/ trong mỗi người); nghĩa là phải sử dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Trong đó đặc biệt chú ý kết hợp các dạng hoạt động nghe, nhìn và làm. Có những phương pháp (hình thức) dạy học có thể kết hợp được. Chẳng hạn, dạy theo dự án. Những dự án học tập thường đòi hỏi người học phải tiếp cận đề tài bằng đa dạng kĩ năng: khẩu ngữ, trực quan và xúc cảm. Nó cũng tạo điều kiện cho sinh viên tham gia đóng góp, sử dụng phong cách học tập theo thiên hướng của mình và trải nghiệm các phong cách học tạp khác. Người học có phong cách năng hoạt có thể tham gia một cách có hiệu quả thông qua sự chủ động và nhiệt tình nêu ra các ý tưởng của mình; người học có thiên hướng thực tế sẽ giúp kết hợp các bằng chứng về những kinh nghiệm/ kiến thức trước đó để hợp nhất chúng vào trong dự án. 2.5.2. Sử dụng thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung học tập Khi lựa chọn các thiết bị dạy và học, phải nghiên cứu kĩ năng đặc điểm nội dung học tập, ưu (nhược) điểm của từng loại phương tiện để thực hiện cho đồng bộ. Muốn vậy, khi thiết kế bài dạy (soạn giáo án), cần phải: - Đề ra kết quả mong đợi (mục tiêu bài học) cho người học để dễ kiểm soát trực tiếp. - Thiết kế các hoạt động dạy và học phù hợp với kiến thức đã có, với động lực và mức độ quan tâm của HS bằng cách lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học để liên hệ giữa trình độ của HS với mức độ nội dung mà các em kì vọng phải đạt được. - Thường xuyên điều chỉnh kế hoạch này trên cơ sở thông tin phản hồi từ phía người học. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan