Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thừa kế theo pháp luật trong hoàng việt luật lệ thời nguyễn ở việt nam luận văn ...

Tài liệu Thừa kế theo pháp luật trong hoàng việt luật lệ thời nguyễn ở việt nam luận văn ths. luật học

.PDF
129
389
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HỒ THỊ VÂN ANH KHOA LUẬT HỒ THỊ VÂN ANH  LUẬT DÂN SỰ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN Ở VIỆT NAM  LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THỊ VÂN ANH THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. PHÙNG TRUNG TẬP HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................ 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 6 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 7 5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8 6. Bố cục của luận văn .............................................................................................. 8 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN.................................. 9 1.1. Những cơ sở của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn ................ 9 1.1.1. Cơ sở Nho giáo....................................................................................... 9 1.1.2. Cơ sở về văn hóa truyền thống, tục lệ của dân tộc ................................ 18 1.1.3. Sự kế thừa cổ luật của dân tộc và sự ảnh hưởng của pháp luật nhà Thanh .... 24 1.2. Những nguyên tắc của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ .................. 29 1.2.1. Nguyên tắc bảo vệ quan hệ huyết thống ................................................ 29 1.2.2. Nguyên tắc hương hỏa .......................................................................... 34 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tuyệt đối Hiếu - Lễ - Nghĩa .................................. 37 CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ ............................................. 43 2.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ ............................. 43 2.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 43 2.1.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ ........ 47 2.2. Thời điểm mở thừa kế .................................................................................... 48 2.3. Di sản thừa kế................................................................................................. 55 2.4. Phạm vi những người được thừa kế theo pháp luật ......................................... 67 2.4.1. Quan hệ hôn nhân................................................................................. 67 2.4.2. Quan hệ huyết thống............................................................................. 73 2.4.3. Quan hệ nuôi dưỡng (nghĩa dưỡng) ...................................................... 89 2.5. Phân định di sản thừa kế ................................................................................. 93 2.5.1. Thừa kế không có chúc thư ................................................................... 93 2.5.2. Thừa kế hương hỏa (thừa kế tự sản) ..................................................... 97 2.5.3. Thừa kế tập ấm (hay thế tập) .............................................................. 100 CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN . 104 3.1. Đánh giá về quyền lợi của người con gái trong việc hưởng di sản thừa kế ............ 108 3.2. Đánh giá về quyền hưởng di sản thừa kế của các con ................................... 112 3.3. Đánh giá về quyền lợi của người vợ góa ....................................................... 114 3.4. Đánh giá về truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc trong các quy định về thừa kế ..................................................................................................... 116 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 120 PHỤ LỤC........................................................................................................... 126 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, kéo dài hơn hai phần ba thế kỷ. Triều Nguyễn không chỉ để lại cho hậu thế, cho Huế những di sản văn hóa: vật thể và phi vật thể, được thế giới công nhận, mà còn để lại cho hậu thế một di sản lập pháp tương đối hoàn bị dưới thời phong kiến ở Việt Nam. Việc nghiên cứu về văn hóa triều Nguyễn đã được quan tâm và có những thành tựu nhất định. Song việc nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa xứng đáng với tầm vóc, nhất là việc nghiên cứu các quy định về thừa kế theo hướng chuyên sâu trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời nhà Nguyễn chưa hề được đề cập đến. Việc nghiên cứu pháp luật triều Nguyễn là cần thiết không chỉ để hiểu thêm về triều đại này, mà còn để hiểu biết về pháp chế triều Nguyễn, từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về pháp chế Việt Nam dưới thời phong kiến. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, chính thức sáng lập ra triều Nguyễn. Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã triển khai biên soạn một bộ luật với quy mô rộng lớn nhằm làm “chuẩn thằng” cho công tác pháp luật. Bộ luật có tên là Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là Hoàng triều luật lệ hoặc Bộ luật Gia Long). Vua Gia Long trực tiếp đọc duyệt, tu sửa, sau cùng viết lời tựa có đoạn: “Thánh nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ. Hai điều ấy không thiên bên nào bỏ bên nào. Thật vậy, sống trong xã hội, con người với những ham muốn vô bờ, nếu không có luật pháp để ngăn ngừa thì không có cách gì để dẫn dắt người ta vào đường giáo hóa mà biết được đạo đức”. Không chỉ dừng lại ở Hoàng Việt luật lệ, các vua sau vua Gia Long cũng đặc biệt quan tâm đến việc lập pháp, hàng loạt các Chỉ, Dụ được ban hành dưới thời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức để tiếp tục bổ khuyết, hoàn thiện cho Hoàng Việt luật lệ. Công tác lập pháp được chú trọng, triều Nguyễn để lại một di sản pháp luật đồ sộ không kém gì di sản văn hóa: bộ Hoàng Việt luật lệ, 560 quyển Đại Nam thực lục, 262 quyển Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, 25 quyển Minh Mệnh chính yếu, 3.171 tập Châu Bản... Tuy nhiên, triều Nguyễn lại là triều đại mà trong quá trình tồn tại của mình gắn liền với nhiều biến động của lịch sử, đất nước lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp. Điều đó khiến cho việc đánh giá về triều Nguyễn trở nên hết sức phức tạp. Vấn đề nhìn nhận về pháp luật triều Nguyễn cũng không nằm ngoài tình trạng phức tạp nói trên. Trong sự giao lưu văn hóa, vấn đề tham khảo, tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa giữa các quốc gia là một hiện tượng bình thường, ở đâu và thời nào cũng có. Song, đối với triều Nguyễn lại bị phê phán nặng nề. Trong số những điều mà pháp luật triều Nguyễn nói chung và Hoàng Việt luật lệ nói riêng bị phê phán thì các chế định về thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ là bị chỉ trích nặng nề nhất. Do đó, luận văn đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời Nguyễn để nghiên cứu. Mục đích là nhằm tìm kiếm những giá trị tốt đẹp của hệ thống pháp luật dưới thời nhà Nguyễn. Bởi, nếu không có một “sự hợp lý” nào đó thì hệ thống pháp luật này đã không thể trở thành nền pháp luật thực định của một triều đại tồn tại gần một thế kỷ. Đồng thời, qua việc nghiên cứu về vấn đề chế định thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ cũng là để góp phần trong việc đánh giá về pháp luật triều Nguyễn. Thừa kế là định chế hết sức đặc biệt vì nó liên quan nhiều đến văn hóa - văn hóa tộc người. Ở đây, nó ít nhiều thuộc về lĩnh vực pháp lý văn hóa, đòi hỏi các nhà lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp khi xây dựng những chế định này cũng như khi vận dụng pháp luật đều phải có sự am hiểu sâu sắc về phong tục tập quán của dân tộc, về văn hóa dân tộc mà được tập trung ở cổ luật của dân tộc, về văn hóa dân tộc. Việc nghiên cứu các chế định về thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn còn là để hiểu biết về những phong tục tập quán của người Việt xưa. Vì thời xưa, giữa pháp luật và tục lệ tuy hai mà một. Tục lệ chính là cách ứng xử của cộng đồng và pháp luật chính là sự quy phạm hóa những nguyên tắc của tục lệ để củng cố cho luân lý xã hội. Việc tìm hiểu tục lệ của dân tộc thông qua việc nghiên cứu thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn thiết nghĩ là hết sức cần thiết trong thời buổi 1 xã hội đương trải qua một “cơn sốt vỡ da” của nền kinh tế thị trường, những giá trị truyền thống đã và đang ít nhiều bị mai một, lãng quên. Trong khi người Việt đang chạy theo đà tiến triển vũ bão của văn minh thế giới, thiết nghĩ có ít nhiều ngoảnh lại vào cuộc sống hôm qua của cha ông, chưa ắt đã là hoàn toàn... vong bản! Có thể nói, những giá trị cổ luật này không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử, về truyền thống, mang yếu tố dân tộc mà còn có ý nghĩa về xây dựng pháp luật. Những giá trị này không mất đi mà nó đã, đang và sẽ đồng hành cùng với sự phát triển của đời sống dân sự hiện đại. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay không thể không kế thừa những giá trị tốt đẹp về thừa kế mang tính dân tộc như các quy định về hương hỏa, hiếu, lễ, nghĩa, huyết thống, thừa tự... trong cổ luật mà trong đó tất yếu có pháp luật thời Nguyễn. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 5 năm 2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020” đã khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “phát huy di sản văn hóa dân tộc”... Vì vậy, nghiên cứu về “Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn ở Việt Nam” là cần thiết và có cơ sở khoa học. 2. Tình hình nghiên cứu Việc nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn nói chung đã được đặt ra từ lâu nhưng kết quả vẫn còn khiêm tốn, nhất là việc nghiên cứu về thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời Nguyễn chưa được quan tâm. Cụ thể là, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này, nếu có, chỉ có thể tìm được một số công trình nghiên cứu một khía cạnh nào đó có hàm chứa yếu tố thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Dưới thời phong kiến chưa thấy có công trình nghiên cứu nào về pháp luật triều Nguyễn. Chỉ đến thời Pháp thuộc, cùng với việc dịch thuật bộ Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp, một số tác giả người Pháp đã chú giải nó và do đó vấn đề nghiên cứu về Hoàng Việt luật lệ mới được bắt đầu. 2 Vào năm 1862, Anbaret dịch xong Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp và cho xuất bản. Đến năm 1875, P. Philastre dịch lại bộ Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp xuất bản tại Paris, dưới tiêu đề Le Code Annamite. Cùng với dịch thuật, P. Philastre đã bình luận, chú giải và đó là những kết quả nghiên cứu đầu tiên về bộ Hoàng Việt luật lệ theo quan điểm pháp lý của Tây phương. Đến năm 1909, trong lời tựa viết cho bản dịch bộ Luật Hồng Đức ra tiếng Pháp của Deloustal tuy tập trung nói về pháp luật thời Lê, nhưng H. Maitre cũng đã dành một đoạn để đánh giá về Hoàng Việt luật lệ. Đến năm 1922, lần đầu tiên, một luận án Tiến sỹ Luật học nghiên cứu về bộ Hoàng Việt luật lệ của luật sư Phan Văn Trường đã được đệ trình tại Đại học đường Paris, xuất bản 1922. Luận án gồm 2 công trình có tên là Essais sur Le Code Gia Long (gồm 86 trang) và Le droit pénal à travers l’ancienne la législation chinoise (Etude comparée sur Le Code Gia Long) (gồm 194 trang). Trong luận án, tác giả đã nghiên cứu tường tận và so sánh, phân tích những điểm tương đồng và dị biệt giữa Hoàng Việt luật lệ và bộ luật nhà Thanh. Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và quy mô đầu tiên về Hoàng Việt luật lệ, trong đó có các định chế về thừa kế. Đến năm 1928, Trần Văn Liêu tiếp tục đệ trình một luận án Tiến sỹ Luật học khác tại Đại học đường Paris với tiêu đề De la propriété familiale comme fondement du droit familial Vetnamien, d’après Le Code Gia Long et Le Code des Lê. Đến năm 1935, Phạm Quang Bạch lại đệ trình luận án Tiến sỹ Luật học tại Đại học đường Paris với tiêu đề là Essai sur l’idée de la loi dans Le Code Gia Long. Từ sau đó trở đi cũng còn một số luận án khác có bàn ít nhiều đến bộ luật Hoàng Việt luật lệ. Sau năm 1954, giáo sư Vũ Văn Mẫu đã tập trung nghiên cứu về cổ luật Việt Nam, trong đó có Hoàng Việt luật lệ. Năm 1958 với cương vị khoa trưởng trường Đại học Luật khoa Sài Gòn, ông đã cho ra đời bộ giáo trình Dân luật khái luận, trong đó có bàn về Hoàng Việt luật lệ và có đề cập đến chế định thừa kế. Từ năm 1958 cho đến 1975, quan điểm của giáo sư Vũ Văn Mẫu về vấn đề thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ được giữ nguyên và ông là người độc chuyên giảng dạy tư pháp sử ở miền Nam Việt năm trước năm 1975 nên chúng trở thành nhận thức chính thống của giới luật học miền Nam trước đây. 3 Cùng thời này, ở miền Bắc, luật gia Đinh Gia Trinh cho ra đời tác phẩm Sơ khảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (tập 1, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1968). Trong tác phẩm này có một phần nhỏ đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung. Ngoài công trình của luật gia Đinh Gia Trinh, ở miền Bắc cho đến ngày đất nước thống nhất không còn thấy có một công trình nào khác nữa về vấn đề này. Trong mười năm đầu sau 1975 không thấy có một công trình nghiên cứu nào về pháp luật triều Nguyễn. Chỉ từ năm 1986 trở đi, cùng với chủ trương đổi mới, ngành luật học ở Việt Nam dần phát triển. Năm 1986, khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Huế đã xây dựng một chuyên đề giảng dạy tại khoa với tiêu đề: Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX). Tài liệu này được xuất bản năm 1993 và là tài liệu học tập cho sinh viên khoa Sử trường Đại học Sư phạm Huế. Tài liệu này có đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung. Bốn năm sau, vào năm 1990, khoa Luật của trường Đại học Tổng hợp tiếp tục xuất bản giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (Từ nguồn gốc đến trước Cách mạng tháng Tám 1945). Nội dung có đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung. Năm 1994, tại cuộc Hội thảo khoa học về triều Nguyễn (thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ) do trường Đại học Sư phạm Huế tổ chức cũng đã ít nhiều đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nhưng thừa kế theo Hoàng Việt luật lệ trong triều Nguyễn vẫn chưa được đề cập đến. Năm 1994, tác giả Nguyễn Q. Thắng là người đầu tiên dịch Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Việt, kèm theo nhận xét, đánh giá chung về Bộ luật. Đây là lần đầu tiên công chúng được tiếp cận với một bản dịch đầy đủ về Hoàng Việt luật lệ. Từ năm 1996 cho đến nay, một số giáo trình “lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam” của các cơ sở đào tạo luật trong toàn quốc đều lần lượt được xuất bản, trở thành tài liệu học tập của sinh viên ngành luật. Pháp luật triều Nguyễn bắt đầu được quan tâm nhưng nội dung và thời lượng dành cho nó vẫn chưa nhiều nhất là về mảng thừa kế không được quan tâm đến theo hướng chuyên sâu. Nhiều cuộc Hội thảo Khoa học được tổ chức: Hội thảo khoa học Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn và những vấn đề đặt ra hiện nay, tổ chức tại Đại học Huế vào năm 4 2000. Gần đây nhất là Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX ngang tầm cỡ quốc gia, được tổ chức ở Thanh Hóa từ ngày 18 đến ngày 19 tháng 10 năm 2008... Đáng tiếc, là trong các cuộc hội thảo này, vấn đề về pháp luật triều Nguyễn chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có bài tham luận nào về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Đầu năm 2005, trên cơ sở của đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, TS. Huỳnh Công Bá đã xuất bản tác phẩm: Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn. Và như vậy, thừa kế vẫn đang là vấn đề về pháp luật triều Nguyễn bị bỏ ngỏ. Có thể nói, công tác nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn và pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ dưới triều Nguyễn đã được đặt ra từ lâu, song cho đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách dứt khoát vì chưa có sự quan tâm đúng mức. Trên cơ sở những kết luận đầu tiên của P. Philastre vào năm 1875, về sau nhiều tác giả đã tiếp tục nghiên cứu nhưng không đi sâu vào lĩnh vực thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Điều này khiến kết quả nghiên cứu về vấn đề này bị dẫm chân tại chỗ, mặc dù thời gian đã lùi xa trên nền của những người đã khai phá mở đường. Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan về nền pháp luật triều Nguyễn, nhất là ở phương diện pháp luật thừa kế là một việc làm hết sức cần thiết để góp phần hiểu đúng về nền pháp luật triều đại này, góp phần đánh giá triều Nguyễn và góp phần gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong hoạt động lập pháp hiện đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chưa có điều kiện để trình bày toàn bộ nền pháp luật của triều Nguyễn, mà chỉ tập trung ở lĩnh vực pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời Nguyễn. Trong một số nội dung, chúng tôi không dừng lại ở Hoàng Việt luật lệ, mà cố gắng khảo sát thêm các luật lệ bổ sung dưới thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Ở một số trường hợp khi luật văn tỏ ra mặc tĩnh, chúng tôi đã cố gắng xem xét thêm ở thái độ của tục lệ (ở các câu giải đáp của Ủy ban cố vấn Án lệ). Tuy nhiên, về cơ bản, 5 công trình tập trung ở Hoàng Việt luật lệ, vì đây là tài liệu căn bản trong nền pháp luật của triều Nguyễn, đã được áp dụng trong suốt thời gian trị vì của thời đại này và còn được tiếp tục áp dụng sang cả giai đoạn đầu của thời kỳ Pháp thuộc, cho đến ngày người Pháp ban hành các bộ Dân luật giản yếu ở Nam Kỳ (1883), Dân luật Bắc ở Bắc kỳ (1931) và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật ở Trung kỳ (1936). Đối với các Chỉ, Dụ bổ sung sau ngày ban hành các bộ Hoàng Việt luật lệ, luận văn chú ý đến các Chỉ dụ năm Minh Mệnh 10 (1829), Chỉ dụ năm Thiệu Trị 4 (1844), Chỉ dụ năm Tự Đức 8 (1855)... Đây là các chỉ dụ liên quan đến tài sản của người vô tự, thừa kế tài sản của người con gái đối với tài sản của cha mẹ, của người vợ góa đối với chồng... Ngoài ra, luận văn cũng đã chú ý so sánh với pháp luật nhà Thanh của Trung Quốc, so sánh với Quốc triều Hình luật của triều Lê, pháp luật của phương Tây trong một chừng mực có thể, để góp phần tìm kiếm một cách đánh giá khách quan hơn đối với nền pháp luật triều Nguyễn. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đây là công trình đầu tiên tập hợp và trình bày một cách tương đối có hệ thống về vấn đề thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời nhà Nguyễn. Loại bỏ định kiến, luận văn nhìn triều Nguyễn bằng cái nhìn bình đẳng như những triều đại phong kiến khác. Trên cơ sở những vấn đề lý luận, vấn đề pháp lý về thừa kế, các quy định của Hoàng Việt luật lệ về thừa kế và các Chỉ, Dụ được bổ sung suốt thời gian trị vì của triều Nguyễn, luận văn đã phân tích, hệ thống hóa các quy định về thừa kế theo pháp luật của Hoàng Việt luật lệ dưới triều Nguyễn. Luận văn đã đặt vấn đề này vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của chúng để đánh giá về những giá trị của những quy định thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ. Từ đó, góp phần đánh giá nền luật pháp triều Nguyễn nói chung. Một mục đích khác của luận văn là ở sự so sánh với pháp luật triều Lê, pháp luật nhà Thanh, pháp luật phương Tây. Tuy không phải ở tất cả mọi điểm đều được so sánh (vì như thế là nhiệm vụ của một đề tài khác). Song đây cũng chính là một trong những mục tiêu mà luận văn đề ra và nó cũng đem lại một số kết quả bước đầu trong việc góp phần đánh giá đúng đắn hơn về nền pháp luật triều Nguyễn. 