skkn về thiết kế đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, dư luận xã hội liên tục lên tiếng báo động về
chất lượng dạy và học lịch sử ở các trường phổ thông nước ta. Tình trạng dân ta
không biết sử ta mà biết sử Tàu khá phổ biến, trở thành hiện tượng nhức nhối
của nền giáo dục nước nhà. Nhiều người cho rằng sở dĩ có hiện tượng này một
phần là do những tác động xã hội thời mở cửa. Nhưng trên hết vẫn là do chương
trình sách giáo khoa lịch sử không hợp lí và nhiều giáo viên (GV) bộ môn dạy
không lôi cuốn, chỉ đọc chép thụ động làm học sinh (HS) bị ức chế khi học sử
nên không thích lịch sử. Đó là thực tế mà toàn ngành giáo dục nói chung, mỗi
GV lịch sử nói riêng rất trăn trở và đang cố gắng thay đổi, khắc phục. Bộ giáo
dục- đào tạo đã có quyết định nhằm đổi mới phương pháp dạy học nói chung,
phương pháp dạy học lịch sử nói riêng theo hướng dạy học “lấy HS làm trung
tâm”, tăng cường phát huy tính tích cực trong học tập mà trọng tâm là ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp của Bộ
vì công nghệ thông tin thật sự có ưu thế hơn hẳn các phương tiện truyền thống
trong việc truyền tải các sự kiện lịch sử sống động, thu hút sự chú ý của HS.
Thực tế, công nghệ thông tin đã phát huy tác động tích cực đối với tình hình dạy
và học lịch sử trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
phương pháp và phương tiện truyền thống đã không còn phát huy tác dụng tốt
như trước nữa, đặc biệt là đối với các môn khoa học xã hội như ngữ văn, lịch
sử…Hơn nữa, do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng GV khác
nhau nên không phải lúc nào và ở đâu GV cũng có đủ các điều kiện cần thiết để
soạn và giảng dạy tất cả các bài học trong chương trình bằng bài giảng điện tử.
Vì vậy, GV phải kết hợp song song hai loại phương pháp dạy học truyền
thống và hiện đại. Vấn đề là phải kết hợp như thế nào để đạt hiệu quả, phù hợp
với đặc thù bộ môn lịch sử, điều kiện thực tế ở từng nơi và có thể phát huy tính
tích cực của HS, tạo sự lôi cuốn trong mỗi tiết học lịch sử.
1
Trong dạy học lịch sử, nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc
cơ bản của lý luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình
thành khái niệm trên cơ sở quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan
minh họa về sự vật. Nhà giáo dục U-sin-xki đã xem “nguyên tắc trực quan là
cách học không chủ dựa vào lời nói, mà còn dựa vào những hình ảnh cụ thể mà
học sinh trực tiếp thu nhận được”. Đặc trưng của lịch sử là không lặp lại như cũ,
cũng không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí nghiệm…, vì vậy phương pháp
trực quan lại càng có ý nghĩa quan trọng. Việc “trực quan sinh động” trong nhận
thức lịch sử không thể bắt đầu từ cảm giác trực tiếp về hiện thực lịch sử đã qua,
mà từ những biểu tượng được tạo nên trên cơ sở các sự việc cụ thể. Cho nên, để
có hình ảnh lịch sử cụ thể làm cơ sở cho việc nhận thức quá khứ, cần thiết phải
sử dụng hiệu quả đồ dùng trực quan.
Là một GV lịch sử, tôi đã cố gắng suy nghĩ, tìm tòi, thiết kế và sử dụng một
số đồ dùng trực quan để tăng tính hấp dẫn trong dạy và học lịch sử ở trường phổ
thông. Tôi xin trình bày vài kinh nghiệm về “Thiết kế đồ dùng trực quan quy
ước giảng dạy Chương 3, phần Lịch sử Việt Nam (Lịch sử 12- Chương trình
chuẩn)”.
2
NỘI DUNG
I. Các loại đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử và ý
nghĩa của nó
1.1. Quan niệm về đồ dùng trực quan quy ước
Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, kí hiệu hình học đơn giản
được sử dụng trong dạy học lịch sử, loại đồ dùng trực quan mà giữa người thiết
kế đồ dùng và người sử dụng và người học có một số quy ước ngầm nào đó (về
màu sắc, kí hiệu hình học…)
Đồ dùng trực quan quy ước tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng,
khi phản ánh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng
khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị - xã hội của đời sống.
Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện lịch sử mà còn là cơ sở để
hình thành khái niệm cho học sinh
1.2. Các loại đồ dùng trực quan quy ước
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh, giáo viên thường sử dụng các loại đồ dùng trực quan quy ước sau:
1.2.1. Niên biểu
Niên biểu là bảng thống kê hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ
tự thời gian đồng thời nêu lên mối quan hệ giữa các sự kiện cơ bản của một
nước hay nhiều nước trong một thời kì lịch sử. Niên biểu gồm có các loại chính:
- Niên biểu tổng hợp là bảng thống kê các sự kiện lớn diễn ra trong thời
gian dài. Loại niên biểu này giúp học sinh không những ghi nhớ những sự kiện
chính mà còn nắm được các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện
quan trọng. Niên biểu tổng hợp còn trình bày những mặt khác nhau của sự kiện
xảy ra ở một nước trong một thời gian hay trong nhiều thời kì
- Niên biểu chuyên đề: đây là loại niên biểu nhằm đi sâu trình bày nội
dung một vấn đề quan trọng nổi bật nào đó của một thời kì lịch sử nhất định,
nhờ đó mà học sinh hiểu được bản chất sự kiện một cách toàn diện và đầy đủ.
3
- Niên biểu so sánh: là loại niên biểu dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện
xảy ra cùng một lúc trong lịch sử, nhằm làm nổi bật bản chất, đặc trung của các sk
ấy hoặc rút ra kết luận có tính chất nguyên lí. Ngoài ra, bảng so sánh còn là một
dạng của niên biểu so sánh nhưng có thể số liệu và tài liệu, sự kiện chi tiết để làm
rõ bản chất, đặc trưng của các loại sự kiện cùng loại hay khác loại. Ví dụ:
Các cuộc
Hình thức
cách mạng tư
đấu tranh
sản
Cách mạng tư Nội chiến
sản Anh
Nhiệm vụ
Thành phần
lãnh đạo
Kết quả
Mở
đường
CNTB phát
triển
Chiến tranh Thành
lập
giành độc lập quốc gia mới.
mở
đường
CNTB phát
triển
Nội
chiến,
chống ngoại
xâm
Tư sản, quý Xác lập nền
tộc mới
Quân chủ lập
hiến
CTGDL của
Tư sản , chủ Hợp
chúng
các thuộc địa
nô
quốc châu Mĩ
Anh ở Bắc Mĩ
ra đời, xây
dụng nền cộng
hòa
Cách mạng tư
Tư sản
Xóa bỏ chế độ
sản Pháp
phong kiến,
mở
đường
CNTB
phát
triển
So sánh các cuộc cách mạng tư sản thế kỉ XVII- XVIII
1.2.2. Đồ thị
Đồ thị là loại đồ dùng trực quan quy ước dùng để diễn tả quá trình phát
triển, vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống
kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng mũi tên để minh họa sự vận động
đi lên, sự phát triển của một hiện tượng lịch sử, hoặc được biểu diễn trên các
trục hoành (ghi thời gian), trục tung (ghi sự kiện)
1.2.3. Sơ đồ, biểu đồ
- Sơ đồ là loại đồ dùng trực quan quy ước nhằm cụ thế hóa nội dung sự
kiện bằng những hình học đơn giản diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế
độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử . Ví dụ: Sơ đồ tổ chức bộ máy
Nhà nước Mỹ theo Hiến pháp 1787, sơ đồ về sự chuyển biến giai cấp ở Việt
Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất
4
- Biểu đồ là sự biểu hiện tổng hợp giá trị của hiện tượng trên một đơn vị
lãnh thổ được lấy theo ranh giới hành chính bằng cách dùng biểu đồ với kích
thước tương ứng với tổng giá trị sản lượng của chúng bố trí trên phạm vi lãnh thổ.
Biểu đồ còn được thể hiện dưới dạng biểu đồ chiều dài, biểu đồ diện tích
(hình vuông, hình tròn) hoặc biểu đồ thể tích (hình khối, hình cầu)… việc sử
dụng biểu đồ giúp học sinh dễ xác định được giá trị của các hiện tượng và mối
quan hệ giữa chúng . Do đó biểu đồ rất có ưu thế trong việc giúp học sinh so
sánh trị số giá trị của các sự kiện và thấy được bản chất của các sự kiện đó
1.2.4. Bản đồ lịch sử
Bản đồ lịch sử là một loại đồ dùng trực quan quy ước quan trọng, cần
thiết nhằm giúp học sinh xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích
các hiện tượng về lịch sử về mối liên hệ nhân quả, tính quy luật và trình tự phát
triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ kiến thức đã học.
Về hình thức, bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết vè điểu kiện thiên
nhiên mà cần có những kí hiệu biên giới, các quốc gia, sự phân bố dân cư, thành
phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra các biến cố quan trọng (các cuộc khởi nghĩa,
cách mạng, chiến dịch…). Các minh họa trên bản đồ phải đẹp, chính xác, rõ ràng.
Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia thành hai loại chính: bản đồ tổng
hợp và bản đồ chuyên đề.
- Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của
một nước hay nhiều nước có liên quan đến một thời kì nhất định, trong những
điều kiện tự nhiên nhất định. Ví dụ, các bản đồ “Sự phân chia thuộc địa của các
nước đế quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, “Chiến tranh thế giới thứ nhất”…
- Bản đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt của
quá trình lịch sử như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của mọt nước
trong một giai đoạn lịch sử Như vậy đồ dùng trực quan quy ước gồm có nhiều
loại, giáo viên có thể trình bày trên giấy hoặc trên bảng đen, hoặc thiết kế bằng
phương tiện kĩ thuật hiện đại. Sử dụng các phương tiện trực quan này đòi hỏi
5
giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn sâu mà cả nghệ thuật dạy học của
giáo viên trong việc xử lý “viên phấn và bảng đen”
1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử
Ngày nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đang được các nhà
nghiên cứu giáo dục lịch sử quan tâm, để phát huy tính tích cực của học sinh phải
có sự kết hợp của nhiều phương pháp giảng dạy, trong đó đặc biệt là việc xây
dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước. Đây là một trong những phương
pháp có ý nghĩa lớn đối với giáo viên và học sinh trong quá trình dạy- học.
Trước hết, đồ dùng trực quan quy ước ngoài việc đem lại cho học sinh
những biểu tượng bên ngoài về sự kiện lịch sử, còn giúp học sinh có thể hiểu sâu
sắc bản chất của sự kiện lịch sử, bởi không có giới hạn tuyệt đối giữa hiện tượng và
bản chất. Cho nên đồ dùng trực quan quy ước là chỗ dựa hiểu biết sâu sắc bản chất
của sự kiện lịch sử, nó là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành khái niệm lịch
sử tạo điều kiện cho học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội.
Có thể nói, đồ dùng trực quan quy ước không chỉ dừng lại ở nhận thức
cảm tính mà còn nhận thức lí tính, làm cho học sinh ít tốn công sức nhưng lại
thu nhận có hiệu quả kiến thức lịch sử. Ví dụ khi nghiên cứu bức tranh “Tình
cảnh nông dân Pháp trước cách mạng”, học sinh không chỉ biết các thuật ngữ
đẳng cấp tăng lữ, đẳng cấp quý tộc mà còn biết đước tình thình phân hóa đẳng
cấp trong xã hội Pháp trước khi cách mạng bùng nổ.
Đồ dùng trực quan quy ước có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ
kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử, những tư tưởng thu nhận
được. Như U-sin-xki đã viết: “hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí
nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bằng trực quan và những
hình ảnh nào được khắc sâu vào trí nhớ chúng ta thì cũng được chúng ta nhớ kĩ,
hiểu sâu những tư tưởng của nó”.
Đồ dùng trực quan quy ước còn giúp học sinh không rơi vào tình trạng
“hiện đại hóa lịch sử” khi nhận thức lịch sử. trong quá trình dạy học lịch sử, lời
nói có vai trò quan trọng để tạo biểu tượng và hình thành khái nhiệm lịch sử cho
6
học sinh, nhưng dù lời nó có sinh động đến đâu, truyền cảm đến đâu cũng không
thể thay thế cho việc sử dụng đồ dùng trực quan được. ở lứa tuổi học sinh phỏ
thông, khả năng tư duy của mỗi học sinh còn có giới hạn, các em sẽ không đủ
khả năng tưởng tượng ra tất cả những gì mà giáo viên đã miêu tả, từ đó dẫn đến
hiện tượng “hiện đại hóa lịch sử” hoặc xác định không đúng, mâu thuẫn lẫn
nhau giữa các sự kiện lịch sử. Do đó, trong quá trình dạy học, việc sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước là điều hết sức cần thiết.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử,
đồ dùng trực quan quy ước còn giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, trí
tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ của học sinh… Đồ dùng trực quan quy ước không
khôi phục lại hình ảnh của sự vật, hoạt động của con người, đời sống xã hội
trong thể hoàn chỉnh mà phản phản ánh những mặt định lượng và định tính quá
trình lịch sử. Do đó, khi nhìn và đồ dùng trực quan như niên biểu, sơ đồ, lược
đồ… học sinh sẽ phải suy nghĩ, nhận xét, phán đoán, hình dung lại các sự kiện
đã từng diễn ra trong quá khứ. Điều đó sẽ kích thích trí tò mò, suy nghĩ của học
sinh đẻ có thể diễn đạt bằng lời nó chính xác có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức
tranh xã hội đã qua.
Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng và phát triển thì đồ dùng trực quan quy ước
còng góp phần giáo dục tình cảm, đạo đức và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Ví
dự, khi quan sát sơ đồ “Ba đẳng cấp trong xã hội phong kiến Pháp”, học sinh sẽ
thấy mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội Pháp, đồng thời cũng có cảm xúc mạnh mẽ
đới với giai cấp nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề, căm thù sâu sắc bọn quý
tộc, tăng lữ áp bức bóc lột.
Với ý nghĩa về giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của việc xây dựng và sử
dụng đồ dùng trực quan quy ước đã góp phần to lớn trong việc nâng cao chát
lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú và phát huy tính tích cực của học sinh. Đồ
dùng trực quan quy ước là chiếc cầu nối giữa hiện thực khách quan quá khứ với
hiện tại, nó làm cho học sinh hiểu biết và thông cảm sâu sắc với dĩ vãng. Do đó,
các em càng suy nghĩ nhiều về nhiệm vụ của hiện tại và tương lai.
7
II. Thiết kế đồ dùng trực quan quy ước
Một số đồ dùng trực quan quy ước quy ước sử dụng trong dạy học
Chương 3 (Việt Nam từ 1945 đến 1954), Lịch sử 12, chương trình chuẩn.
2.1. Niên biểu:
Có thể xây dựng và sử dụng các niên biểu sau đây trong quá trình dạy học
2.1.1
Bảng số liệu Mĩ viện trợ cho Pháp trong chiến
tranh Đông Dương
Năm
1950
1951
1952
1953
1954
Số tiền (tỷ Franc)
52
62
200
285
555
Tỷ lệ trong ngân sách Đông Dương
19%
16%
35%
43%
73%
2.1.2 Niên biểu tổng hợp các chiến dịch quân sự giai đoạn 1951-1953
TT
1
Thời gian
25/12/1950–
17/1/1951
2
20/3 –
7/4 1951
3
4
5
6
Các chiến dịch
Chiến dịch Trung
Du (Trần Hưng
Đạo)
Chiến dịch đường
18 (Hoàng Hoa
Thám)
Chiến dịch Quang
Trung (Hà Nam
Ninh)
Chiến dịch Hòa
Bình
Địa điểm
Kết quả
Từ Việt Trì đến Diệt 5000 tên, 30
Bắc Giang
vị trí và tháp canh
Loại 2900 tên, diệt
130 vị trí và tháp
canh, phá 20 cầu…
28/5 –
Loại 4000 tên, diệt
20/6/1951
30 tháp canh, thu
1000 súng
10/11/1951–
Hòa Bình
Diệt 22000 tên,
25/2/1952
1000 đồn bốt, tháp
canh, giải phóng
2000km2 đất, 15
vạn dân
14/10 –
Chiến dịch Tây Yên Bái, Lào Loại 6000 tên, giải
10/12/1952
Bắc
Cai, Lai Châu, phóng 28500 km2,
Sơn La
25 vạn dân
8/4 –
Chiến
dịch Sầm Nưa, Xiêng Loại 2800 tên, giải
18/5/1953
Thượng Lào
Khoảng,
phóng 4000km2,
Phongxali
hơn 300000 dân
2.1.3 Niên biểu cuộc tiến công chiến lược Đông – xuân 1953 - 1954
8
Từ Phả Lại đến
Uông Bí, Mạo
Khê
Hà Nam, Nam
Định, Ninh Bình
TT
Thời gian
1
12/1953
Địa điểm tấn công
Kết quả
Thị xã Lai Châu
- Loại 24 đại đội
địch
- Giải phóng
tỉnh Lai Châu
2
12/1953
Liên quân Lào –
Việt tấn công địch
ở Trung Lào
3
1 / 1954
Liên quân Lào –
Việt tấn công địch
ở Thượng Lào
4
2 /1954
Bộ đội ta tấn công
Bắc Tây Nguyên
2.1.4
Phản ứng của Pháp
-Tăng cường 6 tiểu
đoàn.
- Điện Biên Phủ là
nơi tập trung quân
thứ hai.
- Tiêu diệt 3 tiểu - Xê-nô là nơi tập
đoàn Âu – Phi
trung quân thứ ba
- giải phóng 4 của Pháp.
vạn km2
- Giải phóng -Tăng cường 6 tiểu
Nậm
Hu, đoàn.
Phongxali,
và - Luông Phabang
2
gần 1 vạn km
và Mường Sài là
nơi tập trung quân
thứ tư của Pháp
- loại 2000 tên -Bỏ dở cuộc hành
địch
quân Át- lăng
- Giải phóng - Pleiku là nơi tập
Kon Tum, uy trung quân thứ
hiếp Pleiku.
năm của Pháp.
Những thắng lợi cơ bản trên mặt trận quân sự
của nhân dân ta từ 1946 đến 1954.
Thời gian
Sự kiện
19/ 12 /1946 - Toàn quốc kháng
chiến
Giữa 2/1947 - Ta chiến đấu giam
chân địch trong các
đô thị
07/ 10 /1947 Ta đánh trả cuộc tiến
công của địch lên căn
21/ 12/ 1947 cứ địa Việt Bắc
Ý nghĩa của sự kiện
- Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc
- Làm tiêu hao một bộ phận sinh lực địch
- Bảo toàn lực lượng và bước đầu chuẩn
bị cho cuộc kháng chiến lâu dài của ta.
Ta đánh bại âm mưu “ đánh nhanh thắng
nhanh” của địch. Bảo vệ được cõ quan
đầu não và quân chủ lực của ta Khả
năng kháng chiến thắng lợi
16/ 09/1950 Ta chủ động mở chiến
Thắng lợi Biên Giới đã làm tiêu hao bộ
dịch tiến công địch ở phận quan trọng sinh lực địch, củng cố
14/ 10/ 1950 biên giới với quy mô mở rộng Việt Bắc, thông đường liên lạc
lớn
quốc tế. Ta giành quyền chủ động trên
9
10 / 1952 -Ta mở ch/dịch Hoà
Bình, ch/dịch Tây Bắc
05 / 1953
-Ta và quân Pathet
Lào
mở
ch/dịch
Thượng Lào
Cuối 1953 Chiến cuộc đông xuân
1953-1954
07/ 05/1954 -Ta mở chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ
chiến trường chính Bắc Bộ
Thắng lợi của ta ở các chiến dịch tiếp
tục giữ vững và phát huy thế chủ động
chiến lược trên chiến trường chính ở Bắc
Bộ.
Kế hoạch NaVa từng bước phá sản. Thắng
lợi ở ĐBP đã làm kế hoạch NaVa phá sản
hoàn toàn, góp sức mạnh to lớn cho cuộc
đấu tranh ngoại giao, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào GPDT thế giới.
2.1.5 Niên biểu về sự thay đổi chính phủ và bộ máy cai trị của Pháp ở
Đông Dương từ năm 1945 đến năm 1954
Năm
Chính phủ
1945 Đờ Gôn
1946 Goanh (24/1 - 14/6/1946)
1947
Bi – đô (18/6-17/12/1946)
Blum (12/1946-1/1947)
1948
Ra-ma-đi-ê(1/1947-11/1947)
Su-man(11/1947-19/7/1948)
Cao ủy
Đác-giăng-đi-ơ
Tổng chỉ huy
Lơ-cléc
Va-luy(6/1946)
Bô-la-éc(3/1947)
Blê-đô(5/1948)
Ma-ri(27/7-27/8/1948)
1949
1950
Su-man(27/8/1948-11/1/1949 Pi-nhông(9/1948)
Cơ-i(11/1-5/10/1949)
Các-păng-chi-ê
Mốt-si(5/10-17/10/1949)
(9/1949)
May-e(17/10-24/10/1949)
B i-đô(24/10/1949-6/1950)
Ple-ven (6/1950-2/1951)
1951
Cơ-i(2/1951-7/1951)
1952
Ple-ven(8/1951-7/2/1952)
Pho(7/2/1952-27/2/1952)
1953
Pi-nay(6/3/1952-1/5/1953)
May-e(1/5/1953-6/1953)
ĐờTát-xi-nhi
ĐờTát-xi-nhi
(12/1950)
(12/1950)
Lơ-tuốc-nô(12/1951) Xa-lăng(12/1951)
Đờ Giăng (6/1953)
La-ni-en (6/1953-6/1954)
10
Na-va(5/1953)
2.2. Sơ đồ
Dựa vào nội dung bài học, có thể xây dựng các sơ đồ sau:
2.2.1 Sơ đồ đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
Kháng chiến toàn dân: cuộc kháng chiến do nhân dân tham
gia, là sự nghiệp của nhân dân.
Kháng chiến toàn diện: cuộc kháng chiến được tiến hành
trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao.
Đường
lối kháng
chiến
chống
Pháp của
Đảng
Kháng chiến trường kì: chiến đấu lâu dài để chuyển hóa lực
lượng làm cho địch yếu dần, phát triển lực lượng của ta,
tiến lên đánh bại kẻ thù
Tự lực cánh sinh: cuộc kháng chiến của nhân dân ta, do
nhân dân ta quyết định.
2.2.2 Sơ đồ nội dung kế hoạch Đờ lát Đờ Tát- xi- nhi
Kế hoạch Đờ lát Đờ Tát xi nhi
xây dựng
phòngthốngTiến
3/1951,
nhấthành
Việt chiến
Minh và Liên
Đánh
Việtphá
thành
hậuMặt
tuyến cơtrận
động,
Liên Việttranh tổng lực,
phương ta
lập “vành đai
bình định vùng
bằng mọi
trắng”, bao
vây
tạmlập
chiếm,
vơ ND Việt-Miên-Lào
cách, mọi
11/3/1951, thành
liên minh
trung du, đồng
vét nhân dân
phương tiện
bằng Bắc bộ
1/5/1952, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn
quốckháng chiến phát triển mọi mặt (1951-1953)
2.2.3 Sơ đồ hậu phương
Nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp phát triển
Kinh tế
Đề ra chính sách thuế khóa, xd nền tài chính- ngân hàng
xây dựng lực
lượng cơ động
mạnh quânChính
Âu
– Phi, pháttrị
triển ngụy
quân
Hậu
phương
kháng
chiến
phát triển
mọi mặt
1953, phát động giảm tô và cải cách ruộng đất
11
Tăng cường công tác vệ sinh, phòng dịch, chăm lo sức
khỏe nhân dân
Văn
hóa,
GD,
Y tế
tiếp tục cải cách giáo dục, tăng cường bình dân học vụ
Văn nghệ sĩ hăng hái tham gia chiến đấu, sản xuất
2.3. Bản đồ lịch sử
Bản đồ là phương tiện rất quan trọng trong dạy học lịch sử. Nó không chỉ
góp phần quan trọng tái tạo cho học sinh những hình ảnh lịch sử với những nét
điển hình nhất, đặc trưng nhất mà còn khắc phục tình trạng nhầm lẫn, hiện đại
hóa lịch sử của học sinh. Việc sử dụng bản đồ còn góp phần phát triển khả năng
quan sát, tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố
thêm kiến thức địa lý.
Vì vậy, giáo viên khó có thể thiết kế được bản đồ đảm bảo tính khoa học
và tính thẩm mỹ, nên cần thiết phải sử dụng các bản đồ đã được xuất bản làm
chuẩn mực để xây dựng bản đồ phù hợp với yêu cầu tiết học và trình độ học
sinh.
12
2.3.1 Chiến dịch Hòa Bình 910/12/1951-25/2/1952)
13
2.3.2 Chiến dịch Tây Bắc (14/10-10/12/1952)
14
2.3.3. Chiến dịch Thượng Lào (13/4-3/5/1953)
2.3.4. Chiến dịch Việt Bắc (10/1947-12/1947)
15
2.3.5. Chiến cuộc Đông Xuân (1953-1954)
16
2.3.6 Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954)
KẾT LUẬN
17
Bộ môn Lịch sử có vai trò quan trọng trong việc giáo dục niềm tin, lý
tưởng bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ, đồng thời nó lại có ưu thế rrát lớn trong
việc giáo dục lòng yêu nước tinh thần dân tộc truyền thống đấu tranh cách mạng.
Nhưng để môn học thực hiện được chức năng đó thì đòi hỏi người giáo viên
phải biết cách khai thác kiến thức, biết sử dụng phương pháp truyền thụ phù
hợp, đồng thời nó cũng phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng các phương tiện,
phương pháp dạy học phù hợp.
Đồ dùng trực quan quy ước không những nguồn cung cấp kiến thức kiến
thức lịch sử cho học sinh, mà còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài
học lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn. Vì vậy trong mỗi tiết học, bài học lịch
sử có kênh hình giáo viên bộ môn nên tuỳ vào yêu cầu nội dung bài học để thiết
kế cách khai thác, sử dụng các loại đồ dùng trực quan phù hợp với bài học. Qua
đó giúp học sinh hình thành, phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, khả
năng tư duy và ngôn ngữ.
Trong quá trình dạy học lịch sử nói chung và bộ môn lịch sử ở THPT nói
riêng, khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan để phục vụ cho bài giảng là một
trong những biện pháp quan trọng để giáo viên nâng cao chất lượng dạy học đối
với bộ môn: giúp học sinh tích cực và hứng thú hơn trong học tập; hình thành và
phát triển ở học sinh khả năng quan sát, trí tưởng tượng tư duy và ngôn ngữ;
khai thác sử dụng được vốn kiến thức sẵn có của học sinh phục vụ cho bài học.
Tôi mạnh dạn đề xuất những kinh nghiệm ít ỏi mà bản thân có được trong
quá trình dạy học và mong rằng mỗi người GV lịch sử nên cố gắng hơn nữa để
HS không quay lưng lại với lịch sử và cao hơn nữa là yêu thích lịch sử như
những môn học khác, góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong nhiều
năm qua trong giảng dạy và học tập lịch sử. Qua đó, góp phần đưa môn học lịch
sử nói riêng, khoa học lịch sử nói chung về đúng vị trí vốn có của nó trong giáo
dục và trong đời sống xã hội.
18
Trên đây là một số ý kiến của tôi về thiết kể đồ dùng trực quan quy ước
trong giảng dạy Chương 3, phần Lịch sử Việt Nam, Lịch sử 12- chương trình
chuẩn. Với năng lực bản thân có hạn và kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, chắc
chắn đề tài không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót vì vậy tôi rất mong được
sự đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài
của tôi được hoàn thiện hơn nữa.
19
- Xem thêm -