Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố ...

Tài liệu Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự việt nam

.PDF
21
537
67

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại… Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Vấn đề giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03/3/1966 của TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 10 PLTTGQCVADS và Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS. Về cơ bản, việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết theo các quy định của pháp luật TTDS trước thời điểm BLTTDS được ban hành đều được thực hiện theo một thủ tục chung không tách thành thủ tục việc dân sự và thủ tục án dân sự. BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004 lần đầu tiên đã đưa quy định thủ tục giải quyết việc dân sự pháp điển hóa chính thức trong luật. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của BLTTDS. Có thể nói, đây là một bước đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc giải quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có tranh chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự... Bên cạnh những ưu điểm đạt được của việc áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thực tiễn thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã và đang đặt ra khá nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ cũng như cần có sự hướng dẫn thống nhất. Mặc dù thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của 2 BLTTDS, tuy nhiên phần nhiều các quy định của luật còn mang tính cô đọng, khái quát khá chung chung, thiếu vắng tính cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có sự thống nhất quan điểm dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi sự "tùy tiện chủ quan" trong việc áp dụng luật. Chính từ thực trạng này đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam. Với những lý do đó, việc nghiên cứu ″Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam″ có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Do trước đây, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết thường được giải quyết trong cùng một vụ án ly hôn hoặc một vụ án dân sự khác, cho đến thời điểm BLTTDS có hiệu lực, thủ tục này mới trở thành một thủ tục độc lập. Ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thủ tục này đã được một số tác giả đề cập đến như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: ″Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam″ của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: "Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân dân" của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học: ″Trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự″, Lê Thanh Huyền, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Một số các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: "Xác định thời điểm chết trong trường hợp tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật dân sự", Lê Hồng Hải, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004; ″Một số quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2005; ″Những vấn đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí TAND, số 11/2005; "Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự", Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, số 12/2006; "Tuyên bố một người là đã chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005", Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí TAND số 11/2009 …. Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về thủ tục giải quyết việc dân sự, 3 tiếp cận dưới một vài góc độ của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Với tình hình trên, đề tài "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích: Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS nói riêng, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong hoạt động xét xử của Tòa án; Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chưa hợp lý trong các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau để thực hiện được mục tiêu đề tài: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng; - Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam; - Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này. 4 * Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của TAND trong những năm gần đây. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của BLDS về tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên, cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo quy định của BLTTDS Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam - một vấn đề mới, đã và đang gặp nhiều vướng mắc từ thực tiễn xét xử. Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau đây: 5 Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn. Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học TTDS. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể giúp ích phần nào cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên...) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam nói riêng. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm ba chương: CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC LÀ ĐÃ CHẾT Mục tiêu của chương này nhằm trình bày một cách khái quát về cơ sở lý luận cơ bản của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Luận văn tập chung phân tích năm nội dung cơ bản của chương. 1.1. Khái quát về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự Tại mục này, Luận văn đã khái quát về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự, nêu và phân tích hai vấn đề chủ yếu: Khái niệm việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự; Đặc trưng của thủ tục giải quyết việc dân sự. 1.1.1. Khái niệm việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự - Tác giả đã tiến hành nghiên cứu khái niệm việc dân sự quy định tại Điều 311 6 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định về việc dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới như pháp luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga. Từ kết quả nghiên cứu đó, tác giả rút ra được bản chất của việc dân sự là không có tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp giữa các đương sự do các đương sự đã thỏa thuận với nhau về việc giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp và yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của sự thỏa thuận đó hoặc do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ có một bên đương sự yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý, công nhận hoặc không công nhận quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. - Lần đầu tiên tác giải xây dựng một khái niệm mới về thủ tục giải quyết việc dân sự dự trên cơ sở bản chất của việc dân sự và khái niệm thủ tục tố tụng: Thủ tục giải quyết việc dân sự là cách thức, trình tự Tòa án có thẩm quyền tiến hành để xem xét, giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. - Đưa ra trình tự tiến hành thủ tục giải quyết việc dân sự dựa trên các quy định tại tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của Bộ luật Tố tụng dân sự: + Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự; + Thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu; + Thủ tục mở phiên họp giải quyết việc dân sự; + Giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm. 1.1.2. Đặc trưng của thủ tục giải quyết việc dân sự Luận văn đã nêu và phân tích những đặc trưng của thủ tục giải quyết việc dân sự trên cơ sở so sánh với thủ tục giải quyết vụ án dân sự Thứ nhất, nguyên tắc giải quyết việc dân sự, nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử quy định tại Điều 11 BLTTDS không được áp dụng đối với việc giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, việc giải quyết việc dân sự thông thường do một thẩm phán giải quyết nên trong nhiều trường hợp nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể quy định tại Điều 14 BLTTDS cũng không được áp dụng khi giải quyết việc dân sự. Thứ hai, thành phần tiến hành tố tụng, thành phần giải quyết việc dân sự ở cấp sơ thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Thứ ba, sự tham gia tố tụng của Viện Kiểm sát nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự. 7 Thứ tư, những người tham gia tố tụng. - Đương sự trong việc dân sự, đương sự trong việc dân sự không hình thành nên các bên đương sự đối kháng nhau. - Việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự trong đó không đề cập đến sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu hay người có liên quan. Thứ sáu, về thời hạn tố tụng, thời hạn tố tụng giải quyết việc dân sự thường ngắn hơn so với thời hạn tố tụng giải quyết vụ án dân sự. Thứ bảy, về thủ tục giải quyết, thủ tục sơ thẩm giải quyết việc dân sự, pháp luật tố tụng dân sự không có quy định về thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị phiên họp và không có phần tranh luận của các bên đương sự tại phiên họp giải quyết việc dân sự. Theo quy định tại Điều 318 và Điều 280 BLTTDS, thủ tục phúc thẩm việc dân sự không mở công khai, không triệu tập người yêu cầu và những người có liên quan trừ khi Tòa án xét thấy cần thiết. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, bản án, quyết định của Tòa án về vụ án dân sự có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Quyết định giải quyết việc dân sự có được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay không vẫn là một vấn đề còn tranh luận. 1.2. Khái niệm về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết - Theo tác giả, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là trình tự, thủ tục tố tụng do Tòa án có thẩm quyền tiến hành để xem xét chấp thuận hay không chấp thuận yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết từ giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu đến khi quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có hiệu lực pháp luật. - Bản chất của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là yêu cầu Tòa án xác nhận một sự kiện pháp lý, từ sự kiện pháp lý đó sẽ là cơ sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khởi kiện đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong một vụ án. 1.3. Tuyên bố mất tích, tuyên bố chết từ quy định của Bộ luật dân sự đến quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Trong phần này, Luận văn tiến hành phân tích mối quan hệ mật thiết giữa pháp 8 luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự. Do đó, khi pháp luật dân sự thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật tố tụng dân sự. 1.4. Cơ sở của việc xây dựng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam Tại mục này, Luận văn nêu và phân tích các cơ sở của việc xây dựng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Theo đó, cơ sở của việc xây dựng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết bao gồm: 1.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Nhà nước pháp quyền là ″nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý″. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và chế định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật tố tụng dân sự nói riêng là đòi hỏi tất yếu của yêu cầu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 1.4.2. Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp Công cuộc cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta tiến hành, trong công cuộc cải cách tư pháp đó, Đảng ta khẳng định: ″Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự″. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc cải cách tư pháp. 1.4.3. Căn cứ từ nhu cầu thực tiễn trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Trước khi BLTTDS được ban hành và có hiệu lực, việc tuyên bố một người là đã chết thường được tiến hành đồng thời trong vụ án chia thừa kế của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết.Việc chia thừa kế tài sản của người bị tuyên bố là đã chết khi bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật sẽ dẫn đến hệ quả là chia thừa kế tài sản của một người còn sống. 1.5. Lược sử quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam Tác giải tiến hành nghiên cứu sự hình thành và phát triển về thủ tục giải quyết 9 yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam dựa trên bốn mốc thời gian cơ bản: 1.5.1. Giai đoạn trước năm 1945 Theo trình tự lịch sự, tác giả phân giai đoạn này thành hai thời kỳ: - Trước thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng cũng chưa phát triển. Do đó, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết chưa được định hình. - Thời Pháp thuộc, nước ta bị chia cắt thành các vùng lãnh thổ có chế độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ, ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng là nhượng địa của Pháp. Tương ứng với các chế độ chính trị khác nhau là hệ thống tổ chức tư pháp khác nhau và các bộ luật riêng biệt cũng được ban hành. Luật ở Trung phần và Bắc phần lần đầu tiên đã đề cập đến vấn đề tuyên cáo thất tung và thủ tục tuyên cáo thất tung, theo đó, ″nếu quá hai năm mà không có được tin tức chi của người đi mất biệt, thân nhân có thể xin Tòa án chỗ trú sở của người ấy để xác nhận sự thất tung. Tòa án này sẽ ra lệnh mở cuộc điều tra mà người đi mất chưa về hay không cho tin tức về thì Tòa sẽ lên án tuyên cáo thất tung...″ 1.5.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 - Từ năm 1945 - 1954, thủ tục tuyên cáo thất tung theo quy định trong các luật lệ trước đó vẫn được áp dụng. - Từ 1954 - 1975, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam, với hai chế độ chính trị khác nhau do đó tồn tại hai hệ thống pháp luật khác nhau. Ở miền Bắc, từ những năm đầu hòa bình lập lại Nhà nước ta đã ban hành một loạt những văn bản pháp luật TTDS mới và thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết bước đầu đã được đề cập đến trong Thông tư số 3-NCLP ngày 03 tháng 3 năm 1966 của TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, do phải tập trung lãnh đạo thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chưa có điều kiện xây dựng văn bản pháp luật. Trong khi đó, ở vùng cai trị của chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn thời gian đầu vẫn áp dụng những văn bản pháp luật TTDS được ban hành dưới thời Pháp thuộc. Từ năm 1960 trở đi, chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới, đặc biệt phải kể đến 10 Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng được ban hành kèm theo Sắc luật số 030-TT/SLU ngày 20 tháng12 năm 1972 của Tổng thống Việt Nam cộng hòa, Bộ Dân luật được ban hành kèm theo Sắc luật số 028/TT/SLU ngày 20 tháng 12 năm 1972 của Tổng thống Việt Nam cộng hòa. Theo đó, thủ tục tuyên bố thất tung đã được quy định một cách cụ thể hơn. Điều 569 Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng quy định: ″Sự thất tung sẽ được tuyên bố theo những điều kiện và thể thức ấn định trong Dân luật″ và tại Chương thứ nhất, Thiên bốn Bộ Dân luật quy định cụ thể về thủ tục tuyên bố thất tung. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, ngày 25 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 76-CP về việc hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước. Tuy nhiên trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1989 hầu như không có quy định mới nào về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hoặc là đã chết. 1.5.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 Năm 1989, để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử án dân sự, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Theo đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã quy định về thẩm quyền giải quyết việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết và thủ tục giải quyết việc này và Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/HĐTP) đã quy định cụ thể hơn về việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết. Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP thì Tòa án có thể giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết như một vụ án độc lập, không nhất thiết phải giải quyết cùng với việc giải quyết ly hôn hay một loại việc khác. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được thực hiện theo thủ tục giải quyết một vụ án thông thường. 1.5.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay Tại kỳ họp thứ năm, ngày 15 tháng 6 năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Theo đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của Bộ luật Tố tụng dân sự bên cạnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Tại Chương 11 XXIII và Chương XXIV Bộ luật Tố tụng dân sự lần lượt quy định cụ thể về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết. So với các quy định của pháp luật TTDS của các giai đoạn trước, Bộ luật Tố tụng dân sự đã có những kế thừa đồng thời cũng có những phát triển hoàn thiện hơn về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. CHƯƠNG 2 THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC LÀ ĐÃ CHẾT THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Tại chương này, trên cơ sở luật thực định, Luận văn đi sâu phân tích trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 2.1. Thụ lý yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Thụ lý yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là việc Tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và vào sổ thụ lý việc dân sự để giải quyết. Khi nhận được đơn yêu cầu, Tòa án cần xem xét các điều kiện như: người yêu cầu có quyền yêu cầu hay không? Yêu cầu đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình hay không? Đơn yêu cầu có phù hợp về mặt hình thức hay không? ... trên cơ sở đó, Toà án sẽ ra một trong các quyết định sau: - Thụ lý đơn yêu cầu nếu yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; - Chuyển đơn yêu cầu cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người yêu cầu, nếu yêu cầu này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác; - Trả lại đơn yêu cầu cho người yêu cầu, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. 2.2. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết phải tiến hành các công việc sau: 12 - Ra thông báo thụ lý đơn yêu cầu cho người yêu cầu, người có liên quan, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp. - Tiến hành nghiên cứu đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ mà người yêu cầu gửi kèm theo đơn yêu cầu. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ chưa đủ cơ sở để giải quyết thì thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. - Thông báo tìm kiếm và công bố thông báo đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích. - Thực hiện một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự. - Ra một số quyết định như: Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; Quyết định tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết ... 2.3. Phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Khi hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Tòa án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Cụ thể, trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hết thời hạn công bố thông báo đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc trong thời hạn mười ngày kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp đối với yêu cầu tuyên bố một người là đã chết Toà án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. 2.3.1. Những người tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết - Thành phần giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết do một thẩm phán giải quyết. - Người yêu cầu, người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu. Khi thấy cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng, người phiên dịch tham gia phiên họp. Nếu những người này vắng mặt thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án có thể hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 2.3.2. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được tiến hành theo trình tự sau: 13 - Chuẩn bị khai mạc phiên họp: Thư ký toà án tiến hành phổ biến nội quy phiên họp; kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án; nếu có người vắng mặt thì cần phải làm rõ lý do; ổn định trật tự trong phòng họp xét đơn yêu cầu; yêu cầu mọi người trong phòng họp xét đơn yêu cầu đứng dậy khi thẩm phán được phân công giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết vào phòng họp. - Khai mạc phiên họp: Thẩm phán – Chủ tọa phiên họp tuyên bố khai mạc phiên họp và đọc quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên họp theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của họ, quyết định hoãn hoặc vẫn tiến hành phiên họp ... - Thủ tục hỏi tại phiên họp: Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp hỏi người yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có rút yêu cầu không. Nếu họ rút yêu cầu thẩm phán sẽ áp dụng Điều 311 và Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Nếu họ không rút yêu cầu thì Chủ tọa phiên họp xét đơn yêu cầu yêu cầu người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày cụ thể về yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, lý do, căn cứ, lý lẽ, lập luận để chứng minh cho yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Sau đó, người làm chứng trình bày ý kiến của mình về những vần đề mà họ biết .... Sau khi nghe những người tham gia tố tụng trình bày yêu cầu, ý kiến của mình, nếu thấy vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thẩm phán sẽ hỏi thêm. Trường hợp có người vắng mặt thì thẩm phán sẽ cho công bố công khai tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp hoặc đã khai với Tòa án. Các đương sự, thẩm phán, kiểm sát viên có thể xem xét tài liệu, chứng cứ đã và mới xuất trình tại phiên họp. Nếu thẩm phán thấy không cần phải làm rõ thêm vần đề gì nữa thì yêu cầu đại diện VKSND phát biểu ý kiến. - Trên cơ sở lời trình bày của những người tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, các căn cứ, tài liệu được xem xét tại phiên họp xét đơn yêu cầu, thẩm phán - Chủ tọa phiên họp xét đơn yêu cầu phải xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu. Nếu chấp nhận yêu cầu thì Tòa án phải ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 2.3.3. Quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là văn 14 bản pháp lý kết thúc quá trình chuẩn bị, xem xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Trong đó, Tòa án xác định rõ có hay không sự mất tích hoặc là đã chết của một người từ đó chấp nhận hay không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 2.4. Thủ tục xét đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 2.4.1. Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Khác với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, khi người bị tuyên bố mất tích hoặc là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án đã ra quyết định tuyên bố người đó mất tích hoặc là đã chết hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 2.4.2. Xét đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Khi nhận đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, Tòa án cũng tiến hành các thủ tục thụ lý đơn yêu cầu, chuẩn bị xét đơn yêu cầu giống như khi tiếp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và tiến hành mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Trên cơ sở xem xét các chứng cứ, tài liệu do các đương sự cung cấp cho Tòa án, Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu. 2.5. Giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo thủ tục phúc thẩm 2.5.1. Quyền kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Khi không đồng ý với quyết định định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, người yêu cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có quyền kháng 15 cáo, VKSND cùng cấp, VKSND cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết để yêu cầu TAND cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 2.5.2. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 2.5.2.1. Thời hạn kháng cáo Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS, thời hạn kháng cáo đối với quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là bảy ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Trong trường hợp họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết thì thời hạn bảy ngày được tính từ ngày họ nhận được quyết định hoặc quyết định đó được thông báo, niêm yết 2.5.2.2. Thời hạn kháng nghị Theo quy định tại khoản 2 Điều 317 BLTTDS, thời hạn kháng nghị đối với quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của VKSND cùng cấp là bảy ngày, của VKSND cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 2.5.3. Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết bị kháng cáo, kháng nghị - Tòa án có thẩm quyền giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết khi có kháng cáo, kháng nghị là TAND cấp trên trực tiếp của Tòa án đã giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo thủ tục sơ thẩm. 16 - Thành phần xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một tập thể gồm ba thẩm phán. - Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự nói chung, quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng được thực hiện như thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về vụ án dân sự bị kháng cáo kháng nghị. CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC LÀ ĐÃ CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Tại chương này, luận văn nêu rõ thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và đề xuất phương hướng hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS Việt Nam về thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và những khó khăn đặt ra 3.1.1. Tình hình giải quyết việc dân sự của ngành tòa án nhân dân Qua nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng số việc dân sự nói chung và yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng có xu hướng tăng năm sau nhiều hơn năm trước, số việc dân sự còn tồn đọng cũng tăng theo. Qua tìm hiểu từ thực tiễn xét xử, nguyên nhân chính của tình trạng này xuất phát từ sự thiếu vắng, không đầy đủ, cụ thể của các quy định về thủ tục việc dân sự trong BLTTDS. 3.1.2. Những khó khăn khi áp dụng những quy định của BLTTDS Việt Nam trong thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Luận văn đã nêu ra một số khóa khăn khi áp dụng những quy định của BLTTDS Việt Nam trong thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Cụ thể: 17 - Khó khăn trong việc xác định đương sự trong việc dân sự nói chung và yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. - Khó khăn trong việc xác định có tiến hành thủ tục hòa giải khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết không. - Khó khăn trong việc tiến hành thủ tục thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu. - Khó khăn trong việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết trong quyết định tuyên bố một người là đã chết. - Khó khăn trong việc xác định quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; quyết định giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết khi có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm không. 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.1. Nguyên tắc và yêu cầu hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam Với tư cách là một chế định của pháp luật TTDS, việc hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một tất yếu của quá trình hoàn thiện pháp luật TTDS. Tác giả đã xác định rõ các nguyên tắc định hướng đối với việc hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam: - Hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết cần dựa trên những chủ trương lớn của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng mà đặc biệt là Nghị quyết lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 - Hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết cần dựa trên thực trạng pháp luật về chế định thủ tục giải quyết yêu cầu 18 tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết ở nước ta hiện nay, dựa trên kinh nghiệm của các nước cũng như của Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật. 3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.2.1. Về quy định chung về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự - Bổ sung khái niệm đương sự trong việc dân sự, thành phần đương sự trong việc dân sự. Đồng thời bổ sung các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc dân sự - Sửa đổi bổ sung quy định về hòa giải trong thủ tục giải quyết việc dân sự theo hướng bổ sung một điều tại Chương XX BLTTDS về nguyên tắc hòa giải khi giải quyết việc dân sự , theo đó, Tòa án không tiến hành hòa giải đối với các việc dân sự trừ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. - Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 313 BLTTDS theo hướng trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng thì Tòa án đều phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự - Sửa đổi quy định về sự tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự của người có liên quan theo hướng tách đoạn ″Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Toà án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp″ tại khoản 4 Điều 313 BLTTDS thành một khoản khác tại điều này. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 313 BLTTDS sau khi đã tách theo hướng quy định Tòa án phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự khi người có liên quan vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay khong có lý do chính đáng. - Cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng Tiểu mục 1.2, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm" của BLTTDS để ra quyết định hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự khi đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự đến lần thứ hai nhưng do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể có mặt tại phiên họp. 19 - Bổ sung quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định giải quyết việc dân sự theo hướng quy định rõ quyết định giải quyết việc dân sự không bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi phát hiện ra "có vi phạm pháp luật nghiêm trọng" 3.2.2.2. Sửa đổi một số quy định khác về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết - Sửa đổi điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS theo hướng quy định rõ: không áp dụng thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết và một số việc dân sự khác như yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật ... - Sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Theo đó, sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 35 BLTTDS theo hướng quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là Tòa án nơi cư trú cuối cùng của người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết trước khi người đó biệt tích hoặc trước khi không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống. - Sửa đổi quy định về những tài liệu chứng cứ phải nộp kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích theo hướng bỏ cụm từ ″và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm″ tại khoản 3 Điều 330 BLTTDS. - Sửa đổi quy định về thông báo tìm kiếm người mất tích quy định tại khoản 1 Điều 331 BLTTDS theo hướng quy định rõ Tòa án không phải mở phiên họp để ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. - Bổ sung quy định về thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. - Sửa đổi, bổ sung quy định về người có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo hướng bỏ quy định người người đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết khi trở về có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mình là đã chết. Đồng thời, bổ sung quy định người có quyền, lợi ích liên quan có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết khi người đó trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống. Bên cạnh đó, cũng cần hướng dẫn các cơ quan, tổ chức hữu quan như: Ủy ban nhân dân nơi người 20 người bị tuyên bố mất tích hoặc đã chết cư trú, cơ quan tiến hành tố tụng … cần áp dụng Điều 311 và Điều 162 BLTTDS yêu cầu TAND có thẩm quyền hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 3.2.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.3.1. Sửa đổi quy định tại Điều 78 BLDS năm 2005 theo hướng bỏ cụm từ "mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết" tại Điều 78 BLDS năm 2005 3.2.3.2. Sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 81 BLDS năm 2005 theo hướng cần xác định ngày chết phân biệt theo hai trường hợp: - Trường hợp ngày chết không xác định được chính xác: Việc tuyên bố chết trong trường hợp này không xác định được cụ thể thời điểm chết mà dựa trên cơ sở điều kiện cần và đủ theo quy định của pháp luật để tuyên bố một người là đã chết. Vì vậy, khi rơi một trong các căn cứ quy định tại điểm a, b hoặc điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS thì ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết phải được xác định là ngày quyết định tuyên bố chết có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp ngày chết được xác định tương đối chính xác: đó là trường hợp một người có mặt trong một vụ tai nạn như máy bay bị rơi, tàu bị chìm hoặc trong vùng bị thiên tai như động đất, lũ lụt ... mà sau các nỗ lực tìm kiếm vẫn không có tin tức người đó là còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Trong trường hợp này, ngày chết được xác định là ngày xảy ra tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó. 3.2.4. Đổi mới hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực xét xử cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư KẾT LUẬN Việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết không phải là việc mới trong TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, với sự ra đời của BLTTDS, loại việc này được tiến hành theo một thủ tục đặc biệt - thủ tục giải quyết việc dân sự tồn tại song hành và độc lập
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan