I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo viên là những người được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên
môn đồng thời còn được trang bị đầy đủ kỹ năng trong việc giáo dục nhân cách
học sinh nhất là thông qua công tác chủ nhiệm nhằm giúp học sinh phát triển một
cách toàn diện. Mặt dù đã được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có năng
khiếu, sở trường riêng, về chuyên môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng
về kỹ năng quản lý, giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm thì chắc không
phải ai cũng làm tốt, đặc biệt là giáo dục học sinh cá biệt.
Trong xã hô ôi hiê ôn nay, nền kinh tế thị trường làm cho đời sống, ý thức của
người dân được cải thiê ôn hơn, ai ai cũng từ chỗ “cơm no áo ấm” dần dần tiến tới
“ăn ngon mă ôc đẹp”, chăm lo cho tương lai con cái nhiều hơn; chính sách mở cửa,
giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước cũng rất đa dạng. Điều đó đã tác đô ng ít
ô
nhiều đến sự nhâ ôn thức, hiểu biết của các học sinh chúng ta. Cho nên ta dễ dàng
nhâ n thấy rằng học sinh ngày nay thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo và hiểu biết
ô
hơn.
Tuy nhiên ta không thể không bàn tới mă t trái của nền kinh tế thị trường.
ô
Những cái xấu đã và đang len lỏi vào thế hê ô trẻ chúng ta. Nó làm lu mờ lí trí, bôi
đen nhân cách khiến những người làm công tác giáo dục, các bâ ôc phụ huynh phải
băn khoăn, lo lắng. Qua thực tế, ta nhâ ôn thấy đạo đức học sinh đang trên đà đi
xuống, đạo hiếu, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” dường như bị xem nhẹ, các tê ô
nạn xã hô ôi như lưu truyền, tiếp xúc văn hóa phẩm đồi trụy, cờ bạc, ma túy …ngày
càng len lõi vào học đường. Đặc biệt hơn nữa là có những học sinh xem thường, vô
lễ, thậm chí chống đối lại thầy cô giáo đang dạy mình ….mà đằng sau đó là một sự
bao che dung túng của gia đình. Thực trạng này luôn là rào cản, gây khó khăn cho
những người làm công tác chủ nhiê ôm lớp. Bởi vì người giáo viên chủ nhiê ôm đâu
chỉ là quản lí các em mà còn phải dạy dỗ, phải chịu trách nhiê ôm về mặt học tâ ôp,
đạo đức của các em. Chủ nhiê ôm lớp là một công việc khó khăn nhưng vô cùng
nghiêm túc. Trong nhà trường người gần gũi nhiều nhất với các em học sinh, người
luôn ở bên cạnh giải đáp mọi khó khăn thắc mắc của các em, người mà các em
kính trọng và yêu quí nhất, người mà được các em xem như là cha là mẹ không ai
khác chính là người giáo viên chủ nhiê ôm lớp.
Là mô ôt giáo viên chủ nhiê ôm lớp tôi rất mong muốn học trò của mình là
những con ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này lớn lên các em tự tin, năng
động, bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người công dân có ích cho xã hô ôi.
Tuy nhiên trong nhà trường, trong mỗi lớp vẫn tồn tại một số học sinh có biểu hiện
sa sút về học lực lẫn hạnh kiểm do nhiều nguyên nhân tác động đã dẫn đến tình
trạng như thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, bỏ học, cúp tiết, mê
chơi game, không chấp hành nội quy nề nếp trường lớp, gọi chung là học sinh cá
biệt… từ đó dẫn đến các tiêu cực khác…Những đối tượng nêu trên mặt dù số
lượng không nhiều, trung bình chỉ chiếm khoảng 5%/lớp. Nhưng đối với GVCN
đây là vấn đề không ít khó khăn trong công tác quản lý lớp, nếu không khéo sẽ làm
ảnh hưởng đến những học sinh khác, nhất là đối với những giáo viên mới ra trường
chưa có nhiều kinh nghiệm, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chung
của nhà trường. Từ đó mà đối với mỗi giáo viên ngoài kiến thức chuyên môn giỏi
1
đòi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ nhiệm nhằm kịp thời giáo dục những
học sinh cá biệt trở thành những học sinh ngoan. Giúp các em có được nhận thức
đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của một người học sinh, đồng thời giúp cho người
thầy có được niềm tin đam mê nghề nghiệp, tạo một môi trường giáo dục thân
thiện, tích cực đầy ý nghĩa. Đây là vấn đề quan trọng trong công tác chủ nhiệm ở
trường THCS nhất là trong giai đoạn hiện nay - Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư
cho giáo dục, bằng nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Trong toàn ngành giáo dục đang thực hiện cuộc vận động “Hai không với bốn nội
dung”; phong trào thi đua “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học, sáng
tạo”, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Vì
vậy vai trò của GVCN không thể xem nhẹ, nhất là trong việc giáo dục học sinh cá
biệt. Mỗi thầy cô giáo với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của
mình bằng mọi cách phải giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động,
học tập, phải uốn nắn các em từ người “xấu” trở thành người “tốt”. Nếu không
khéo sẽ làm hỏng cả một thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho
gia đình và xã hội.
Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tôi viết
sáng kiến giải pháp với đề tài “Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo
dục học sinh cá biệt”. Với đề tài này, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho
những học sinh cá biệt từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo
hướng tích cực. Giúp các em biết tự tôn trọng bản thân mình và xác định được việc
học sẽ phục vụ chính bản thân các em và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp
phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp các em thấy được công lao to lớn của
các bậc làm cha, làm mẹ nuôi con ăn học; sự vất vả của các thầy cô trong việc
truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho các em.
* Tính mới của đề tài
Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, khá gắn bó với người
giáo viên và hầu như giáo viên dạy bộ môn nào cũng từng qua công tác này. Vì
vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này đều tích luỹ
cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, cùng với sự
tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hoá, kinh tế, mặt trái của nền kinh tế thị
trường... thì vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vấn đề giáo dục học sinh cá biệt của
một giáo viên chủ nhiệm là vấn đề không hề cũ. Những kinh nghiệm mà giáo viên
chủ nhiệm tích luỹ được trong giáo dục học sinh cá biệt cần được quan tâm, chia
sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ
mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo dục, rèn luyện các em ngày
càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con người lao động “vừa hồng, vừa
chuyên”, sống hoàn thiện, có ích trong tương lai.
2. Phạm vi đề tài áp dụng
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng của trường mình trong những
năm qua , đặc biệt là năm học 2012 -2013 để áp dụng cho những năm học tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến học sinh cá biệt.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng về học sinh cá biệt ở trường THCS
1.1 Thực trạng
2
Trong nhà trường THCS hiện nay đối tượng học sinh cá biệt, chưa ngoan không
phải là nhiều, là phổ biến nhưng ở trường nào, lớp nào cũng chịu ảnh hưởng bởi
đối tượng học sinh này làm ảnh hưởng đến thành tích, kết quả và các phong trào
thi đua của lớp . Đối tượng này làm giáo viên chủ nhiệm phải trăn trở, lo nghĩ làm
thế nào để các các em tiến bộ nhanh hơn cả về học tập cũng như đạo đức.
Giáo viên chủ nhiệm thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do học sinh
gây ra, nhưng chỉ ở mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngoài giờ cho học sinh quá
yếu kém, còn đối với HS cá biệt về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí còn hù
dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, học sinh
vẫn trở lại như cũ vì do giáo viên không hiểu được nguyên nhân sâu phát xuất từ
tâm lý của trẻ.
Nhiều giáo viên chủ nhiệm đã mời phụ huynh đến để thông báo tình hình của
học sinh với mong muốn gia đình kết hợp với nhà trường để giáo dục con em tốt
hơn, có phụ huynh thì tiếp thu nhưng cũng có phụ huynh bảo thủ bao che cho con
mình , có phụ huynh bất lực trước con nên nhờ nhà trường giúp đỡ.
Năm học 2012-2013 bản thân tôi được ban giám hiệu phân công chủ nhiệm lớp
7A, đây là tập thể lớp có đa số các em thực hiện tốt nội quy, nề nếp tuy vậy tỉ lệ
học sinh yếu về học lực và hạnh kiểm khá cao (hơn 5 em thi lại và có 2 học sinh
hạnh kiểm trung bình). Do tâm lí lứa tuổi nhiều học sinh có biểu hiện sa sút về đạo
đức, ý thức học tập kém, thường xuyên vi phạm nội quy, quy định của trường
lớp ....mà chúng ta quen gọi là học sinh cá biệt.
Đối tượng học sinh cá biệt thường có những biểu hiện sau:
- Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ.
- Không đồng phục, phù hiệu
- Đầu tóc, tác phong không đúng với người học sinh THCS
- Mất trật tự trong giờ học.
- Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy.
- Thiếu văn hóa (nói tục, chửi thề , vô lễ với giáo viên).
- Đùa giỡn, chọc ghẹo người khác quá mức.
- Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên không chép bài.
- Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bạn bè tham gia những trò chơi nguy hiểm.
- Đi học về nhà không đúng giờ.
- Thường nói dối.
- Không giữ vệ sinh trường lớp , không tham gia các hoạt động của lớp, trường...
1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
* Nguyên nhân khách quan:
- Do đặc điểm lứa tuổi, học sinh lớp 7 có một sự thay đổi lớn về tâm sinh lý vượt
qua ngưỡng cửa “trẻ con” để làm bắt đầu làm “người lớn” nên thể hiện sự bốc
đồng, nóng nảy, phản ứng quyết liệt trước mọi việc nên rất khó giáo dục.
- Xã hội ngày càng phát triển, các em tiếp cận với nhiều cái mới nhưng các em
chưa định hướng, chưa làm chủ được bản thân khi tiếp cận với cái mới làm cho
bản thân các em trở nên mất phương hướng, trở nên hư hỏng.
- Sự quản lý giáo dục của gia đình chưa chặt chẽ, bố mẹ bận bịu với công việc, ít
quan tâm đến con cái; nhiều gia đình kinh tế khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con
mà không quan tâm đến kết quả học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.
3
bố mẹ mâu thuẫn hoặc ly hôn cũng để lại cho các em những hố sâu hụt hẫng làm
cho các em chán nản, bi quan, không còn mục đích phấn đấu vươn lên.
- Một số ít giáo viên chủ nhiệm có quan tâm nhưng chưa hiểu học sinh, chưa thực
sự lắng nghe những tâm tư, tình cảm của các em; một số khác quá nghiêm khắc
đến mức tất cả những lỗi vi phạm của học sinh đều quy ra bằng hình phạt tạo ra
khoảng cách lớn giữa thầy và trò. Mặt khác một số ít giáo viên bộ môn do học sinh
học yếu nên có sự phân biệt đối xử như thường xuyên gọi trả bài, cho nhiều điểm
kém, so sánh giữa học sinh này với học sinh khác, hoặc hăm dọa ở lại lớp... làm
cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến bi oan, chán chường, không muốn học những
môn đó…
* Nguyên nhân chủ quan:
- Do các em chưa có thói quen và ý thức học tập, chưa có thói quen và ý thức tu
dưỡng bản thân đã tạo nên những lỗ hỗng lớn. Đến lúc, các em cảm thấy mình làm
gì cũng không tốt, cố gắng học cũng không được. Dần dần, các em trở nên chay
lười trong học tập dẫn đến mất khả năng học tập. Phần lớn những học sinh này
thường xuyên không tập trung, mất trật tự trong giờ học hoặc tìm cách chọc ghẹo,
quậy phá gây không ít phiền toái cho các bạn trong lớp và cả GVCN.
Một số khác thì tỏ ra tự ti, sống khép kín không giao du với bạn bè thường dẫn đến
bị trầm cảm.
Kết quả chất lương hai mặt của học sinh lớp 7A trước khi áp dụng đề tài này:
( Kết quả HKI năm học 2012- 2013 )
Về học tập
TT Lớp Sĩ số
G
K
TB
YẾU
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34
1 7A
3
8,8
10
29,4
13
38,3
8
23,5
Về hạnh kiểm
TT Lớp Sĩ số
1
7A
34
Tốt
SL
17
K
%
50
SL
11
TB
%
32,4
SL
05
%
14,7
YẾU
SL
%
01
2,9
2. Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt
2.1. Vai trò của GVCN đối với công tác tổ chức lớp.
Trong công tác chủ nhiệm, nếu làm đúng vai trò trách nhiệm thì người thầy phải bỏ
ra nhiều thời gian, rất vất cả trong việc theo dõi, quản lý lớp. Nếu rơi vào những
lớp đa số là học sinh khá giỏi thì các em có ý thức học tập rất tốt, hạn chế tối thiểu
học sinh cá biệt giúp cho giáo viên chủ nhiệm bớt đi phần gánh nặng. Nhưng đối
với những lớp phần lớn là học sinh trung bình, học sinh chưa có ý thức thì đòi hỏi
người giáo viên chủ nhiệm phải tốn nhiều thời gian công sức mới làm tốt nhiệm vụ
được giao, vì học sinh cá biệt xuất phát từ những lớp đó. Do đó người giáo viên
muốn làm tốt công tác của mình trước hết phải làm tốt công tác tổ chức lớp, thực
hiện một số công việc sau:
2.1.1 Phân công chỗ ngồi:
GVCN phải xem trước học bạ của từng học sinh trong năm học trước để nắm được
học lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều những học
sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình,
4
yếu. Nếu thấy trong lớp có những học sinh bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa
tốt hoặc học sinh lưu ban nên xếp chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để
tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp chỗ ngồi xong GVCN lập sơ đồ lớp và dán vào
sổ đầu bài, trong sơ đồ lớp cần có dấu hiệu khác biệt thể hiện rõ những học sinh
nào học yếu, học sinh nào đạo đức chưa tốt để giáo viên bộ môn tiện theo dõi.
Lưu ý: Những học sinh cá biệt về hạnh kiểm thì không nên cho các em ngồi gần
nhau, không nên cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi,
hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau. Với những học sinh yếu kém về học tập
thì phân công học sinh khá giỏi kèm cặp và lập thành đôi bạn cùng tiến.
Với lớp 7A, bản thân tôi lập sơ đồ chỗ ngồi như sau:
S¬ ®å chæ ngåi líp 7a
Bàn giáo viên
Đạt - Sỹ Hùng
Tưởng - Trung
Hừng - Võ Nhi
Võ Tâm - Phú
T. Nhi - Đỗ Hùng
Nhung - Tú
Phương - Quảng
Linh- N. Hùng
Tài - Danh
Hạnh - Tuấn
Hương - Tuyết
T. Lan - P.Lan
5
Loan - Trang
Phong - Đào
Nam - Ánh Ngọc
Ghi chú: Học sinh yếu về học tập: Sỹ Hùng, Hừng....
Học sinh ý thức đạo đức chưa tốt: Danh, Tú
2.1.2. Bầu Ban cán sự (BCS) lớp:
Để xây dựng mô ôt tâ p thể tự quản tốt, muốn ổn định nề nếp học tâ p thì cần
ô
ô
có đô ôi ngũ cán bô ô, cán sự lớp năng đô ng sáng tạo, trách nhiê ôm. Vì lẽ đó bầu ban
ô
cán sự lớp là mô ôt viê ôc cần phải suy nghĩ tính toán không phải học sinh nào cũng
đảm nhiê ôm được.
Trong buổi sinh hoạt lớp đầu năm tôi đã làm các công viê ôc sau:
* Bầu ban cán sự lớp:
Lớp trưởng: Hoàng Đại Trung
Lớp Phó học tâ ôp: Trần Thị Tuyết
Lớp phó Lao đô ng – Kỉ luật: Võ Anh Tuấn
ô
Lớp phó Văn thể mỹ: Võ Thị Đào
Đội cờ đỏ: Nguyễn Thị Linh , Võ Thị Ngọc Tâm, Võ Sỹ Nam.
* Bầu tổ trưởng:
Tổ 1: Phạm Thị Thu Thảo.
Tổ 2: Trần Thị Ngọc Tâm,
Tổ 3: Võ Sỹ Nam
* Bầu Ban Cán sự phụ trách bộ môn:
Cán sự môn Văn: Võ Thị Ngọc Tâm
Cán sự môn Toán: Trần Thị Tuyết
Cán sự môn Anh: Nguyễn Thị Linh
* Phân công nhiê ôm vụ cụ thể:
Lớp Trưởng: Theo dõi mọi hoạt đô ng của lớp điều khiển các tiết sinh
ô
hoạt hàng tuần, tổng hợp và báo cáo kết quả thi đua về mọi mă ôt của lớp hàng tuần,
hàng tháng, học kì, năm học và có báo cáo cho giáo viên chủ nhiê ôm.
Lớp phó HT: theo dõi về mă ôt học tâ p của lớp, giải đáp mọi thắc mắc của
ô
các bạn về học tâ p, lâ p kế hoạch giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém vươn lên, bảo
ô
ô
quản sổ ghi đầu bài và báo cáo cho lớp trưởng kết quả học tâ ôp của lớp hàng tuần,
hàng tháng.
Lớp phó Lao đô ng – Kỉ luật: Chịu trách nhiê ôm về mă ôt lao đô ng vê ô sinh
ô
ô
của lớp, phân công trực nhâ ôt, kết hợp với lớp trưởng quản lí lớp lao động và báo
cáo kết quả cho GVCN.
Lớp phó Văn thể mỹ: Tổ chức theo dõi, tham gia các hoạt đô ng văn hóa,
ô
văn nghê , thể dục thể thao do Tổng phụ trách Đội, do trường tổ chức.
ô
Cờ đỏ: Giám sát viê c thực hiê n nô i quy của lớp bạn cũng như của lớp
ô
ô
ô
mình, báo cáo kết quả cho thầy Tổng phụ trách Đô i, cho GVCN về tình hình của
ô
lớp.
Tổ trưởng: Theo dõi các hoạt đô ng của tổ, nắm kết quả học tâ ôp của từng
ô
tổ viên, xếp loại đánh giá tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp.
6
Lưu ý: Tránh trường hợp học sinh không đủ năng lực nhưng giáo viên
chủ nhiệm vẫn bắt buộc phải làm lớp trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng
đến tinh thần học tập của các em và tạo điều kiện cho những mầm móng học sinh
cá biệt xuất hiện.
2.1.3. Giáo viên chủ nhiệm ( GVCN ) xây dựng nội quy lớp và xây dựng tiêu chí
đánh giá xếp loại học sinh.
Ngoài việc GVCN phổ biến cho học sinh biết về Nội quy nhà trường bắt buộc học
sinh phải thực hiện, GVCN cần xây dựng Nội quy riêng cho lớp để các em thực
hiện. Có thể ở mỗi lớp GVCN xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm, tình hình của lớp.
Ví dụ:
TRƯỜNG THCS........
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LỚP 7A…
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NỘI QUY LỚP 7A
1.Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học.
4. Tác phong: quần …, áo …., đầu tóc …, giày dép …., phù hiệu.
5. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao su xuống nền gạch
6. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
7. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ học
8. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với GVCN (bất cứ lý do gì).
* Tiêu chí đánh giá thi đua ( Theo thông tư 58 của Bộ giáo dục về đánh giá xếp
loại học sinh )
Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, tiêu chí đánh giá GVCN phổ biến trước lớp
cho tất cả học sinh đều biết và thống nhất thực hiện. Sau đó GVCN phát cho mỗi
học sinh một bảng Nội quy và bắt buộc các em phải giữ bảng Nội quy này và
thường xuyên mang theo trong suốt năm học để làm cơ sở xử lý học sinh vi phạm,
nếu học sinh vi phạm nhẹ có thể bắt học sinh đọc lại bảng Nội quy trước lớp hoặc
học thuộc bảng Nội quy... Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ GVCN xử lý học sinh
vi phạm. Bên cạnh GVCN phải xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần
ứng với nội quy của lớp, trong đó có hình thức biểu dương, khen thưởng và kỹ luật
cụ thể từng trường hợp và được công khai vào buổi sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần.
Lưu ý: GVCN đóng vai trò hết sức quan trong trọng việc rèn luyện, giáo dục học
sinh, nên trong các buổi 15 phút đầu giờ GVCN phải thường xuyên đến lớp để theo
dõi tình hình. Bên cạnh tác phong của GVCN cũng rất cần thiết như: đầu tóc, trang
phục, lên lớp đúng giờ, những gì nói với học sinh thì phải thực hiện bằng được
tránh tình trạng dễ dãi qua loa, phải xử lý học sinh đúng quy định đã đặt ra dù cho
học sinh đó vô tình hay cố ý vi phạm. Từ đó giúp học sinh học hỏi được phong
cách, tác phong trước tiên từ người GVCN lớp, làm các em càng kính trọng hơn.
Sau khi nắm được những thông tin của học sinh, GVCN sẽ phân luồng đối tượng,
xem những học sinh nào có thể dẫn đến sa sút về học tập và sẽ trở thành học sinh
cá biệt
2.1.4. Lập sổ theo dõi học sinh cá biệt
Sau khi phân luồng học sinh, biết được đối tượng học sinh cá biệt , giáo viên chủ
nhiệm lập sổ theo dõi học sinh cá biệt.
7
Mẫu : SỔ THEO DÕI HỌC SINH CÁ BIỆT
- Họ và tên............, Lớp..........
- Học lực , hạnh kiểm học kì I.
- Hoàn cảnh gia đình...........
PHẦN THEO DÕI
TT
Họ tên học sinh
Các hành vi vi
phạm(Đối chiếu
với nội quy lớp)
Hình thức xử lí
(Ghi hình thức xử
lý)
Thái độ sửa chữa(Có
chấp hành kỹ luật hay
không, khắc phục khuyết
điểm không
1
2
3
4
Ví dụ: Lớp 7A học kì I năm học 2012 -2013 có 8 học sinh yếu , 5 học sinh hạnh
kiểm trung bình và 1 học sinh hạnh kiểm yếu. Tôi đã lập sổ theo dõi cụ thể như
sau:
TT
1
Họ tên học sinh
Các hành vi vi
phạm (Đối chiếu
với nội quy lớp)
Lê Quang Danh - Không làm bài
tập thường xuyên
- Viết , vẽ bậy lên
bàn ghế
2
Lê Văn Tưởng
- Nói chuyện riêng
trong giờ học
- Thường xuyên
ngồi cười trong các
tiết học, nói
chuyện riêng, đi xe
máy
- Học lực quá yếu ,
ý thức học tập
chưa cao.
8
Hình thức xử lí Thái độ sửa chữa
(Ghi hình thức xử (Có chấp hành
lý)
kỹ luật hay
không, khắc
phục khuyết
điểm không
- Động viên nhắc Có ý thức sửa
nhở
chữa nhưng kết
quả không cao,
- Phê bình trước
cò vi phạm
lớp, lau chùi sạch
sẽ bàn ghế.
- Tìm hiểu
nguyên nhân.
- Động viên ,
nhắc nhở trước
lớp.
- Thông báo cho
phụ huynh và yêu
cầu không được
cho HS đi xe gắn
Có tiến bộ như
không đi xe máy,
ngồi trong lớp có
ý thức học tập
hơn..
máy
3
4
Sau quá trình theo dõi, cuối tháng giáo viên chủ nhiệm tổng hợp xem trong tháng
có bao nhiêu học sinh tiến bộ, mức độ tiến bộ như thế nào, học sinh nào chưa có sự
chuyển biến để tiếp tục có biện pháp thích hợp.
2.2 .Tiếp xúc với cha mẹ học sinh:
Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm GVCN phải nắm được số điện thoại liên
lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi gián tiếp với cha
mẹ học sinh khi cần thiết. Ngoài ra GVCN cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi
thông tin với cha mẹ của những học sinh cá biệt, đây là điều rất cần thiết, không
thể thiếu đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Thông qua công việc này giúp
giáo viên biết được các thói quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở
gia đình. Qua đó giúp cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu
sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của nhà
trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo
dục con cái của họ. Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc
cảm, tự ti ở các em, giúp các em giảm bớt tâm lý lo sợ khi tiếp xúc với GVCN.
2.3. Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh
Ngoài những thông tin mà GVCN tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải
tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh
này đang chơi chung họ như thế nào. Có thể GVCN tìm hiểu thông qua lớp trưởng,
các học sinh khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao
tiếp với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học
sinh khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các
em sống trong môi trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường
hợp nào. GVCN có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các
em tự nhận thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. GVCN nên
gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải thích cho các em hiểu những sai trái của
mình để các em có hướng khắc phục, không nên làm các em cảm thấy mặc cảm
trước lớp
2.4. Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh
Tạo mối quan hệ gần gũi là thể hiện sự quan tâm đối với các em, nhưng người
thầy vẫn luôn giữ chuẩn mực, nghiêm khắc. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng
của các em, nhằm để động viên, khích lệ tạo cho các em có được chỗ dựa tinh thần
9
vững chắc. Để các em thấy sự quan tâm của người thầy như người cha, người mẹ
của các em luôn dìu dắt, nâng đỡ các em khi vấp phải những khó khăn trong học
tập cũng như trong cuộc sống.
Khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì những buổi
học sau phải tiếp xúc để thăm hỏi các em, đôi khi cũng có những lý do khá đặc biệt
người thầy có thể chia sẽ với các em, làm cho các em cảm thấy vui hơn khi được
thầy cô quan tâm đến mình, từ đó những biểu hiện cá biệt dần dần biến mất.
2.5. Công tác phối hợp.
Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi GVCN cần phải biết
phối hợp kịp thời, linh hoạt với các tổ chức trong và ngoài nhà trường.
2.5.1.Phối hợp với gia đình học sinh
Thông thường, ở bất kì mô ôt học sinh nào khi bị điểm xấu hoă ôc vi phạm nô i qui
ô
trường lớp thường về nhà sợ bị la rầy, thậm chí bị đánh đập nên các em thường
“ém nhẹm”, giấu cha giấu mẹ. Vì vâ ôy tôi có kế hoạch thông báo cho gia đình học
sinh biết kết quả học tâ p, rèn luyê ôn đạo đức, lao đô ng,… sau mỗi tháng. Và khi
ô
ô
nhâ n được kết quả từ giáo viên chủ nhiê ôm thì gia đình cũng kịp thời nắm bắt được
ô
tinh thần học tâ p, hành vi của con em mình. Từ đó có biê n pháp giáo dục kịp thời.
ô
ô
Không chỉ liên hê ô qua thư mời, điê n thoại mà tôi còn đến thăm và trao đổi với
ô
gia đình cá biê ôt. Theo tôi đây là hình thức giáo dục có hiê ôu quả giáo dục cao bởi
lẽ qua viê ôc đến thăm gia đình học sinh sẽ tạo được sự đồng cảm, thiê ôn cảm giữa
phụ huynh và giáo viên chủ nhiê ôm. Chính mối thiê ôn cảm này giúp học sinh phải
tự ý thức để xứng đáng với sự quan tâm dạy dỗ của thầy cô. Bên cạnh đó tôi còn đề
xuất với nhà trường trong những buổi lễ sơ kết hoă ôc tổng kết năm học mời các phụ
huynh có con em học giỏi được khen thưởng đến dự lễ để họ tự hào hãnh diê ôn về
con mình và ngược lại cũng thấy được rằng mình cần phải cố gắng để đem lại niềm
vui cho cha mẹ.
2.5.2. Phối hợp với Ban Giám Hiêu nhà trường.
ê
Mỗi tháng Ban giám hiệu tổ chức họp hội đồng sư phạm mô t lần đề ra kế
ô
hoạch chủ nhiê ôm cho GVCN của cả trường cũng như ở các khối lớp. Kế hoạch của
Ban giám hiệu chính là “Kim chỉ nam” cho mỗi giáo viên chủ nhiê ôm. Đồng thời
trong lần họp định kỳ, Ban giám hiệu cũng được nghe những phản ảnh từ GVCN
về thuâ n lợi, khó khăn trong quá trình thực hiê ôn hoă ôc có ý kiến đề xuất nào tôi
ô
trực tiếp gặp Ban giám hiệu để Ban giám hiệu kịp thời điều chỉnh kế hoạch cho
phù hợp. Những khó khăn thắc mắc tôi đều xin ý kiến chỉ đạo hoă ôc nhận sự giúp
đỡ từ phía Ban giám hiệu
2.5.3. Phối hợp với các Giáo viên bộ môn.
10
Phối hợp với giáo viên bộ môn, thông qua đó giáo viên có thể theo dõi thái độ học
tập của các em ở từng môn học để có hướng bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho các em
về kiến thức. Để sự phối hợp được nhịp nhàng tôi đã làm các công việc sau:
- Thường xuyên thông báo trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình học tập của
lớp, cũng như của học sinh cá biệt, để giáo viên nắm bắt được khả năng trình độ
của các em mà có phương pháp giảng dạy thích hợp. Tôi còn đề nghị giáo viên bộ
môn có kế hoạch phụ đạo thêm những em yếu kém giúp các em lấy lại căn bản.
Tôi xin phép GVBM được dự giờ thăm lớp mình để biết được thực lực từng môn
của các em như thế nào, từ đó đề ra biện pháp giúp đỡ phù hợp. Còn với những tiết
học chính khóa GV bô ô môn cần thường xuyên kiểm tra bài vở, gọi các em phát
biểu ý kiến. Những câu trả lời đúng GVBM tuyên dương hoă ôc là cô ông điểm để
các em có hứng thú trong học tâ p và không còn phải sợ bị gọi đến tên.
ô
- Đối với học sinh học lực yếu kém đề nghị các em mạnh dạn đóng góp ý kiến, nên
những trở ngại trong các bô ô môn học trong các môn học đối với giáo viên bô ô môn.
Các em không nên tự ti giấu dốt, có vấn đề gì chưa rõ cứ nhờ giáo viên bô ô môn
giúp đỡ. Tôi luôn tạo mối quan hê ô gần gũi giữa học sinh với giáo viên bô ô môn
bằng cách: khuyên các em phải biết kính trọng, quan tâm đến hoàn cảnh các thầy
cô.
- Tôi thường xuyên kiểm tra sổ đầu bài của lớp rồi trao đổi cùng giáo viên bô ô môn
về những nhâ n xét các tiết học. Tôi đề nghị giáo viên bô ô môn ghi thâ ôt cụ thể đúng
ô
người đúng tô ôi để tránh tình trạng chung chung không biết xử lí em nào.
- Nhằm nắm bắt kịp thời tình hình học của các em tôi thường xuyên xem và theo
dõi sổ điểm của lớp để xem qua điểm số của các bài kiểm tra 15 phút và 45 phút.
Với cách làm này tôi sẽ nắm bắt được kết quả học tâ ôp của từng em và thông báo
về gia đình để gia đình cùng nhà trường có biê ôn pháp giáo dục tích cực. Theo tôi
nghĩ không nên để các em mất căn bản mà phải điều chỉnh kịp thời đúng lúc bởi
thông thường khi đã mất căn bản môn nào rồi thì các em sẽ chán học môn đó thâ ôm
chí không có cảm tình ngay với giáo viên phụ trách bô ô môn đó.
2.5.4. Phối hợp với Đội TNTP HCM.
Ngoài việc các em học tập kiến thức văn hóa thì việc các em tham gia các hoạt
động của Đội là điều tất nhiên. Thông qua những hoạt động của Đội, các em sẽ
được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn
kêt, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến,… phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong là
giáo viên chủ nhiệm, hiểu biết về hoạt động Đội của các em, luôn động viên nhắc
nhở uốn nắn các em trong các hoạt động của Đội.
Không chỉ thế, Đội còn có biểu điểm thi đua hàng tuần giữa các lớp. Tôi
luôn nắm chắc biểu điểm này để làm cơ sở đưa ra biểu điểm thi đua cho phù hợp
với trách nhiệm của mình. Trong biểu điểm thi đua có mức độ khen thưởng và kỉ
luật. Để làm tốt được điều này cần có sự kết hợp theo dõi của các tổ trưởng, lớp
trưởng, lớp phó, căn cứ vào sổ đầu bài. Đồng thời, tôi luôn dành những lời khen
tặng học sinh khi tốt, phê bình học sinh vi phạm tùy theo mức độ nặng nhẹ từ
khiển trách trước lớp đến làm bản kiểm điểm, cảnh cáo dưới cờ. Tất cả các việc
11
làm này tôi đều kết hợp với Đội trong giờ sinh hoạt dưới cờ hàng tuần nhằm tạo sự
thống nhất đồng bộ tránh sự rắc rối không đáng có.
2.6. Giao nhiệm vụ cho học sinh:
Thường GVCN không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng
những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em mà chỉ phê bình,
nhắc nhở là là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn.Cho nên đối
với những đối tượng này, GVCN nên tạo cho các em một cơ hội để các em thấy
được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và
nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt
động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao,
tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chức…Khi
hoàn thành nhiệm vụ GVCN phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập
thể lớp
2.7. Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn các em
từng bước tiến hành. Lớp trưởng là người điều khiển tiết sinh hoạt, yêu cầu các tổ
nhận xét hoạt động của tổ mình trong tuần qua: ưu điểm, khuyết điểm sau đó đề ra
phương hướng tuần tiếp theo.
Sau khi các tổ nhận xét, các lớp phó sẽ nhận xét từng lĩnh vực cụ thể, khên chê
kịp thời và những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong tuần. Sau đó lớp trưởng nhận
xét chung về tình hình của lớp trong tuần qua, tuyên dương những bạn nào và phê
bình những bạn nào, lí do vì sao .
Cuối cùng là nhận xét của GVCN, đồng thời GVCN cho học sinh bày tỏ ý kiến
của mình ( đặc biệt là những học sinh vi phạm ) để tạo nên ý thức tự giác, phát huy
tính dân chủ trong học sinh.
GVCN xử lý những học sinh vi phạm phải đúng người, đúng tội theo Nội quy
đã đề ra. Tránh trường hợp vị nể xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm
mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người thầy. Những học sinh vi phạm phải
chấp nhận hành vi vi phạm của mình . Điều này thông qua sự báo cáo của BCS lớp
phải thật sự chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học
sinh đó phải thực hiện, GVCN không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được
điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các
em chấp hành tốt Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học
sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm.
Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu dương,
khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thông thường vốn
khó tính, khó dạy nếu GVCN thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi
học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải động viên khuyến
khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý
như những học sinh khác, tránh nóng vội, kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa.
Bằng sự nổ lực của bản thân cùng với sự phối hợp với các tổ chức trong và ngoài
nhà trường, kết hợp với các giải pháp mà bản thân đã đua ra, cuối năm học 2012 2013 đối tượng học sinh cá biệt lớp tôi có nhiều chuyển biến đáng kể , thể hiện rõ
qua kết quả chất lượng 2 mặt lớp tôi như sau:
Về học tập
12
TT Lớp Sĩ số
1
7A
34
G
SL
5
Về hạnh kiểm
TT Lớp Sĩ số
K
%
14,7
SL
11
Tốt
SL
23
%
64,7
TB
%
32,4
K
SL
10
%
47
SL
16
YẾU
SL
%
02
5,9
%
2,9
YẾU
SL
%
0
TB
%
29,4
SL
01
34
1 7A
- Các kết quả khác:
+ Giải nhì hội thi cầu vòng tháng 3 do Đoàn thanh niên kết hợp với Đội thiếu niên
tiền phong Hồ Chí Minh tổ chức.
+ Cuối năm học tập thể lớp tôi đã đạt lớp tiên tiến .
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài
Một giáo viên nhận nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm, quản lý một lớp học
với 34 học sinh quả là không dễ dàng, muốn được số học sinh đó đều trở thành học
sinh ngoan, kết quả học tập tốt lại càng không dễ. Năm học nào cũng vậy, lớp học
nào cũng vậy, thầy cô chủ nhiệm là những người luôn đối mặt với biết bao khó
khăn, thử thách và mong muối duy nhất là làm thế nào cho học sinh mình thành
đạt, sự nghiệp trồng người là tiếng vang suốt cuộc đời đối với các thầy giáo, cô
giáo, làm tốt được học sinh nhớ. Lỡ làm điều gì sai thì học sinh cũng không
quên…Hạn chế tối đa những trường hợp học sinh phải đưa ra Hội đồng kỷ luật, vì
nếu học sinh bị đình chỉ học tập hay bị ghi vào học bạ hạnh kiểm xấu nó sẽ đeo
đuổi suốt đời đối với các em mà bản thân thầy cô chủ nhiệm cũng thấy đau lòng
trước những trường hợp như thế.Chính vì những điều đó mà những người thầy
đang phục vụ trong ngành giáo dục phải ra sức nghiêm cứu học tập hơn nữa, làm
thế nào để sản phẩm của mình tạo ra sẽ có ích cho xã hội. Thầy cô làm công tác
chủ nhiệm, xem lớp chủ nhiệm như là một mái ấm gia đình thì sẽ cảm thấy có
được niềm vui trong công tác. Tuy nhiên thầy cô cũng đừng tập trung nhiều vào
đối tượng học sinh cá biệt mà hãy nghĩ đến cả một tập thể với tình yêu thương
nghề nghiệp thì nhất định sẽ thành công.Muốn giáo dục học sinh cá biệt, trước hết
giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác tổ chức lớp . Qua việc phân công chỗ
ngồi, bầu ban cán sự lớp, xây dựng nội quy.... đã đem lại hiệu quả trong quản lí nề
nếp và chất lượng học tập. Lập sơ đồ lớp như trên đã đưa lại hiệu quả rõ rệt trong
học tập của học sinh. Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo
dõi, nhắc nhở các bạn trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu
được GVBM quan tâm theo dõi và giúp đỡ nên đã có nhiều tiến bộ. Vì vậy, đã giúp
HS từ bỏ thói quen thụ động, trông chờ, ỷ lại trong học tập, góp phần vào công
cuộc đổi mới chống tiêu cực trong thi cử mà ngành giáo dục đang thực hiện. Mặt
khác tiếp xúc với cha mẹ học sinh , phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nhà
trường là giải pháp không thể thiếu để giáo dục học sinh cá biệt , qua thông tin 2
chiều giữa nhà trường - gia đình- xã hội, giáo viên chủ nhiệm hiểu được những
đặc điểm cơ bản nhất của học sinh cá biệt từ đó có biện pháp thích hợp.
Là giáo viên chủ nhiệm cũng cần tìm hiểu quan hệ bạn bè của học sinh cá biệt, tạo
sự quan tâm gần gủi với các em , có như thế mới biết được nguyên nhân vì sao
những học sinh này trở nên cá biệt, các em có tâm tư nguyện vọng gì để các em
13
thấy được sự quan tâm của thầy cô làm cho các em thấy vui hơn khi được quan
tâm, từ đó biểu hiện cá biệt sẽ mất dần.
Thông qua các tiết sinh hoạt, những bài học về đạo đức, nhân cách , ý thức tự
giác và được phát huy quyền làm chủ tập thể sẽ giúp những học sinh này thấy tự
tin hơn, thích đến trường hơn từ đó tạo cho các em được hứng thú trong học tập, để
các em thấy được rằng “ mỗi ngày đến trường là một niêm vui ”
Trong mỗi con người, không phải ai hoàn toàn tốt và ngược lại, vì thế học sinh cá
biệt cũng có những điểm tốt , những việc làm được nên giáo viên chủ nhiệm cần
linh động hơn, giao cho các em những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của mình
để các em thấy được mình còn có ích đối với tập thể, mình không phải là người vô
dụng trong tập thể lớp tạo cho các em một niềm tin để phấn đấu vươn lên.
Giáo dục thế hệ trẻ để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước là nhiệm vụ hàng
đầu. Để giáo dục học sinh nói chung, học sinh cá biệt nói riêng đòi hỏi các ngành,
các cấp cùng tuyên truyền cho cả xã hội quan tâm hơn đối với thế hệ trẻ. Đặc biệt
quan tâm nhiều hơn đối với những học sinh được coi là cá biệt nhằm xây dựng môi
trường sống có văn hóa, lành mạnh, bổ ích.
2. Kiến nghị , đề xuất
* Đối với phòng giáo dục:
- Cần mở những lớp tập huấn kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt cho GVCN
* Đối với nhà trường:
- Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để các em có
được sân chơi lành mạnh, bổ ích.
- Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em hiểu thêm
về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
- Chỉ đạo cho GVCN tăng cường công tác phối hợp với cha mẹ học sinh để kịp
thời giáo dục những học sinh cá biệt có hiệu quả.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi, trong quá trình thực hiện vẫn
còn nhiều thiếu sót và một số nội dung chưa phù hợp. Rất mong được sự đóng góp
của đồng nghiệp để nội dung đề tài hoàn thiện hơn.
14
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi áp dụng của đề tài
B. Phần nội dung.
1. Một số nét về thực trạng học sinh cá biệt ở trường THCS
1.1 : Thực trạng
1.2: Nguyên nhân của thực trạng
2. Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt:
2.1. Vai trò của GVCN đối với công tác tổ chức lớp
2.2. Tiếp xúc với cha mẹ học sinh:
2.3. Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh
2.4. Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh
2.5. Công tác phối hợp.
2.6. Giao nhiệm vụ cho học sinh:
2.7. Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm
C. Phần kết luận
1. Ý nghĩa của đề tài
2. Kiến nghị
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/Phương pháp dạy học tích cực – Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục 1995
2/Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2011.
3/Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, NXB Đại học sư phạm 2010.
4/Thông tư 58/TT-BGDĐT, ngày 12/12/2011 về việc ban hành quy chế đánh giá,
xếp loại học sinh THCS và THPT.
16
* Đánh giá, xếp loại của hội đồng khoa học giáo dục nhà trường:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
................................................................................................................................... .
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Xếp loại:.......................................
* Đánh giá, xếp loại của hội đồng khoa học giáo dục cấp trên:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
................................................................................................................................... .
.....................................................................................................................................
17
.....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
18
- Xem thêm -