6 Một mục đích khác nữa của luận văn là luận văn đã chọn đúng vào chỗ pháp luật triều Nguyễn bị phê phán nặng nề nhất, nên việc nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần giải tỏa định kiến bấy lâu nay về pháp luật triều Nguyễn. Luận văn cũng còn có thể góp phần trong việc hiểu biết về cội nguồn của các chế định về thừa kế hiện nay ở nước ta, vốn đã được các nhà lập pháp thời hiện đại kế thừa từ trong di sản pháp luật của dân tộc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận khoa học luật dân sự, các quy định của Hoàng Việt luật lệ, các Chỉ, Dụ bổ sung sau Hoàng Việt luật lệ, và trên cơ sở các nguồn tư liệu tiếp cận được, chúng tôi đã tiến hành xử lý, sử dụng các phương pháp khác nhau như: phân tích, so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để rút ra các ý nghĩa, hệ thống hóa các chế định và trình bày thành luận văn của mình. Trong đó, luận văn đặc biệt chú ý phương pháp so sánh (trong một giới hạn với khả năng có thể) với pháp luật triều Lê, pháp luật Trung Quốc nhà Thanh và pháp luật phương Tây. Để đánh giá các định chế về pháp luật thừa kế dưới triều Nguyễn, chúng tôi phải cố gắng vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; nhìn nhận vấn đề trong tính lịch sử cụ thể của nó; xem xét từng vấn đề trong tiến trình vận động và phát triển của chúng, cũng như trong tính toàn thể của các sự vật và sự việc. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Cụ thể là: Chương 1. Khái quát về pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Chương 2. Những quy định về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ. Chương 3. Đánh giá giá trị những quy định về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN 1.1. Những cơ sở của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn 1.1.1. Cơ sở Nho giáo Thừa kế là một quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội với yếu tố nền tảng là gia đình, dòng họ. Vấn đề gia đình được Nho giáo đặc biệt quan tâm, tạo cơ sở vững chắc cho những chế định về quan hệ thừa kế trong cổ luật. Trong lịch sử gần hai nghìn năm phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, phải đến thời Nguyễn thì những phạm trù của học thuyết này mới được các Nho sĩ nghiền ngẫm, luận giải một cách sâu sắc, trở thành ngọn cờ tinh thần thống nhất được toàn xã hội trên một nền tảng đạo lý, lễ nghi, tâm lý, nếp sống, một diện mạo văn hóa Nho giáo khá điển hình [617; 6]. Các quan hệ trong đời sống người dân và kể cả pháp luật thời kỳ này đều ít nhiều đậm nét Nho giáo. Điều đáng lưu ý là các tư tưởng Nho giáo này đều qua quá trình sàng lọc lịch sử, vì vậy nó chỉ được chấp nhận khi phù hợp với đạo đức, luân lý của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn đời nay. Nho giáo coi gia đình là cơ sở của xã hội. Nho giáo xác định “Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia” (Mạnh Tử - Ly lâu thượng 5) (tức: gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà). Nhà Nho Phan Bội Châu nêu ra: “Nước là cái nhà to, nhà là cái nước lớn” (Khổng học đăng) [140; 16]. Trong Tam cương, vua làm giường mối cho bầy tôi, cha làm giường mối cho con, chồng làm giường mối cho vợ, thì đã có hai điều nói về quan hệ gia đình. Trong Ngũ thường: 1- Quân quân thần thần, 2- Phụ phụ tử tử, 3- Huynh huynh đệ đệ, 4- Phu phu thê thê, 5- Bạn bè bằng hữu, thì cũng có 3 điều nói về mối quan hệ trong gia đình. Tam cương liên kết với Ngũ thường, là năm đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đây là những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo. 8 Những vấn đề luân lý đạo đức này được nhà Nguyễn điển chế thành các quy định pháp luật và truyền bá đến tận làng, xã. Mỗi khi triều đình ban bố huấn điều giáo điều thì lý trưởng, xã trưởng tập hợp nhân dân giảng giải cặn kẽ giáo điều để mọi người thấm nhuần, tuân thủ lễ giáo Nho giáo và xây dựng nên phong tục làng xã thuần hậu (Mỗi nhà nhân hậu thì cả nước dấy lên nhân hậu, mỗi nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ nhượng)... Đây là những nguyên nhân đã khiến nhà làm luật dự liệu hình phạt cả trong những vấn đề liên hệ đến quyền lợi của tư nhân trong gia đình như các vấn đề giá thú, nghĩa dưỡng, thừa kế v.v..., thiết tưởng chỉ cần nhấn mạnh rằng trạng thái ấy đã ghi nhận một sự đắc thắng của Nho giáo [456; 22]. Sự đắc thắng của Nho giáo càng có ý nghĩa hơn, nếu ta nhận định quan niệm pháp trị đã xâm lấn vào cả địa hạt luân lý, nghĩa là lãnh vực đáng lẽ phải dành riêng cho các giáo điều của nhân trị chủ nghĩa. Chính trong phạm vi của luân thường đạo lý, những sự xâm phạm vào các điều mà chủ nghĩa nhân trị coi là căn bản của gia đình hay cơ sở của nền tam cương ngũ thường cổ điển, lại được luật pháp coi là những tội đại ác. Do đó, các tội bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân được xếp ngang hàng với các trọng tội chính trị trong sự qui định tội thập ác, trong các bộ luật cổ của Trung Hoa cũng như của Việt Nam, từ bộ Hình luật nhà Lý, đến các bộ luật triều Lê, triều Nguyễn. Theo Điều 2 Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ (cũng là Điều 2 luật nhà Đường và nhà Thanh), tội thập ác là: 1. Mưu phản (mưu làm nghiêng đổ xã tắc, nghĩa bóng là mưu hại vua). 2. Mưu đại nghịch (mưu phá hủy tôn miếu, sơn lăng và cung quyết, nghĩa bóng là mưu hại đến tổ tiên nhà vua). 3. Mưu bạn (mưu phản nước theo giặc). 4. Ác nghịch (đánh đập hay mưu giết ông bà, cha mẹ, bác, chú, thím, cô, anh, chị, em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng). 5. Bất đạo (giết trong một nhà ba người không đáng phải tội chết; giết người chặt thây ra từng mảnh, bỏ thuốc độc bùa mê). 9 6. Đại bất kính (ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu, đồ ngự dụng, làm giả ấn ngự bảo, chế thuốc ngự không theo đúng phương, nấu ngự thiện (đồ ăn của vua) phạm vào những món ăn cấm, không giữ gìn thuyền ngự cho được chắc chắn, chỉ trích vua và đối với sứ giả nhà vua không giữ lễ của kẻ bầy tôi). 7. Bất hiếu (tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ; trái lời dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn ông bà cha mẹ; có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; được tin tang ông bà cha mẹ mà giấu, không tỏ nỗi xót thương; nói dối là ông bà cha mẹ chết). 8. Bất mục (giết hay đem bán những người trong họ từ hàng để tang ba tháng trở lên, đánh đập và tố cáo chồng, cùng những người trong họ từ hàng tang tiểu công (phải để tang từ 5 tháng trở lên)). 9. Bất nghĩa (giết quan cai trị đương tại chức trong địa hạt; giết thầy học; được tin tang chồng mà không thương xót, vui chơi ăn mặc như thường cùng là cải giá). 10. Nội loạn (gian dâm với người trong họ từ hàng tang tiểu công (tang 5 tháng) trở lên, cùng nàng hầu của ông cha)). Các tội thập ác được coi là những tội đại hung ác. Vì vậy những sự khoan hồng được dự liệu trong luật đều không áp dụng cho các tội này; thí dụ các người ở trong trường hợp bát nghị phạm tội thập ác, không được hưởng sự ưu đãi mà luật đã dành cho họ; tội thập ác không thể được chuộc bằng tiền, dù phạm nhân đã già quá 70 tuổi hay còn trẻ dưới 15 tuổi hoặc phế tật... Theo giáo lý của Nho giáo thì “gia giáo” rất mực được đề cao, “phụ phụ tử tử, huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ ấy thì “cha nhân từ, con có hiếu, anh rộng lượng, em kính trọng”. Hoàng Việt luật lệ nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm tôn ti, trật tự trong gia đình; Điều 76 Hoàng Việt luật lệ cấm “lập đích tử trái phép”, Điều 96 Hoàng Việt luật lệ xử phạt trường hợp “mất thứ bậc thê và thiếp” v.v... 10 Nho giáo chủ trương tuyệt đối phụ quyền gia trưởng nên pháp luật quy định cho người gia trưởng có uy quyền đối với mọi thành viên trong gia đình. Khi người vợ phạm phải các lỗi “thất xuất” thì người chồng được phép rẫy vợ. Điều 108 Hoàng Việt luật lệ quy định 7 trường hợp “thất xuất” là: vô tử, dâm dật, bất sự cậu cô, đa ngôn, đạo thiết, đố kỵ, ác tật. Trong khi đó người vợ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng. Con cái trong gia đình phải hiếu kính với cha mẹ, dưới quyền của người gia trưởng, theo cổ luật nói chung và Hoàng Việt luật lệ nói riêng, con cái trong gia đình không được phép có tài sản riêng. Điều này bắt nguồn từ luân lý Nho giáo, trong sách Lễ ký đã viết: “Phụ mẫu tại bất cảm hữu kỳ thân, bất cảm tư kỳ tài”, nghĩa là khi cha mẹ còn sống thì con cái không dám có đến cả thân thể của mình, cũng như không được có tài sản riêng tư. Điều 82 Hoàng Việt luật lệ minh thị quy định: “Phàm không phải ông bà cha mẹ cho phép, mà con cháu lập riêng sổ hộ tịch, chia gia sản thì phải bị phạt 100 trượng”. Chính sách pháp luật trên cơ sở Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội thời bấy giờ. Quan niệm thừa kế trong cổ luật có những khác biệt so với quan niệm thừa kế phương Tây hiện đại. Thừa kế trong bối cảnh phải giữ vững diện mạo của gia đình về lối sống luân lý, đạo đức. Bảo đảm được tôn ti, trật tự, củng cố được tình đoàn kết của gia đình, dòng tộc, đó mới là yếu tố cơ bản quan trọng. Vấn đề xây dựng nề nếp gia đình Nho giáo được nhà Nguyễn rất quan tâm. Hàng năm, lý trưởng, xã trưởng phải lập danh sách những người trong làng, xã thọ 100 tuổi với đàn ông, 80 tuổi với đàn bà, những gia đình tứ, ngũ đại đồng đường, những người con hiếu thuận với ông bà, cha mẹ, những người con gái, những người vợ tiết hạnh để triều đình kịp thời cấp biển biểu dương, phong tặng làm gương cho mọi người noi theo, xây dựng nên mỹ tục ở làng xã [80; 20]. - Quan niệm của Nho giáo về vấn đề tài sản Chế định thừa kế gắn liền với yếu tố tài sản. Nếu yếu tố gia đình là điều kiện “cần” thì yếu tố tài sản là điều kiện “đủ” để phát sinh quan hệ thừa kế. Tuy nhiên dưới góc nhìn của Nho giáo, vấn đề tài sản trong cổ luật hầu như không được đề cập đến. Vấn đề này có lý do của nó. 11 Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ chính trị - xã hội. Việc vun đắp tôn ti, tình cảm trong gia đình, từ đó phát triển lên trở thành những tình cảm và đức tính trọng đạo thờ vua, trị nước. Nho giáo khẳng định: Hiếu giả sở dĩ sự quân dã, để giả sở dĩ sự trưởng dã, từ giả sở dĩ sự chúng dã (Đại học, 9), nghĩa là Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Để là để phụng sự bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân chúng đấy. Ngoài việc xây dựng một gia đình bền vững, một xã hội luân lý thì đây còn là nguyên nhân chính khiến các triều đại phong kiến (triều Lê, triều Nguyễn) chọn Nho giáo làm cơ sở của pháp luật và đạo đức. Vì vậy, các bộ cổ luật được soạn ra để phục vụ trước hết là chế độ quân chủ nên phạm vi các quan hệ về tài sản trong đời sống pháp luật dân sự thường hay bị mặc tĩnh. Quyền hưởng di sản trong cổ luật không phải hướng tới quyền lợi cá nhân như ta thấy qui định ở trong luật phương Tây mà hướng đến quyền lợi lâu dài và sự bền vững của cả dòng họ, vì theo quan niệm triết lý phương Đông, “thiên hạ vi công” dưới gầm trời này không có gì là tư cả [110; 24]. Với ảnh hưởng của Nho giáo, xã hội Việt Nam thời bấy giờ tin là có sự điều hòa tự nhiên giữa vạn vật; vạn vật và xã hội loài người có một sự giao hòa tương cảm tương ứng rất mật thiết. Xã hội chỉ cần hoạt động theo đúng quy luật điều hòa của vạn vật là giữ được trật tự. Vì vậy, nhà làm luật khi đề cập đến vấn đề dân sự, tài sản chỉ cần quy định những điều gì liên quan đến sự điều hòa của vạn vật. Trong “di sản, thừa kế, thừa tự” chỉ cần không làm rối loạn các điều lễ - nghĩa, để trật tự đó trong vạn vật, trật tự xã hội khỏi bị tiêu tán. Vì vậy, nhà làm luật thường có thái độ mặc tĩnh đối với một số các quan hệ liên quan đến tài sản, thừa kế. Hoàng Việt luật lệ không quy định các vấn đề về di sản, tài sản của vợ chồng mà được bổ sung bằng các Đạo, Dụ... của các vua sau đó: Minh Mạng, Thiệu Trị,... Đây không phải là một bước thụt lùi so với Quốc triều Hình luật như một số ý kiến mà có thể lý giải là do thời Nguyễn sự ảnh hưởng của Nho giáo vào pháp luật đã sâu sắc hơn so với thời nhà Lê (chỉ bắt đầu nảy sinh từ thời vua Lê Thánh Tông [39; 58]). Nói như vậy không có nghĩa là nhà làm luật không quan tâm giải quyết những vấn đề này, mà 12 theo Nho giáo “dĩ hòa vi quý”, “một sự nhịn chín sự lành”, đã đưa các tranh chấp liên quan đến tài sản trở về giải quyết bằng tập quán, tục lệ. Gặp các trường hợp tranh chấp này, trước khi có pháp luật can thiệp thì đã có sự dàn xếp và uy quyền của người gia trưởng, xã trưởng... để giải quyết ổn thỏa mọi vấn đề. Trong xã hội cổ điển của ta, đức “nhượng” là đức tính của người hiền nhân, quân tử; đức tính ấy đã xóa nhòa quan niệm “quyền lợi cá nhân” khiến các tranh chấp liên quan đến tài sản luôn trong vòng lễ giáo và giữ đúng khuôn phép của đạo đức xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng. Quá trình lựa chọn và vay mượn tư tưởng Nho giáo để xây dựng Hoàng Việt luật lệ là một quá trình chọn lọc, có ý thức của nhà cầm quyền triều Nguyễn. Lựa chọn Nho giáo phải đặt trên cơ sở kinh tế xã hội đương thời, phù hợp với truyền thống và tục lệ của người dân Việt. Trong xã hội truyền thống, pháp lý có tính cách hình thức thiên về cưỡng bức; mà tục lệ lại là sự thể hiện cả cuộc sống nội tâm của con người, của xã hội. Con người Việt Nam lại giàu tình cảm, cuộc đời là sự thể hiện về tâm lực của người Việt Nam. Vì vậy, nếu pháp luật chỉ đơn thuần vay mượn các học thuyết Nho giáo của Trung Quốc mà không quan tâm gì đến truyền thống của dân tộc thì Hoàng Việt luật lệ không thể tồn tại đến gần một thế kỷ. Trong hội thảo quốc tế “Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành” được Viện nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) cùng với Viện Harvard - Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp tổ chức tại Thủ đô Hà Nội vào ngày 9 10/11/2007. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trình bày bài tham luận với nội dung liên quan đến Nho giáo dưới thời nhà Nguyễn đã nêu rõ: “Ngay từ khi được thiết lập, nhà Nguyễn đã phải đối phó với việc khẩn cấp xây dựng lại một xứ sở phần lớn bị tàn phá sau gần ba mươi năm nội chiến và biến loạn. Giải pháp lựa chọn bởi người sáng lập triều đại là tìm trong truyền thống Nho giáo các phương thức để tổ chức lại chế độ chính trị, và nhiệm vụ của các vị vua kế tiếp sẽ phải là gìn giữ những gì ông đã củng cố. Vì Trung Quốc là kiểu mẫu duy nhất có thể dự kiến, sự đồng nhất với ý thức hệ Khổng giáo và văn hóa Trung Hoa chính thống trở thành đường lối chính trị của chính phủ. Sự tập trung hành chánh 13 theo khuôn Trung Quốc một cách chặt chẽ hơn là trong quá khứ, với sự áp dụng nghiêm ngặt luật lệ Khổng giáo, là lợi khí nhà Nguyễn dùng để khắc phục các xu hướng ly tâm quân sự và chính trị tại các địa phương. Song phải nói là quá trình vay mượn này phản ánh lòng tin rằng Khổng giáo diễn đạt các kinh nghiệm toàn cầu chứ không phải của Trung Quốc mà thôi, đồng thời thể hiện phương sách kiểm tra xã hội và cai trị tiên tiến nhất. Như thế, các vua nhà Nguyễn không mong muốn mô phỏng theo thể chế Mãn Thanh cùng thời, mà là chế độ đã có trong các thời kỳ lịch sử vẻ vang trong quá khứ. Điều này giải thích tại sao biên niên sử nhà Nguyễn miêu tả vị quân vương Việt Nam trong thế kỷ XIX như là nhân vật bảo vệ học thuyết Khổng giáo chính thống, đứng trên cả vua nhà Thanh về mặt văn hóa” [368; 28]. Chứng minh cho vấn đề này, luận văn tìm hiểu địa vị pháp lý của người phụ nữ trong Nho giáo và thực tế trong xã hội xưa ở Việt Nam. Đối với học thuyết Nho giáo Cuộc sống vợ chồng là cơ sở tồn tại của gia đình. Nhưng xuất phát từ quan điểm coi trọng huyết thống và từ thái độ coi rẻ phụ nữ (xếp đàn bà và bọn tiểu nhân vào cùng một duộc là hạng người khó nuôi dạy), Nho giáo đặt tình nghĩa anh em cao hơn tình nghĩa vợ chồng. Vợ chết thì có thể lấy được vợ khác, chứ anh em không còn thì biết lấy gì mà thay thế? Phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều nhất những đau khổ, thiệt thòi do chế độ hà khắc, bất công và bất bình đẳng trong xã hội và trong gia đình gây nên. Bị dồn nén trong vòng cương tỏa của “tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh hiểu theo lúc bấy giờ), người phụ nữ chỉ biết phận mình là phải nép vào khuôn phép, biết tự kiềm chế, tự tước bỏ mọi ham muốn cá nhân, chịu “thuần dưỡng” để vâng lời, để nhường nhịn, để kiên nhẫn chịu đựng và hy sinh. Cô con gái ngay trước lúc về nhà chồng, đã được mẹ dặn: “Con về nhà của con (tức nhà chồng, thì nên kính nhường, giữ mình cho khéo, đừng trái ý chồng” (Vãng chi nhữ gia, tất kính, tất giới, vô vi phu tử). Phải đeo đẳng cái đạo lý “tam tùng” (tại gia tùng phụ, thích nhân tùng phu, phu tử tùng tử): ở nhà theo cha, qua nhà người theo chồng, chồng chết theo con. 14 Người đàn bà suốt đời bị phụ thuộc vào người đàn ông, dù người đó là cha, là chồng, hay là con trai của mình. Cũng không kém phần ác nghiệt, cái đạo lý về “tiết hạnh”! Người đàn ông có thể năm thê bảy thiếp, nhưng người đàn bà thì không thể lấy hai chồng, cũng ví như bậc trung thần không thể thờ hai vua! (Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất giá nhị phu). Người đàn bà chồng chết thì cứ phải ở vậy. Đi lấy chồng khác là thất tiết. Và theo Trình Y Xuyên, danh nho đời Tống, nếu người đàn ông lại đi cưới người đã thất tiết, thì chính mình là người thất tiết. (Nhược thú thất tiết giả dĩ phối thân, thị kỷ thất tiết dã). Kể cả những bà góa, nghèo đói, không nơi nương tựa, cũng không nên đi bước nữa, vì đói chết là việc cực nhỏ, thất tiết mới là việc cực lớn. (Nhiên ngạc tử sự cực tiểu, thất tiết sự cực đại). Học thuyết Nho giáo trên đây mặc dù được vận dụng vào Việt Nam nhưng nhà lập pháp triều Nguyễn đã điều chỉnh cho phù hợp với truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc ta. Hoàng Việt luật lệ và phong tục đối với đàn bà đã hòa hoãn bớt cái tính cách tàn nhẫn của Nho giáo. Theo Hoàng Việt luật lệ thì đàn ông có quyền thất xuất, nhưng lại có ba trường hợp khiến người chồng không thể bỏ vợ được, trừ khi vợ có tội ngoại tình, là: nếu vợ đã để tang cha mẹ chồng, nếu vợ đã làm nên giàu có, nếu ngoài nhà chồng ra vợ không còn chỗ nào nương tựa nữa. Nếu người chồng vô cớ mà bỏ vợ, hay nếu ở trong ba trường hợp ấy mà bỏ vợ, thì pháp luật trừng phạt. Gia dĩ Hoàng Việt luật lệ tuy cho phép chồng có quyền dùng của cải của vợ, vợ không bao giờ được kiện chồng, nhưng theo phong tục thì chồng chỉ được quản lý của ấy, nếu muốn cắt nhượng thì phải có vợ thuận tình. Nếu chồng tự tiện bán tài sản của vợ thì cha mẹ vợ có thể truy tố, cho nên những tài sản ấy bán mà vợ không ký tên hay điểm chỉ vào văn khế thì không ai dám mua. Theo luân lý xưa thì chồng có quyền đem bán vợ mà pháp luật thì cấm chồng không được bán vợ, bắt vợ làm thuê, hay là hạ vợ chính xuống hàng vợ hầu và đem vợ hầu lên hàng vợ chính. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan