ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH THỊ THU HIỀN
SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI VIỆT NAM VÀ
SINGAPORE
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Trịnh Thị Thu Hiền
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
KÝ HIỆU
NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1.
FTAC
:
Hội đồng Trọng tài Ngoại thương
2.
HĐTT
:
Hội đồng trọng tài
3.
IAA
:
Đạo luật trọng tài quốc tế
4.
LTM
:
Luật thương mại
5.
MAC
:
Hội đồng Trọng tài Hàng hải
6.
SIAC
:
Singapore International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore)
7.
TTTM
:
Trọng tài thương mại
8.
TTTT
:
Trung tâm trọng tài
9.
TTV
:
Trọng tài viên
10.
VIAC
:
Vietnam International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam)
DANH MỤC CÁC BẢNG
SỐ HIỆU
TÊN BẢNG
TRANG
2.1.
Tranh chấp VIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013
40
2.2.
Tranh chấp SIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013
45
BẢNG
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................................. 3
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5
6. Những điểm mới của luận văn ................................................................................ 5
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI .................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về trọng tài thương mại ....................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại ................................................. 7
1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Pháp luật Viê ̣t Nam và Singapore ....... 17
1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore...... 24
1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) .......................................................................... 24
1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài................. 27
1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài ............................. 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 30
CHƢƠNG 2: SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM
TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) .......................................................................... 32
2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thương mại32
2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)............................................... 32
2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) .............................................. 36
2.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................................. 38
2.2. So sánh thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại hai Trung
tâm trọng tài .............................................................................................................. 39
2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc
tế Việt Nam ................................................................................................................ 39
2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài
Quốc tế Singapore ..................................................................................................... 44
2.2.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam ............................................................ 46
2.3. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore .................................. 47
2.3.1. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) ....................................................................................................................... 48
2.3.2. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore
(SIAC) ....................................................................................................................... 55
2.3.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam ............................................................ 68
2.4. Đánh giá hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) ............................. 70
2.4.1. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam ...... 70
2.4.2. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore .... 74
2.4.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam ............................................................ 76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 77
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ KIỆN TOÀN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIAC ................................................. 78
3.1. Hoàn thiện Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam ........................................ 78
3.1.1. Luật trọng tài................................................................................................... 78
3.1.2. Giải pháp đối với pháp luật liên quan ............................................................ 82
3.2. Kiện toàn cơ chế nhằm nâng cao vai trò của trung tâm trọng tài Việt Nam ...... 83
3.2.1. Kiện toàn cơ chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) ................... 83
3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa trọng tài và các cơ quan liên quan nhằm phát huy
vai trò trọng tài tại Việt Nam .................................................................................... 84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 89
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 91
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra ngày càng
sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế
trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại phát
triển, đồng thời các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này tăng nhanh chóng với
tính chất ngày càng phức tạp. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn
của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm
loại bỏ tranh chấp, song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ
tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng
mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là phương pháp nào cần thực hiện nếu
có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các hình thức
giải quyết tranh chấp phổ biến đang được sử dụng bao gồm: thương lượng, hòa giải,
tòa án, trọng tài. Thực tế đã đặt ra nhu cầu hoàn thiện các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trên thế giới, phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại đã trở nên thông dụng. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài cũng được chú trọng. Từ những năm 1960, Hội đồng
Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đi vào hoạt động. Để kiện toàn căn cứ
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài nói riêng, và hoàn thiện hệ thống giải
quyết tranh chấp nói chung, ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đáp ứng điều kiện kinh tế - xã hội thời điểm
đó, cũng như tương thích với pháp luật quốc tế, các điều ước mà Việt Nam tham
gia. Nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại, ngày 17 tháng 6 năm
2010, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010, bắt đầu có hiệu lực từ
1
ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật Trọng tài thương mại 2010 tiếp tục giải quyết những
vấn đề chưa được ghi nhận thấu đáo trong Pháp lệnh: phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài, vấn đề lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài trong giải
quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài,...
Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; là căn cứ đảm bảo áp dụng hiệu quả các quy
tắc tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại Việt Nam
vẫn chưa được các cá nhân, tổ chức áp dụng nhiều trên thực tế. Nguyên nhân xuất
phát từ khung pháp luật và cơ chế hoạt động của các trung tâm trọng tài tại Việt
Nam gây sự thiếu tin tưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp. So với các hình thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thông dụng trên thế giới, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài chuyên nghiệp hơn, do đó, các cá
nhân và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này hơn.
Để phát huy hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong điều
kiện gia tăng xung đột quyền lợi của các chủ thể khi tham gia kinh tế thị trường
cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cần có những nghiên cứu tương
quan so sánh với pháp luật trọng tài các nước để từ đó rút ra các bài h ọc kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài tại Việt Nam. Hiện nay,
Singapore là mô ̣t quố c gia có nề n kinh tế phát triể n tương đố i nhanh
(là một trong
bố n con rồ ng của C hâu Á ). Với mô ̣t nước có nề n kinh tế phát triể n như vâ ̣y
, các
tranh chấ p liên quan đế n hoa ̣t đô ̣ng thương ma ̣i là mô ̣t điề u không tránh khỏi
.
Singapore là nước đầ u tiên trong khu vực áp du ̣ng tro ̣ng tài quố c tế để giải quyế t các
tranh chấ p thương ma ̣i và đa ̣t đươ ̣c nhiề u hiê ̣u quả từ viê ̣c áp du ̣ng này
. Từ những
kết quả mà Singapore đã đạt được chúng ta có thể tìm ra được những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ chế về trung tâm trọng tài tại
Việt Nam.
Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về trung
tâm trọng tài Việt Nam và Singapore” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề trọng tài có thể nói không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam.
Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học do các nhà
khoa học pháp lý của Việt Nam thực hiện. Nhất là trong những năm trở lại đây, khi
xây dựng pháp luật trọng tài thương mại đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết thì vấn
đề này càng được quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu đề tài
này được thực hiện dưới nhiều hình thức và những góc độ khác nhau.
Một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài như:
luận văn thạc sỹ “Tác động của những quy định mới trong Luật trọng tài thương
mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” của
Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012; luận văn thạc sỹ “Pháp luật về thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; luận văn thạc sỹ “Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Đặng Thị Minh Ngọc năm 2013; luận văn thạc sỹ “Những nguyên tắc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Nguyễn Thị Hiển năm 2013.
Ngoài ra, còn có những bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về trọng tài dưới
nhiều khía cạnh khác nhau như PGS.TS Phạm Hữu Nghị có bài “Về cơ chế giải
quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” đăng trên báo đời sống
pháp luật số ra ngày 23/8/2010; LS Trần Hữu Huỳnh có bài “Pháp luật trọng tài
thương mại những thử thách phía trước” đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày
20/7/2011.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài
thương mại, nhưng chủ yếu là những công trình nghiên cứu xem xét một vài khía
cạnh liên quan đến trọng tài hoặc pháp luật về trọng tài Việt Nam nói chung mà
chưa có công trình nghiên cứu so sánh pháp luật về trung tâm trọng tài như một
thiết chế giải quyết tranh chấp từ kinh nghiệm của các nước có trung tâm trọng tài
hoạt động hiệu quả như Singapore. Vì vậy, có thể nói đây là công trình nghiên cứu
so sánh một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề về pháp luật trung tâm trọng tài.
3
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và Singapore
cũng như tổ chức và hoạt động của thiết chế trọng tài, từ đó tìm ra những bài học và
khả năng ứng dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hình thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.
Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nhận diện cách tiếp cận, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí xây dựng
pháp luật trọng tài Việt Nam và Singapore; trên cơ sở đó phân tích, so sánh
nhằm rút ra những kinh nghiệm hữu ích hoàn thiện pháp luật trọng tài thương
mại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý phân tích tính tương thích với
Luật mẫu về trọng tài thương mại làm căn cứ cho quá trình hoàn thiện thiết chế
trọng tài tại Việt Nam.
- Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài
Singapore; so sánh với Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam (VIAC) cũng như thực tế giải quyết tranh chấp của các trung
tâm trọng tài, từ đó rút ra kinh nghiệm kiện toàn cơ cấu hoạt động Trung tâm trọng
tài của Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam và kiện toàn cơ chế trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp như Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc so sánh Luật trọng
tài thương mại Singapore hiện hành với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung
tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) và pháp luật Trọng tài thương mại hiện
hành của Việt Nam với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC).
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng phương pháp luận
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin; quán triệt quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan
tài phán kinh tế.
Với mục đích của đề tài là So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài của Việt
Nam với pháp luật về trung tâm trọng tài thương mại Singapore trên cơ sở các tiêu
chí cụ thể theo pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam và Singapore. Đối với
yêu cầu của đề tài như trên, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp trong quá
trình nghiên cứu như sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa để làm rõ nội
dung đề tài.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu cách tiếp cận và thể chế hóa các quy
định pháp luật về trọng tài thương mại Singapore – một trong quốc gia có tổ chức
trọng tài được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất hiện nay để từ đó xác định những
điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Về mặt thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại hai trung tâm trọng tài lớn ở Việt Nam và Singapore. Từ
việc so sánh thực trạng này, đưa ra những đánh giá “đời sống xã hội” của các quy
định pháp luật về trọng tài và đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của
trọng tài tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế bố cục gồm 3 chương như sau:
5
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về trọng tài thương mại và trung tâm trọng tài
Chƣơng 2. So sánh thực trạng pháp luật về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC)
Chƣơng 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và
kiện toàn cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại VIAC.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thương mại
Trọng tài, xét về mặt ngữ nghĩa, được hiểu là tài phán trung lập, ở đây chỉ
người thứ ba được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý
nghĩa này, trọng tài đã xuất hiện từ lâu, có vai trò giải quyết tranh chấp phát sinh
theo yêu cầu của các bên.
Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi
và các thương gia thường cố gắng tìm ra mọi phương pháp thích hợp để giải quyết
những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được với nhau, vụ
việc sẽ được đưa đến một bên thứ ba trung lập, người thứ ba này thường là người có
kinh nghiệm để giải quyết. Trong thời kì đầu, việc giải quyết của người thứ ba chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích các vấn đề mà các bên đang
quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo. Về sau này, xuất phát từ nhu cầu giải
quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh chóng nên các bên thỏa thuận rằng quyết
định của bên thứ ba giải quyết tranh chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân
của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngày nay [14].
Hiện nay, TTTM đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ
biến và được các nhà kinh doanh ưa chuộng, nhất là ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. TTTM ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất
phát từ bản chất của trọng tài.
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác
nhau nhưng chủ yếu dưới hai phương diện sau đây:
Thứ nhất, trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp:
7
Theo hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh
chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành” [25].
Theo giáo sư Philipe Fouchard:“Trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài viên) thẩm
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau” [6, tr17].
Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn
“Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau:“Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ
ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo
những thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [8, tr10].
Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa:“Trọng
tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư
cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán
quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối
với mỗi bên” [36, tr55].
Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài
có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2:“Trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”.
Thứ hai, trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp:
Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, “Giáo trình Tư
pháp quốc tế của Liên Xô (cũ) có viết: Trọng tài bao gồm những cá nhân được các
bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ”
[34, tr384].
8
Theo giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường Đại
học Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên
đương sự giao tranh chấp cho để xét xử” [37, tr79].
Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng
tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng
tài là một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó
bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết
định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [38, tr105].
Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi
trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình
thức nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các
Trung tâm Trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
Quan điểm coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản
chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng tài khác với các hình thức
giải quyết tranh chấp khác.
Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ
khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét. Tất cả đều có điểm chung là
Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do
các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực
hiện… Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một phương thức tài
phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán.
Theo tác giả, để có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về trọng tài, cần có
một cái nhìn tổng quát với sự đánh giá mang tính lịch sử:
- Về mặt thời gian, quan điểm định nghĩa trọng tài thiên về hình thức chủ yếu
tồn tại ở giai đoạn khi trọng tài chưa thực sự phát triển. Cụ thể, ý kiến coi “Trọng tài
bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các vụ việc dân sự của họ” được nêu ra từ năm 1984; ý kiến cho rằng
“Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh
9
chấp cho để xét xử” nêu trong giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối
ngoại” của trường đại học Ngoại thương xuất bản từ những năm 1994.
Từ điển luật học Black định nghĩa trọng tài cũng có sự thay đổi theo hướng
trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Edition 6 (1990): “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên
tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các
bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh
chấp ấy” [40, tr 105].
+ Edition 2 (2001): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có
sự tham gia của một hay nhiều bên thứ ba trung lập được chọn bởi các bên tranh
chấp và quyết định của họ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên” [41, tr41].
Thời gian sau này, các định nghĩa trọng tài đều thiên về mặt bản chất, khẳng
định trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Xét về nội hàm của khái niệm thì quan điểm coi trọng tài là một thiết chế
chưa bao quát được đặc trưng riêng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, tố tụng tư pháp… Mặt khác, việc coi
trọng tài là một thiết chế chỉ đúng nghĩa về mặt pháp lý; nếu xét về mặt tổ chức coi trọng tài là một cơ quan tồn tại hiện hữu có phần thiếu chính xác. Bởi lẽ, Ban
thường trực của các TTTT gồm Chính phủ, Phó chủ tịch, các nhân viên giúp việc
không thực hiện chức năng của trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp giao quyền
lực cho trọng tài là giao quyền giải quyết tranh chấp cho TTV/HĐTT chứ không
phải giao quyền lực cho TTTT. Các TTV/HĐTT không phải là nhân viên của TTTT,
mà họ chỉ thực hiện những công việc giải quyết tranh chấp khi được các bên yêu
cầu và khi giải quyết xong thì họ hết nhiệm vụ với các bên. Khác với Tòa án là cơ
quan được Nhà nước thành lập để thực hiện quyền lực tư pháp của nhà nước; khi
các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, họ không có quyền lựa chọn để giao quyền
lực cho Thẩm phán, việc phân công Thẩm phán thuộc thẩm quyền của Chánh án.
Với lập luận trên, có thể thấy rằng coi trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp với những đặc trưng riêng của nó là phù hợp nhất.
10
Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh… thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động
kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu được sử dụng trong
giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này, nó tỏ ra phù hợp và ưu
thế hơn so với những cách giải quyết khác. Phạm vi các vụ tranh chấp được giải
quyết bằng phương thức TTTM rộng hay hẹp phụ thuộc vào các quy định trong
pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó quan điểm về thương mại có ảnh hưởng rất
quan trọng.
Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương mại”
theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan đến các
mối quan hệ có bản chất thương mại.
Bộ luật thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm
mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi
giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…[7].
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm 1985 của
UNCITRAL có ghi rõ:
Khái niệm thương nhân cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất
cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hay
không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới
hạn với các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp, trao
đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các
công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li –
xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt
hoặc đường bộ.
Trong khi đó, Luật thương mại năm 1997 của Việt Nam quy định khái niệm
thương mại với nội hàm rất hẹp, chỉ gồm những hành vi do thương nhân tiến hành
liên quan đến hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa. Khoản 2 Điều 5 Luật thương
11
mại 1997 quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội”. Khái niệm “thương mại” rất bất cập
này dẫn đến nhiều hành vi có bản chất thương mại đã không được coi là hành vi
thương mại, xét riêng về sự liên quan đến TTTM thì rõ ràng đã thu hẹp thẩm quyền
của TTTM ở Việt Nam.
Khắc phục hạn chế nêu trên, Pháp lệnh TTTM được ban hành năm 2003 đã
đưa ra một khái niệm mới là khái niệm “hoạt động thương mại” và quy định TTTM
có quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Khái
niệm hoạt động thương mại trong pháp lệnh TTTM được hiểu theo một nghĩa rất
rộng, bao gồm hầu như các lĩnh vực hoạt động của thương nhân, từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối, từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, từ hoạt động kinh
doanh thông thường đến hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Theo quy định
tại Khoản 3 Điều 2 pháp lệnh này thì “ Hoạt động thương mại là việc thực hiện một
hay nhều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán
hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê,
cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính, ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo
quy định của pháp luật”. Về cơ bản, có thể nói, thuật ngữ “hoạt động thương mại”
trong Pháp lệnh TTTM năm 2003 của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái
niệm thương mại trong luật Mẫu UNCITRAL về TTTM và khái niệm “kinh doanh”
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Khoản 2 Điều 4).
Được ban hành trong điều kiện nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa “hoạt động thương
mại” với nội hàm như khái niệm nêu trên trong pháp lệnh TTTM, nhưng nội dung
gọn hơn và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt động thương mại là
12
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Như vậy, có thể nói khái niệm hoạt động thương mại được quy định trong
Pháp lệnh TTTM và Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp cận được với pháp luật
quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các hoạt
động thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”. Có thể nhận thấy, quy định của Luật Trọng
tài thương mại còn khá chung chung. Để có được cách hiểu đầy đủ nhất về trọng tài
thương mại ta có thể đưa ra định nghĩa trọng tài thương mại như sau:
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các
bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán
quyết, bên thứ ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán
quyết của bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
1.1.1.2. Vai trò của trọng t ài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương ma ̣i
Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nước ta từ hình thức kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động
thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như sự giao thương
với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi Nhà nước ta
đang dần dần hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc, giúp bảo vệ quyền lợi và
lợi ích của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại. Đi
kèm với những bước tiến đó là những nảy sinh trong tranh chấp thương mại giữa
các bên ngày càng nhiều về số lượng và rắc rối trong cách giải quyết tranh chấp.
Điều này đã đặt lên vai những người làm luật một trọng trách nặng nề, đặc biệt là
những người cầm cân nảy mực, đảm bảo sự công bằng cho các bên trước pháp luật.
Bên cạnh hệ thống Tòa án thì Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp tồn
tại từ rất lâu, và ở Việt Nam thì Trọng tài đã từng được thừa nhận vào cuối thế kỷ
13
- Xem thêm -