Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của tòa án nhân dân...

Tài liệu Thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của tòa án nhân dân

.PDF
98
1
82

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG HOÀNG HẢI THI HÀNH NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH THI HÀNH NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380103 Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Văn Tiến Học viên : Trương Hoàng Hải Lớp : Cao học Luật, Khóa 34 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ “Thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Tiến. Những tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn bảo đảm tính khách quan, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả Trương Hoàng Hải DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Luật THADS Luật Thi hành án dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự BLDS Bộ luật Dân sự Nghị định 62/2015/NĐ-CP Nghị định 33/2020/NĐ-CP Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự Nghị định số 33/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THI HÀNH NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ........9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân ...................................................................9 1.1.1. Khái niệm thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân .........................................................................................................9 1.1.2. Đặc điểm của thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân................................................................................................16 1.1.3. Ý nghĩa của thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân................................................................................................17 1.2. Quy định pháp luật một số quốc gia trên thế giới về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân ...................................20 1.2.1. Mô hình tổ chức thi hành án dân sự trên thế giới ...................................20 1.2.2. Quy định về thủ tục thi hành án dân sự ..................................................22 1.3. Quy định pháp luật Việt Nam về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân .................................................................25 1.3.1. Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân ..........................................25 1.3.2. Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân................................................................................................30 1.3.3. Thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án ..................................................39 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................41 CHƯƠNG 2. BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THI HÀNH NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN .................................................42 2.1. Về phương thức xác minh điều kiện thi hành án ......................................42 2.2. Về kê biên nhà ở của người phải thi hành án ............................................47 2.3. Về xử lý tài sản là quyền đòi nợ để thi hành án ........................................57 2.4. Về việc thi hành án khi có thay đổi về giá vào thời điểm thi hành so với thời điểm tuyên án ...............................................................................................61 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã khẳng định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Thi hành án dân sự là một trong những hoạt động quan trọng của tư pháp nói chung và hoạt động giải quyết vụ án nói riêng, nhằm đưa bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành; là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án. Thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân, đồng thời góp phần phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc thi hành các nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân bao gồm nghĩa vụ về tài sản và nghĩa vụ về nhân thân. Trong đó, thi hành nghĩa vụ về tài sản của người phải thi hành án chiếm phần lớn trong tổng số các việc thi hành án, xuất phát từ các lợi ích về kinh tế mang lại cho người được thi hành án. Pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay đã có các quy định tương đối chi tiết để tổ chức thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân như xác minh điều kiện thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án, thanh toán tiền thi hành án… Các quy định này về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn và giải quyết được đa số các yêu cầu thi hành nghĩa vụ về tài sản của người dân. Tuy nhiên, qua đối chiếu với thực tiễn thi hành án và nghiên cứu so sánh với pháp luật nước ngoài, các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này vẫn còn tồn tại một số bất cập, bao gồm: Thứ nhất, pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam chưa có chế tài đủ mạnh để ràng buộc trách nhiệm kê khai trung thực điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, dẫn đến Chấp hành viên phải tốn nhiều thời gian cho việc xác minh điều kiện thi hành án. 2 Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa có sự đồng bộ trong việc hoàn thiện các hệ thống đăng ký tài sản, dẫn đến việc xác minh điều kiện thi hành án gặp nhiều khó khăn do tài sản của người phải thi hành án được quản lý bởi nhiều cơ quan khác nhau. Thứ ba, việc kê biên nhà ở duy nhất của người phải thi hành án còn nhiều bất cập trong việc xác định giá trị của các tài sản khác của người phải thi hành án có đủ để thực hiện nghĩa vụ thi hành án hay không. Thứ tư, việc quy định điều kiện “nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà” cho việc kê biên nhà ở của người phải thi hành án gắn liền với quyền sử dụng đất của người khác khi không có sự đồng ý kê biên chung nhà đất của người sử dụng đất là không hợp lý, dẫn đến việc không thể kê biên nhà ở của người phải thi hành án trong thực tế. Thứ năm, việc kê biên nhà ở bị khóa của người phải thi hành án vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trong thực tiễn thi hành án trong việc có lập biên bản ghi nhận toàn bộ hiện trạng các tài sản trong nhà ở của người phải thi hành án sau khi mở khóa/phá khóa hay không. Thứ sáu, việc xử lý tài sản của người phải thi hành án là quyền đòi nợ còn gặp bất cập trong thực tiễn về thẩm định giá và bán đấu giá, dẫn đến việc thi hành không hiệu quả, gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án. Thứ bảy, việc áp dụng quy định về việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án vẫn còn tồn tại bất cập trong thực tiễn liên quan đến điều kiện cần có yêu cầu của đương sự và thủ tục áp dụng sau khi định giá lại tài sản. Từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân” làm đề tài luận văn Thạc sỹ cao học Luật, chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Thứ nhất, Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình luật thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp. Công trình đã nghiên cứu các vấn đề về thi hành án dân sự dưới góc độ lý luận và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam, 3 trong đó có đề cập đến thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Công trình đã cung cấp cho tác giả những kiến thức nền tảng về thi hành án dân sự để triển khai thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, dưới góc độ là một công trình nghiên cứu tổng quan về thi hành án dân sự nên công trình chưa đi sâu vào phân tích các bất cập trong thực tiễn về thi hành nghĩa vụ về tài sản. Thứ hai, Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Quân Chính, Nguyễn Văn Nghĩa (2019), Bình luận Luật Thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb. Tư Pháp. Công trình đã phân tích, bình luận các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, đồng thời đưa ra những tình huống thực tiễn và hạn chế, bất cập còn tồn tại. Một số quy định liên quan đến việc thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân được các tác giả phân tích chuyên sâu như xác minh điều kiện thi hành án, kê biên, xử lý nhà ở của người phải thi hành án… Các phân tích trong Công trình là tiền đề để tác giả có thể tiếp thu và phát triển trong Luận văn của mình. Thứ ba, Mai Thị Thùy Dung, (2016), “Trao đổi một số điểm về quy định xác định việc chưa có điều kiện thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề tháng 02/2016). Bài viết nêu ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án. Về vấn đề này, giữa điểm c khoản 1 Điều 44 a và điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án sửa đổi có sự không thống nhất. Việc quy định này làm cho quyền lợi của người được thi hành án bị ảnh hưởng. Từ đó, tác giả nêu ra quan điểm cần phải có hướng dẫn để đảm bảo thực hiện thống nhất các quy định nêu trên trong thực tiễn. Thứ tư, Phạm Công Ý (2017), “Áp dụng điều luật nào trong kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác để thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9. Nội dung bài viết đã chỉ ra được sự chưa thống nhất hợp lý giữa luật và nghị định hướng dẫn về vấn đề kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, dẫn tới khó khăn trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. Từ đó tác giả đưa ra quan điểm cá nhân và đề xuất kiến nghị có văn bản hướng dẫn thống nhất trong cách áp dụng về cùng một vấn đề. Tuy nhiên nội dung bài viết cũng chưa chỉ rõ khi tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng và hộ gia đình bị kê biên để thi hành án, thì hướng xử lý cũng như xác định tài sản của người thi hành án trong khối tài sản chung như thế nào?. 4 Thứ năm, Nguyễn Thị Phíp (2020), “Kê biên nhà ở của người phải thi hành án - Một số vướng mắc từ thực tiễn và kiến nghị”, Tạp chí Nghề luật, số (05). Bài viết đã phân tích các quy định và bất cập của pháp luật Việt Nam về kê biên nhà ở duy nhất, nhà ở bị khóa của người phải thi hành án. Từ đó, tác giả đưa ra quan điểm hoàn thiện pháp luật trong việc ước tính giá trị của các tài sản khác của người phải thi hành án để xác định điều kiện “có tài sản khác nhưng không đủ để thi hành án”. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng, cần phải có quy định về việc Chấp hành viên phải lập biên bản ghi nhận hiện trạng toàn bộ tài sản khi kê biên nhà ở bị khóa của người phải thi hành án. Người phải thi hành án nếu không chủ động di dời tài sản trong nhà ở bị kê biên sẽ chịu mọi thiệt hại phát sinh từ việc kê biên, xử lý nhà ở. Các phân tích, kiến nghị trong bài viết được tác giả tiếp thu và phát triển trong Luận văn của mình. Thứ sáu, Hồ Quân Chính (2021), “Khó khăn, vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ để thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số (5(350)). Bài viết đã nêu các bất cập trong thực tiễn thi hành các quy định về kê biên, xử lý quyền đòi nợ của người phải thi hành án để thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Theo tác giả, khó khăn trong việc thẩm định giá và bán đấu giá quyền đòi nợ khiến việc xử lý tài sản này không mang lại hiệu quả trong thực tiễn. Từ đó, tác giả cho rằng cần xây dựng cơ chế phù hợp và riêng biệt để kê biên, xử lý tài sản là quyền đòi nợ của người phải thi hành án. Các phân tích trong bài viết là dữ liệu quan trọng để tác giả tiếp tục phát triển trong việc thực hiện Luận văn của mình. Thứ bảy, Nguyễn Minh Hằng, Bùi Nguyễn Phương Lê (2020), “Bàn về thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành”, Tạp chí Kiểm sát, số 07. Bài viết đã nêu ra tình huống thực tiễn và phân tích các quy định của pháp luật về thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án. Từ đó, các tác giả chỉ ra các bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong việc áp dụng việc thông báo cho đương sự về sự thay đổi giá trị tài sản sau khi Chấp hành viên định giá và bỏ quy định về việc Chấp hành viên ra quyết định bán đấu giá tài sản khi các bên không tự nguyện nộp tiền thi hành án theo kết quả định giá mới. Các phân tích trong bài viết được tác giả tiếp thu và phát triển trong Luận văn của mình. Như vậy, các công trình nghiên cứu hiện nay dù đã có những phân tích về lý luận và thực tiễn nhưng vẫn chưa có một công trình nào phân tích một cách chuyên sâu, riêng biệt và toàn diện các vấn đề liên quan đến việc thi hành nghĩa vụ về tài 5 sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, nội dung phân tích của các công trình nghiên cứu này là nền tảng quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu phát triển trong việc thực hiện đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ về lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và thực tiễn thi hành các quy định trên, chỉ ra những bất cập và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Nội dung bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, lịch sử và quy định của pháp luật về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Thứ hai, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc của các quy định về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Các hạn chế này tập trung ở các nội dung: xác minh điều kiện thi hành, áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Thứ ba, trên cơ sở phân tích các bản án của Tòa án, thực tiễn áp dụng các quy định về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, tác giả đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Thứ tư, với sự nhận diện hạn chế về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là các quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, thực tiễn áp 6 dụng, bất cập, vướng mắc, công trình đề xuất các kiến nghị, nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, chỉ ra những bất cập, hạn chế và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Trong đó, Luận văn tập trung nghiên cứu về các nội dung đặc thù của thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định sau khi Cơ quan thi hành án dân sự đã ban hành quyết định thi hành án, bao gồm việc xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế thi hành án, thanh toán tiền thi hành án. Luận văn không phân tích các vấn đề riêng biệt của thi hành án như hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, ủy thác thi hành án. Luận văn chỉ nghiên cứu các quy định đối với việc thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân do Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện, không nghiên cứu về việc tổ chức thi hành án của các tổ chức Thừa phát lại. Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2022 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân từ thời điểm Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 có hiệu lực thi hành cho đến hiện nay. 6. Phương pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ luận văn để phân tích các vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng về thi hành nghĩa 7 vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Phương pháp này cũng được áp dụng để phân tích những hạn chế, bất cập của các quy định về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. - Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ nội dung luận văn để tổng hợp kết quả nghiên cứu, chỉ ra bất cập, hạn chế từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. - Phương pháp so sánh được sử dụng ở chương 1 để đối chiếu quy định của pháp luật về thi hành pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân trước đây và hiện nay. Phương pháp này cũng được áp dụng để đối chiếu kết quả thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. - Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng trong toàn bộ luận văn để nhận diện và đánh giá quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân dưới góc nhìn về luật thực định và thực tiễn áp dụng. - Phương pháp bình luận được sử dụng trong chương 2 để nhận xét, đánh giá các quy định về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, trong thực tiễn áp dụng pháp luật để chỉ ra những bất cập cũng như đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Mỗi phương pháp nghiên cứu đem lại những hiệu quả nhất định trong việc làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định mục đích của nghiên cứu, qua đó làm sáng tỏ, đối tượng, mục tiêu nghiên cứu trong luận văn. 7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nghiệp vụ công tác của tác giả khi thực hiện nhiệm vụ được giao tại cơ quan công tác. Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. 8 8. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 02 chương: Chương 1. Những vấn đề cơ bản của thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân Chương 2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật việt nam đối với việc thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân 9 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THI HÀNH NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm thi hành nghĩa vụ về tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân Khái niệm thi hành án dân sự Theo từ điển Luật học, “thi hành án” là “hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”1 và “thi hành án dân sự” được hiểu là “hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”2. Với khái niệm này, Từ điển Luật học tiếp cận việc thi hành án dân sự với phạm vi tương đối hẹp vì chỉ hướng đến việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, chưa bao gồm quyết định của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác. Theo một tác giả, thi hành án dân sự là giai đoạn thực thi các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan tài phán nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan3. Theo một quan điểm khác, công tác thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác được thi hành trên thực tế4. Một quan điểm khác định nghĩa thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật5. Theo một tác giả khác, thi hành án là quá trình hiện thực hóa bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác theo pháp luật nhằm buộc người phải thi Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (1999), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 705. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (1999), tlđd (1), tr. 706. 3 Nguyễn Văn Nghĩa, Hoàng Thị Thanh Hoa (2020), “Việc thi hành án dân sự điển hình”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số (22(422)), tr. 19. 4 Đinh Duy Bằng (2014), “Sửa đổi Luật thi hành án dân sự phải xuất phát từ thực tiễn và xác định nội hàm quyền tư pháp của Tòa án”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số (16(272)), tr. 32. 5 Nguyễn Doãn Phương, “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=272, truy cập ngày 15/7/2022. 1 2 10 hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án, bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhà nước và xã hội6. Theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và năm 2022 (Luật THADS năm 2022), bản án, quyết định được thi hành theo Luật này ngoại trừ bản án, quyết định của Tòa án còn bao gồm quyết định của một số cơ quan, tổ chức khác như quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. Với quy định này, từ “án” trong “thi hành án dân sự” phải được hiểu dưới góc độ rộng và bao gồm tất cả những bản án, quyết định có liên quan đến các vấn đề dân sự cần được thực hiện. Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng dân sự nhằm hoàn tất quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế, bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, hoạt động thi hành án dân sự còn góp phần phát hiện sai sót của các quá trình tố tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến trúc xây dựng…, từ đó kiến nghị đến Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan; chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật. Thi hành án dân sự là một hoạt động của quyền lực nhà nước, vừa mang tính hành chính, vừa mang tính tư pháp, do cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên thực hiện nhằm đưa các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự trên thực tế gắn với quyền lực hành pháp, đồng thời, thúc đẩy các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình7. Lưu Bình Nhưỡng (2015), “Xã hội hóa công tác thi hành án theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số (7(280)), tr. 11. 7 Đoàn Thị Phượng (2019), “Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và bài học kinh nghiệm”, Tạp chỉ Dân chủ và pháp luật, số (3(324)), tr. 53-54. 6 11 Trong nhiều quan điểm hiện nay có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự chỉ là khâu phái sinh của hoạt động xét xử, là thực hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật nên không nhất thiết phải coi trọng. Quan điểm đó chỉ phản ánh trực diện một phần nhỏ mà chưa bao quát hết vấn đề ở chỗ thi hành án dân sự là một khâu có tính độc lập quan trọng trong hoạt động Tư pháp bởi nó góp phần đưa bản án đã có hiệu lực pháp luật trở thành quyền lực Nhà nước trên thực tiễn vì nó đảm bảo bản án đó sẽ được thi hành bởi các thiết chế quyền lực trong đó cơ quan thi hành án đóng vai trò then chốt8. Khái niệm bản án, quyết định của Tòa án Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay không có định nghĩa về bản án, quyết định của Tòa án. Theo từ điển tiếng Việt, “bản án” là quyết định bằng văn bản của Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử vụ án, trong đó về án dân sự thì xác định việc giải quyết tranh chấp. Một bản án hợp pháp và có căn cứ là phải phù hợp với các quy định của pháp luật9. Đây cũng là phán quyết của Tòa án đối với tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án cũng như đánh dấu sự kết thúc quá trình tố tụng dân sự đối với vụ án đó cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của Hội đồng xét xử10. Theo Điều 106 Hiến pháp năm 2013, bản án của Tòa án là văn bản được tuyên nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khi có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Bản án là văn bản kết thúc toàn bộ quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xác định những vấn đề của vụ án cần giải quyết và phải có đầy đủ các nội dung yêu cầu theo quy định của pháp luật tố tụng. Theo Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, để ban hành bản án, Tòa án xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng quyết định việc có tội hoặc không có tội; áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân11. Lê Hùng Cường (2015), “Góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, số (04), tr. 71. 9 Nguồn: [http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?TuKhoa=b% E1%BA%A3n%20%C3%A1n&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=26705], ngày truy cập: 20/8/2022. 10 Nguồn: [https://thuvienphapluat.vn/tnpl/b%e1%ba%a3n%20%c3%a1n%20], ngày truy cập: 20/8/2022. 11 Nguyễn Minh Hằng (2020), “Tổng quan về kỹ năng bình luận án”, Tạp chí Nghề luật, số chuyên đề Bình luận án, tr. 4. 8 12 Hoạt động xét xử các vụ án ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc hai cấp xét xử. “Cấp xét xử được hiểu là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân”12. Theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Ở mỗi cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, Tòa án có thể ban hành bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm. Theo Điều 266 BLTTDS năm 2015, nội dung bản án sơ thẩm phải bao gồm phần: mở đầu; phần nội dung và nhận định; phần quyết định của Tòa án. Theo khoản 2 Điều 313 BLTTDS năm 2015, bản án phúc thẩm gồm có: phần mở đầu; phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị và nhận định; phần quyết định. Mặt khác, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản được ban hành trong trường hợp công bố một sự kiện hoặc giải quyết một vấn đề, một yêu cầu cụ thể nào đó13. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án ban hành rất nhiều quyết định, trong đó có những quyết định nhằm tiến hành các hoạt động tố tụng như quyết định thu thập chứng cứ, quyết định thụ lý vụ án, quyết định trả lại đơn khởi kiện… hoặc những quyết định nhằm giải quyết tranh chấp như quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2014, quyết định của Tòa án được thi hành theo Luật này phải là quyết định dân sự hoặc các quyết định liên quan đến tài sản, vật chứng, án phí… trong các vụ án hình sự hoặc hành chính. Khái niệm nghĩa vụ về tài sản Theo Từ điển Tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa, “nghĩa vụ” được giải thích là “việc phải làm theo bổn phận của mình hoặc theo sự phân công”14 hay “việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”.15 Theo Từ điển Luật học, “nghĩa vụ” được giải thích là “những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của người khác”. Theo khái niệm trên, có ba loại nghĩa vụ: (i) Nghĩa vụ theo phong tục: nghĩa vụ do phong tục, tập quán của địa phương quy định. (ii) Nghĩa vụ về đạo đức, nhân văn: con phải có hiếu với cha mẹ, vợ chồng Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số (05), tr. 1. 13 Dương Huyền Thanh, “Bản án và quyết định khác nhau như thế nào”, https://luathoanganh.vn/hoi-dapluat-hinh-su/ban-an-va-quyet-dinh-khac-nhau-nhu-the-nao-lha4356.html, truy cập ngày 10/6/2022. 14 Nguyễn Lân (1998), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1258. 15 Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt Phổ thông, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 615. 12 13 phải sống chung thủy với nhau (iii) Nghĩa vụ pháp lí: những nghĩa vụ đã được pháp luật quy định, nghĩa vụ của công dân do hiến pháp và các luật quy định16. Theo một quan điểm, nghĩa vụ “là những hành vi cụ thể mà một bên phải thực hiện vì quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể phía bên kia”. Các nghĩa vụ đó có thể là: Chuyển giao vật trong các hợp đồng mua bán, thuê, vận chuyển, gia công tài sản; Chuyển giao quyền trong các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; Trả tiền để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng mua bán, cho vay, dịch vụ hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; Thực hiện công việc nhất định trong các hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gia công; Không được thực hiện những công việc nhất định; ví dụ: không được thay đổi cấu trúc nhà thuê, không được tự ý cho thuê lại nhà đang thuê17. Một quan điểm khác cho rằng, nghĩa vụ dân sự được hiểu là “quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể mang quyền. Các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên xác lập quan hệ nghĩa vụ dân sự”18. Theo Điều 274 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi so với BLDS năm 2005 trong việc thay đổi thuật ngữ “nghĩa vụ dân sự” thành “nghĩa vụ”19, nhưng không có sự khác biệt về nội hàm. Viện Khoa học Pháp lý (1999), tlđd (1), tr. 320. Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr.16-17. 18 Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình luật dân sự, Nxb. Công an Nhân dân, tr. 256. 19 Điều 280 BLDS năm 2005: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. 16 17 14 Nghĩa vụ có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, với tiêu chí về hiệu lực của nghĩa vụ, có thể phân chia nghĩa vụ thành ba loại: nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự20. Nghĩa vụ đạo đức được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, đây “đơn thuần là nghĩa vụ lương tâm” và “không có hiệu lực pháp lý”21. Nghĩa vụ thiên nhiên là một nghĩa vụ không do pháp luật bắt buộc thi hành mà vì lẽ công bằng người mắc nợ phải trả22. Nghĩa vụ dân sự hay còn được gọi là nghĩa vụ pháp lý, là loại nghĩa vụ duy nhất có hiệu lực pháp lý, trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định bởi pháp luật. Mặt khác, theo Từ điển Tiếng Việt, “tài sản là của cải, vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”23 hoặc “là của cải vật chất dành cho sản xuất hoặc tiêu dùng”24. Theo Từ điển Luật Học, tài sản được định nghĩa là “các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác”25. Với các định nghĩa trên, tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã được thỏa thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản. Theo một quan điểm, tài sản được tiếp cận dưới hai góc độ: (i) dưới góc độ triết học, tài sản là một bộ phần của thế giới vật chất, đó có thể là những lợi ích vật chất tồn tại trong thế giới thực do con người tìm thấy trong tự nhiên hoặc các sản phẩm xã hội do con người chế tạo, có gí trị kinh tế, phục vụ cho các nhu cầu của con người mà con người có thể làm chủ, chi phối được. (ii) dưới góc độ kinh tế pháp lý, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, gồm các tài nguyên đã được con người khai phá, các sản phẩm do con người làm ra hoặc các lợi ích khác có giá trị kinh tế và giá trị sử dụng mà con người có thể hưởng thụ để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của mình26. Một quan điểm khác cho rằng, tài sản được định nghĩa dựa trên các đặc điểm pháp lý cơ bản sau: Thứ nhất, tài sản là những đối tượng mà con người có Ngô Huy Cương (2008), “Nguồn gốc của nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8(124), tr. 8-9. 21 Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr. 17. 22 Ngô Huy Cương (2008), “Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam”, https:// thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/04/30/08745/, truy cập ngày 19/08/2022. 23 Viện ngôn ngữ học (2002), tlđd (15), tr 811. 24 Nguyễn Văn Xô (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 631. 25 Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (1999), tlđd (1), tr. 443. 26 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.12. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan