Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự việt n...

Tài liệu Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự việt nam

.PDF
151
1
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ KHUYÊN THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN KHI XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN KHI XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Định hướng nghiên cứu Mã số cn: 60380103 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS.Vũ Thị Hồng Yến Học viên : Nguyễn Thị Khuyên Lớp : Cao học Luật, Khóa 34 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ này là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Tất cả nội dung thể hiện trong công trình này đều do sự tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu một cách trung thực, khách quan không sao chép từ bất kỳ nguồn nào mà không được trích dẫn theo đúng quy định. Các bản án, số liệu khác (nếu có) được sử dụng phân tích trong luận văn thạc sỹ này có nguồn gốc rõ ràng và đã công bố theo đúng quy định. Mọi kết quả nghiên cứu cũng như ý tưởng của các tác giả khác, nếu có đều được trích dẫn rõ ràng và đúng quy định. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên. Tác giả Nguyễn Thị Khuyên DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự BPBĐ Biện pháp bảo đảm GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GDBĐ Giao dịch bảo đảm HĐTCQSDĐ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất HĐXX Hội đồng xét xử TÒA ÁN NHÂN DÂN Tòa án nhân dân ỦY BAN NHÂN DÂN UBND MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN KHI XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM............................................................................................................ 7 1.1. Tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm.............................................. 7 1.1.1. Tài sản bảo đảm ..................................................................................... 7 1.1.2. Xử lý tài sản bảo đảm .......................................................................... 11 1.2. Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm.......................... 17 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của quyền ưu tiên thanh toán ............ 17 1.2.2. Căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm ...................................................... 19 1.2.3. Quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong mối quan hệ với các chủ thể khác có quyền đối với tài sản bảo đảm của bên bảo đảm .... 30 Kết luận Chương 1 ............................................................................................. 38 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN KHI XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM ......................................................................................... 39 2.1. Về căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm .................................................................................................................. 39 2.1.1. Về xác định thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba ............................................................................................. 39 2.1.2. Về thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán .......................................................................................... 47 2.1.3. Về hệ quả pháp lý khi các biện pháp bảo đảm phải đăng ký theo quy định của pháp luật nhưng không đăng ký ...................................................... 49 2.2. Về quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm ..................... 51 2.2.1. Về quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận thế chấp đối với số tiền thu được từ việc xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong trường hợp không thế chấp đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ..................................................................................................... 51 2.2.2. Về quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong mối quan hệ với các chủ thể khác có quyền và lợi ích đối với tài sản bảo đảm ................ 56 Kết luận Chương 2 ............................................................................................. 63 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong đời sống dân sự, việc chủ thể này vay một khoản tiền hoặc phát sinh các khoản nợ (nghĩa vụ) đối với chủ thể khác là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, việc xác lập các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ là hoạt động phổ biến nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ (hay bên có quyền) trong trường hợp con nợ (bên có nghĩa vụ) không thanh toán (hay không thực hiện nghĩa vụ). Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ, trường hợp xác lập biện pháp bảo đảm bằng tài sản thì tài sản bảo đảm sẽ bị xử lý để thanh toán cho bên có quyền. Khi xử lý tài sản bảo đảm sẽ đặt ra vấn đề xác định thứ tự ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong trường hợp có sự xuất hiện của nhiều bên có quyền. Việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán đối với tài sản bảo đảm là vấn đề thường gặp trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm. Trên thực tế, một trong các nội dung chủ yếu và quan trọng đặt ra là pháp luật dân sự phải quy định chính xác, toàn diện và triệt để thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm, đó là, giữa các bên nhận bảo đảm bằng tài sản với nhau, giữa bên nhận bảo đảm bằng tài sản với các chủ thể khác, kể cả các cơ quan Nhà nước nhằm đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể này. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, góp phần đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch bảo đảm, qua đó, tạo điều kiện cho bên có quyền (bên nhận bảo đảm) khắc phục những thiệt hại một cách nhanh chóng và hiệu quả khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, một số luật cũng đã có quy định giải quyết quyền của bên nhận bảo đảm bằng tài sản với các chủ thể khác có liên quan như Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Phá sản năm 2014... Tuy nhiên, quy định về quyền ưu tiên khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn một số bất cập cần sớm được khắc phục nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. 2 Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ: “Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam” là cần thiết nhằm nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm và giữa bên nhận bảo đảm với các chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm; phân tích những điểm hạn chế, bất cập, từ đó xây dựng các kiến nghị hoàn thiện, qua đó góp phần giải quyết vướng mắc phát sinh trong thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả nhận thấy, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu một số vấn đề pháp lý liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài “Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam”, cụ thể như sau: - Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn (2018), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập II, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Trong Giáo trình này, các tác giả đề cập đến các vấn đề pháp lý như nghĩa vụ dân sự và hợp đồng; các hợp đồng dân sự thông dụng; thực hiện công việc không có ủy quyền, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tại mục B chương VI, từ trang 58 đến trang 108 của Giáo trình này đã phân tích những quy định BLDS năm 2015 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm. - Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam. Nội dung của Sách chuyên khảo này là bình luận và phân tích những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS trước đây, đặc biệt là BLDS năm 2005. Trong Sách chuyên khảo này, ở Chương 3 Phần II, từ trang 311 đến trang 335, tác giả có phân tích, bình luận những điểm mới của BLDS năm 2015 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó có vấn đề pháp lý về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm. - Đỗ Văn Đại (2021), Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong sách chuyên 3 khảo này, tác giả nghiên cứu các bản án liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ở Việt Nam và phân tích về các bản án này theo góc độ quy định của pháp luật, hướng xét xử của Tòa án, so sánh với pháp luật nước ngoài, từ đó đưa ra những nhận xét và hướng hoàn thiện về từng vấn đề pháp lý. Một số vấn đề pháp lý có liên quan đến đề tài luận văn đã được đề cập trong cuốn sách như: quyền được ưu tiên thanh toán; một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ; xử lý số tiền thu được từ việc bán tài sản thế chấp, cầm cố... - Đỗ Văn Đại (2014), Luật Nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam Bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong sách chuyên khảo này, tác giả phân tích các bản án có liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, từ đó đưa ra những nhận xét và đề xuất hoàn thiện pháp luật. Trong Sách chuyên khảo này, tác giả đã phân tích một số vấn đề pháp lý có liên quan đến đề tài luận văn như quyền được ưu tiên thanh toán; đăng ký giao dịch bảo đảm và quan hệ với người thứ ba; giá trị pháp lý của giao dịch bảo đảm không phải đăng ký... - Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội. Cuốn sách chuyên khảo này giới thiệu và bình luận những nội dung của BLDS năm 2005. Tuy Sách chuyên khảo này phân tích và bình luận BLDS năm 2005 nhưng có nhiều nội dung vẫn là nguồn tham khảo có giá trị khi phân tích và bình luận nội dung quy định liên quan của BLDS năm 2015, trong đó có nội dung liên quan đến đề tài luận văn. - Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, Nhà xuất bản Tư pháp. Sách chuyên khảo này giới thiệu những nội dung của BLDS năm 2015 thông qua việc phân tích, bình luận từng điều luật và đưa ra một số ví dụ thực tiễn để phân tích và diễn giải cho tinh thần của điều luật. Các tác giả cũng phân tích, đánh giá, nhận định tính phù hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa các quy định trong BLDS năm 2015 và các quy định pháp luật khác có liên quan (nhất là ở những điểm còn chưa thống nhất), trong đó có các quy định liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên. - Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Nội dung của Sách chuyên khảo này là phân tích làm rõ nội dung từng điều luật của BLDS năm 4 2015; bình luận các nội dung tiến bộ và phù hợp với thực tiễn, những nội dung còn hạn chế, bất cập, từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện. - Trương Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền (2017), Bộ luật dân sự năm 2005 và 2015 Phân tích – Đối chiếu, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật. Trong Sách chuyên khảo này, các tác giả đã phân tích, so sánh và bình luận những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005. Trong Sách chuyên khảo này, ở Chương II.C.I, từ trang 164 đến trang 185, các tác giả đã phân tích, so sánh, đối chiếu và bình luận những bất cập trong BLDS năm 2005 và những điểm mới của BLDS năm 2015 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó có vấn đề pháp lý về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm. - Nguyễn Quang Hương Trà (2016), “Một số điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật dân sự năm 2015”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 3(288) – 2016. Bài viết này giới thiệu những điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của BLDS năm 2015 trong sự so sánh với quy định của BLDS năm 2005. Khi phân tích những điểm mới, tác giả có so sánh với pháp luật thế giới để đánh giá mức độ hoàn thiện trong quy định của BLDS năm 2015; đồng thời đưa ra quan điểm và bình luận. - Phùng Bá Đáng (2020), “Hoàn thiện quy định về xác định thứ tự quyền ưu tiên thanh toán trong Nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề về “Xây dựng Nghị định của Chính phủ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu về xác định thứ tự quyền ưu tiên thanh toán trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thông lệ quốc tế và liên hệ đến việc hoàn thiện quy định về xác định thứ tự quyền ưu tiên thanh toán trong Nghị định của Chính phủ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. - Hồ Quang Huy, “Các quy định của chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự năm 2015”, https://quangtri.toaan. gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND056532, ngày truy cập 16/06/2022. Bài viết này, tác giả đã phân tích các quy định của chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS năm 2015, có so sánh với quy định của BLDS năm 2005. 5 Các công trình khoa học trên không trùng với đề tài luận văn “Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả nhưng có nội dung nghiên cứu liên quan đến đề tài. Những vấn đề về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm không được các công trình khoa học này nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống. Tuy nhiên, các quan điểm khoa học của các tác giả nêu trên là nguồn tham khảo có giá trị cho tác giả khi nghiên cứu các nội dung liên quan của đề tài. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài “Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam” nhằm phân tích, đánh giá quy định của pháp luật dân sự Việt Nam; thực tiễn xét xử tại Tòa án trong sự so sánh với quy định của một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Nhật Bản, từ đó rút ra một số điểm hạn chế, bất cập và giải pháp hoàn thiện. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm với trọng tâm là quy định của BLDS năm 2015, các luật khác liên quan trong sự so sánh với quy định của BLDS năm 2005 và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. Thực tiễn giải quyết của Tòa án liên quan đến xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm cũng được luận văn nghiên cứu, phân tích, để từ đó có những nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện hơn quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là các hạn chế, bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện. 5. Phương pháp nghiên cứu Tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu phù hợp trong luận văn như: Phương pháp phân tích kết hợp với bình luận được sử dụng để làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hóa thực trạng áp dụng pháp luật về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; Phương pháp so sánh được áp dụng để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp luật của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới, giữa nội dung của pháp luật qua các thời kỳ khác nhau; Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm làm 6 sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm nhìn từ thực tiễn áp dụng... 6. Những đóng góp mới của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam. Kết quả của việc nghiên cứu đề tài có thể đem lại những đóng góp mới về các khía cạnh pháp lý, mức độ hoàn thiện của pháp luật và thực tiễn áp dụng về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện khung pháp luật dân sự Việt Nam trong lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn gồm hai chương: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật dân sự Việt Nam. Chương 2. Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN KHI XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. Tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm 1.1.1. Tài sản bảo đảm (i) Khái niệm tài sản bảo đảm Tài sản bảo đảm là đối tượng của hoạt động xử lý, nó chính là phương tiện (lượng vật chất) để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận bảo đảm khi nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm.1 Do đó, xác định tài sản bảo đảm có mối liên hệ và ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm. Khác với BLDS năm 2005 dành tới 3 điều luật (Điều 320, Điều 321, Điều 322) quy định về tài sản bảo đảm là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, BLDS năm 2015 quy định khái quát chung trong một điều luật về tài sản bảo đảm. Theo Điều 295 BLDS năm 2015, “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.”. Trên phương diện sở hữu, nguyên tắc chung được ghi nhận tại Điều 295 BLDS năm 2015 đó là, tài sản bảo đảm “phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm”, trừ hai trường hợp rất đặc thù, đó là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu. Quy định này nhằm đảm bảo việc xử lý tài sản bảo đảm thông qua hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản bảo đảm để thu hồi giá trị tài sản bảo đảm bù đắp cho giá trị nghĩa vụ bị vi phạm. Về loại hình, tài sản bảo đảm có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản; có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Việc xác định trạng thái “hiện có” và “tương lai” của tài sản bảo đảm được thực hiện theo nguyên tắc chung ghi nhận tại Điều 108 BLDS năm 2015. Theo đó, tài sản hiện Vũ Thị Hồng Yến (2013), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 29. 1 8 có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch, còn tài sản hình thành trong tương lai bao gồm: (i) Tài sản chưa hình thành; (ii) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch. Riêng đối với tài sản bảo đảm là nhà, công trình xây dựng, việc xác định tài sản có sẵn, tài sản hình thành trong tương lai còn chịu sự điều chỉnh của Luật Nhà ở năm 2014 (khoản 18, 19 Điều 3), Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 (khoản 3, khoản 4 Điều 3). Về giá trị của tài sản bảo đảm, so với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định về giá trị của tài sản bảo đảm tại khoản 4 Điều 295 với nguyên tắc “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.”. Quy định này thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận của các bên, góp phần hạn chế tình trạng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm khi công chứng hợp đồng bảo đảm hoặc đăng ký biện pháp bảo đảm. Từ những khía cạnh pháp lý nêu trên của tài sản bảo đảm, có thể hiểu, tài sản bảo đảm là vật hoặc quyền tài sản được bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm thỏa thuận dùng để bảo đảm quyền của bên nhận bảo đảm khi nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm2. (ii) Một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ Để đảm bảo khai thác tối đa giá trị của tài sản bảo đảm, Điều 296 BLDS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc, một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Quy định này kế thừa quy định của Điều 324 BLDS năm 2005. Theo khoản 1 Điều 296 BLDS năm 2015, điều kiện để một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ là giá trị của tài sản tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Khi dùng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ tiếp theo, bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải 2 Vũ Thị Hồng Yến (2013), tlđd (1), tr. 30. 9 được lập thành văn bản. (khoản 2 Điều 296 BLDS năm 2015). Đây là nghĩa vụ có tính chất bắt buộc của bên bảo đảm vì việc tài sản đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác tác động trực tiếp đến quyền của bên dự định giao kết cũng như việc quyết định có chấp nhận dùng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ tiếp theo không3. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho bên nhận bảo đảm có đầy đủ thông tin cần thiết về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm4. Trên thực tế, nghĩa vụ thông báo này chỉ có ý nghĩa trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm cho nhiều bên nhận bảo đảm khác nhau; đối với trường hợp chỉ bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ tại một người nhận bảo đảm thì nghĩa vụ thông báo này không cần thiết và không có ý nghĩa5. Quy định về việc một tài sản được dùng để bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ là tiếp cận hợp lý của BLDS năm 2015. Hệ quả của việc một tài sản được dùng để bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ là có nhiều bên nhận bảo đảm cùng có quyền được bảo đảm trên cùng một tài sản. Điều này đặt ra yêu cầu về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm đối với giá trị tài sản bảo đảm thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, vẫn còn có quan điểm tiếp cận khác nhau về việc dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thể hiện trong các bản án dưới đây. Vụ việc thứ nhất: Công ty Oanh Hoàng “đã dùng 02 bộ hồ sơ xe máy ủi bánh xích D5 và 11 bộ hồ sơ xe ô tô thế chấp cho ông Thiện. Nhưng trong 13 bộ hồ sơ nói trên có 08 chiếc xe bà Tạ Thị Kim Huệ đã thế chấp cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Chợ Mới”6. Tại Bản án số 06/2012/KDTM-ST ngày 12 tháng 04 năm 2012 7, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thừa nhận cả hợp đồng thế chấp cho ngân hàng và hợp đồng thế chấp cho ông Thiện khi quyết định: “Nếu Công ty vận tải và dịch vụ thương mại Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr. 491. 4 Hồ Quang Huy, “Các quy định của chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự năm 2015”, https://quangtri.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND056532, ngày truy cập 16/06/2022. 5 Đỗ Văn Đại (2021), Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam Bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản Hồng Đức, tập 1, tr. 159. 6 Bản án số 06/2012/KDTM-ST ngày 12 tháng 04 năm 2012 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. 7 Phụ lục 5. 3 10 Oanh Hoàng không thanh toán được nợ thì các tài sản thế chấp sau (...) bị phát mãi để thu hồi nợ trả cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam theo quy định của pháp luật. Sau khi Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam thu hồi nợ xong, ông Thiện có quyền yêu cầu phát mãi trong các tài sản nói trên và các tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty TNHH vận tải và dịch vụ thương mại Oanh Hoàng để thu hồi nợ.”. Vụ việc thứ hai: Vợ chồng anh Thành mua căn nhà số 40 Quốc Hương và “thế chấp chính căn nhà này để vay tiền trả cho người bán giữa năm 2011 thì làm thủ tục đáo hạn và vay lại; năm 2016 không có khả năng thanh toán nên đồng ý để Ngân hàng xử lý tài sản thu hồi nợ... Quá trình tố tụng, anh Thành đều trình bày thống nhất lý do anh ký vào tờ cam kết ngày 22/6/2012 là với tư cách con của ông Mai, bà Tín theo yêu cầu của ông Ý chứ không có cam kết gì với ông Ý về việc trả nợ thay hay bảo lãnh cho ông Mai, bà Tín”8. Tại Quyết định số 257/2018/DS-GĐT ngày 24 tháng 08 năm 2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh 9 nhận định: “Tại thời điểm bà Tín, ông Mai, anh Thành, chị Vân ký giấy cam kết thì căn nhà nêu trên vẫn đang được đồng chủ sở hữu là anh Thành, chị Hạnh thế chấp tại Ngân hàng và thực tế đến năm 2016 anh Thành, chị Hạnh không trả được nợ nên đồng ý để Ngân hàng xử lý bán tài sản này để thanh toán nợ. Do căn nhà số 40 Quốc Hương của anh Thành, chị Hạnh chỉ đảm bảo được cho một khoản vay tại Ngân hàng nên cũng không thể bảo lãnh cho khoản vay khác (khoản vay của ông Mai, bà Tín) theo quy định tại các Điều 361, 362, 363 Bộ luật Dân sự”. Như vậy, khác với vụ việc thứ nhất, trong vụ việc này, tòa án lại ra phán quyết theo hướng không thừa nhận việc dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Hướng xử lý này của Tòa án là không phù hợp với quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 324 BLDS năm 2005 (được BLDS năm 2015 kế thừa tại khoản 1 Điều 296). Quyết định số 257/2018/DS-GĐT ngày 24 tháng 08 năm 2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 9 Phụ lục 13. 8 11 Việc thừa nhận hay không thừa nhận một tài sản được dùng để bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định quyền của bên nhận bảo đảm tiếp theo. Bởi lẽ, nếu không công nhận hiệu lực của hợp đồng bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ tiếp theo sẽ dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bên nhận bảo đảm tiếp theo sẽ không được bảo vệ, đồng thời không khai thác và phát huy được tối đa giá trị của tài sản bảo đảm trong giao lưu dân sự. 1.1.2. Xử lý tài sản bảo đảm (i) Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm Theo Điều 299 BLDS năm 2015, việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện khi nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm hoặc trong các trường hợp khác do luật quy định. Để đảm bảo quyền của bên nhận bảo đảm khi nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm, việc xử lý tài sản bảo đảm có thể được thực hiện thông qua cơ chế bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm hoặc tài sản bảo đảm sẽ được bán để thu lại khoản tiền dùng để bù đắp cho giá trị nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm (Điều 303 BLDS năm 2015). Bên cạnh đó, trong một số trường hợp đặc thù, việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện nhằm thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm. Từ những phân tích trên, một cách khái quát nhất, có thể hiểu, xử lý tài sản bảo đảm là việc chuyển quyền sở hữu tài sản bảo đảm cho chính bên nhận bảo đảm hoặc bên thứ ba để thu về khoản tiền thanh toán cho bên nhận bảo đảm, các chủ thể khác cùng có quyền và lợi ích trên tài sản bảo đảm theo thứ tự ưu tiên do pháp luật quy định10. (ii) Chủ thể có quyền xử lý tài sản bảo đảm Tài sản được dùng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng tài sản bị vi phạm, bên nhận bảo đảm sẽ là chủ thể có quyền xử lý tài sản bảo đảm. Theo Điều 301 BLDS năm 2015, “Người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này.”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 314 BLDS năm 2015 quy định, bên 10 Vũ Thị Hồng Yến (2013), tlđd (1), tr. 46. 12 nhận cầm cố có quyền “Xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.”. Cũng có cách tiếp cận tương tự, khoản 7 Điều 323 BLDS năm 2015 quy định một trong các quyền của bên nhận thế chấp là “Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này.”. Mục đích trước hết của việc xử lý tài sản bảo đảm là nhằm bảo đảm quyền cho bên nhận bảo đảm khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm bằng tài sản. Bên cạnh đó, có trường hợp chủ thể có quyền xử lý tài sản bảo đảm không phải là bên nhận bảo đảm. Ví dụ như, theo khoản 1 Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), “Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.”. Như vậy, trong trường hợp này, chủ thể có quyền xử lý tài sản bảo đảm không phải là bên nhận bảo đảm mà là Chấp hành viên. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong trường hợp này còn có sự khác biệt trong thực tiễn xét xử tại Tòa án, thể hiện trong vụ việc dưới đây. Theo Quyết định số 11/2021/DS-GĐT ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản,11 thì: “Theo “Giấy làm bằng cho mượn tiền mặt” thể hiện nội dung ngày 20/12/2015, vợ chồng ông Thng, bà Dng có mượn của bà Lê Thị B 300.000.000 đồng. Bà Dng, ông Thng có đưa cho bà B Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lê Minh Thng “để làm bằng”. Đến hạn trả nợ nhưng bà Dng, ông Thng không trả nên bà B khởi kiện yêu cầu bà Dng, ông Thng trả số tiền trên, không yêu cầu tính lãi.”. Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 36/2018/QĐST-DS ngày 14/8/2018, Tòa án nhân dân huyện BB, tỉnh BT đã quyết định: “Vợ chồng chị Phạm Thị Diễm Dng và anh Lê Minh Thng đồng ý trả cho chị Lê Thị B 300.000.000 đồng... Chị Lê Thị B đồng ý khi nào vợ chồng chị Phạm Thị Diễm Dng và anh Lê Minh Thng trả hết số tiền nợ 300.000.000 đồng đã vay thì trả lại cho vợ chồng chị 11 Phụ lục 16. 13 Phạm Thị Diễm Dng và anh Lê Minh Thng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... mang tên anh Lê Minh Thng.” Tuy nhiên, khác với Tòa án nhân dân huyện BB, tỉnh BT, Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh tại Quyết định số 11/2021/DS-GĐT ngày 11 tháng 01 năm 2021 lại nhận định: “... tại thời điểm bà Dng, ông Thng thế chấp tài sản cho bà B là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 22/8/2014 mang tên ông Lê Minh Thng thì bà Dng, ông Thng đang phải thi hành án đối với Quyết định số 07/2016/QĐST-DS ngày 15/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện BB. Bà Dng, ông Thng cũng không còn tài sản nào khác nên tài sản đó vẫn bị kê biên để xử lý. Hơn nữa, tại Công văn số 144/CCTHADS ngày 03/3/2020, Chi cục thi hành án dân sự huyện BB đã cung cấp các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong đó bà Dng, ông Thng đang phải trả số tiền lên đến 5.660.351.260 đồng. Vì vậy, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 36/2018/QĐST-DS ngày 14/8/2018 Tòa án nhân dân huyện BB, tỉnh BT ghi nhận sự thỏa thuận bà B được quyền giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Lê Minh Thng cho đến khi ông Thng, bà Dng trả hết nợ sẽ gây khó khăn cho việc kê biên thi hành án như đã phân tích trên.” Trong quan hệ pháp luật về phá sản, theo khoản 1 Điều 53 Luật Phá sản 2014, “Sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật này, Thẩm phán xem xét và xử lý cụ thể như sau: a) Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ; b) Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại khoản 3 Điều này”. Theo đó, trong trường hợp này, chủ thể có quyền xử lý tài sản bảo đảm (mà theo Luật Phá sản năm 2014 gọi là xử lý “khoản nợ có bảo đảm”) là thẩm phán, không phải là bên nhận bảo đảm. 14 (iii) Căn cứ xử lý tài sản bảo đảm Việc xử lý tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng và là một trong các “trụ cột” cơ bản của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Khi xử lý tài sản bảo đảm, quyền sở hữu tài sản của bên bảo đảm sẽ chấm dứt và được chuyển dịch cho bên nhận bảo đảm hoặc người thứ ba để bù đắp cho những lợi ích bị thiệt hại của bên nhận bảo đảm do hành vi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm gây ra. Việc xử lý tài sản bảo đảm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau, vì vậy, hoạt động này chỉ được thực hiện khi có căn cứ do luật định12. Theo Điều 299 BLDS năm 2015, việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện trong các trường hợp sau đây: Thứ nhất, nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm khi đến hạn thực hiện. Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm trước thời hạn do bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn vì vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật. Thứ ba, trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc luật có quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác, ví dụ như trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản quy định tại khoản 3 Điều 296 BLDS năm 2015 hoặc trường hợp kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). (iv) Phương thức xử lý tài sản bảo đảm Theo Điều 303 BLDS năm 2015, phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận bao gồm: (1) Bán đấu giá tài sản; (2) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; (3) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (4) Phương thức khác. Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác. Khác BLDS năm 2005 chỉ quy định tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định 12 Vũ Thị Hồng Yến (2013), tlđd (1), tr. 56-57.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan