Phßng gi¸o dôc vµ ®µo t¹o huyÖn mü ®øc
Tr-êng tiÓu häc hîp thanh b
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG CHƢƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY
MÔN TỰ NHIÊN XÃ HỘI LỚP 3”
Đề tài thuộc lĩnh vực: Ứng dụng công nghệ thông tin
Ngƣời thực hiện
: BÙI SINH HUY
Giáo viên môn
: Văn hoá
Tài liệu đính kèm
: Đĩa CD
NĂM HỌC 2013 – 2014
SƠ YẾU LÝ LỊCH
Họ và tên : BÙI SINH HUY
Sinh ngày 25/ 10/1972
Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Hợp Thanh B - Huyện Mỹ Đức
Thành phố Hà Nội
Chức vụ : Tổ phó 2 + 3
Năm vào nghành: 02/02/1998
Trình độ chuyên môn cao nhất: Đại học
Hệ đào tạo : Từ xa
Trình độ lý luận chính trị : Sơ cấp
MỤC LỤC
Nội dung
Phần
Trang
MỞ ĐẦU
1
2
Lý do chọn đề tài.
Phạm vi đề tài.
2
4
NỘI DUNG
1
2
3
4
Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Nội dung
Kết quả
5
6
7
21
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1
2
3
Ý nghĩa : Ứng dụng CNTT trong dạy - học
Một số đễ xuất
Bài học kinh nghiệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
22
22
23
24
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, nhân loại đã phát minh và
chứng kiến sự tiến triển thần kỳ của công nghệ thông tin (CNTT). Những thành
tựu của CNTT đã góp phần rất quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển
nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin mang tính chất toàn cầu.
Ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học và công nghệ thông tin, truyền thông
cũng nhƣ những yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, hƣớng tới nền
kinh tế tri thức ôû nƣớc ta đã đƣợc thể hiện trong những quan điểm của Đảng và
Nhà nƣớc qua các văn kiện nhƣ Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000, Nghị quyết
07/2000 ngày 05/6/2000 của Chính phủ, Chỉ thị 29/2001/CT ngày 30/7/2001 của
Bộ trƣởng Bộ GD&ĐT.
Công nghệ thông tin cũng thúc đẩy mạnh mẽ coâng cuộc đổi mới trong giáo
dục, tạo ra công nghệ giáo dục với nhiều thành tựu rực rỡ, bao gồm:
Công nghệ dạy và học: CNTT làm thay đổi nội dung, hình thức và
phƣơng pháp dạy học một cách phong phú. Những phƣơng pháp dạy học theo
cách tiếp cận kiến tạo, phƣơng pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và
giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức
dạy học nhƣ dạy theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới
trong môi trƣờng công nghệ thông tin. Mối giao lƣu giữa ngƣời và máy đã trở
thành tƣơng tác hai chiều với các phƣơng tiện đa truyền thông nhƣ âm thanh,
hình ảnh, video,.. mà đỉnh cao là bài giảng E-learning (học trực tuyến qua mạng
Internet).
Công nghệ quản lý giáo dục: làm thay đổi phƣơng thức điều hành và quản lý
giáo dục, hỗ trợ công cuộc cải cách hành chính để quản lý các hoạt động giáo
dục và đào tạo hiệu quả hơn.
Sự phát triển vƣợt bậc của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những
thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con ngƣời. Đối với lĩnh vực giáo dục
đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung,
phƣơng pháp giảng dạy và học. Công nghệ thông tin là phƣơng tiện tiến tới "xã
hội học tập". Mặt khác, ngành giáo dục đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của
ngành công nghệ thông tin thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho công
nghệ thông tin. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu :"Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cập học, ngành học theo
hướng dẫn. Học công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho
đổi mới phương pháp dạy học các môn." Nên việc đƣa ứng dụng công nghệ
thông tin vào trƣờng học là một việc làm cần thiết và đúng đắn. Trong công tác
giảng dạy, công nghệ thông tin giúp cho bài học sinh động hơn, nhờ đó mà học
sinmh có hứng thú học tập hơn, tiếp thu bài tốt hơn.
Nhƣ chúng ta đã biết, học sinh tiểu học còn nhỏ nên quá trình nhận thức
thƣớng gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy, các phƣơng tiện trực
quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy đặc biệt là các phƣơng tiện trực quan
sinh động, rõ nét sẽ thu hút đƣợc sự chú ý của học sinh. Trong những tiết học có
đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và kết quả là
học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn. Chính vì vậy việc đổi mới phƣơng
pháp dạy học với sự trợ giúp của công nghệ thông tin vào tất cả các môn học đặc
biệt là các môn có sử dụng nhiều tranh ảnh dã mang đến cho giờ dạy và học một
không khí mới. Mỗi môn học mang một sắc thái riêng, môn Tự nhiên - xã hội
cũng vậy. Tuy bản chất là cung cấp những kiến thức Tự nhiên - xã hội có xung
quanh chúng ta song trong sách giáo khoa lớp 3 không đƣa ra kiến thức đóng
khung có sẵn mà là một hệ thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học
sinh thực hiện. Học sinh muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện
tốt các lệnh trong sách giáo khoa. Vậy một giờ học Tự nhiên - xã hội ở lớp 3
đƣợc tiến hành ra sao?
Cho dù tất cả các giáo viên có tích cực đổi mới phƣơng pháp đến đâu thì
một giờ học Tự nhiên - xã hội vẫn diễn ra tẻ nhạt trầm lắng với các hoạt động
khó, khổ cho học sinh. Với nhiều tranh, ảnh đẹp giàu màu sắc, các em đƣợc lôi
cuốn vào xem một cách hồn nhiên nhƣng nếu đƣa ra yêu cầu quan sát tập chung
để đƣa ra một vấn đề trọng tâm nhằm đạt đƣợc mục tiêu bài học thì các em dễ
nản. Nhƣng cũng vẫn các bức tranh, ảnh đẹp giàu màu sắc đó với sự trợ giúp của
công nghệ thông tin ta đƣa lên màn hình lớn bằng các hiệu ứng thì sẽ thu hút
đƣợc các em vào bài học hơn, giờ học sẽ có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác với
công nghệ thông tin , ngƣời thày có thể chế tạo ra những món ăn hấp dẫn và bổ
dƣỡng , tức là giờ học lý thú mà nếu chỉ sử dụng bảng đen phấn trắng thì khó
mà thực hiện đƣợc. Với các phƣơng tiện dạy học hiện đại nhƣ máy tính, máy
chiếu và một số phần mềm tiện ích nhƣ Power Point, Violet, bài giảng Elearning ... ngƣời thầy có thể làm cho học trò quan tâm hơn đến môn học mà
không phải ép buộc chúng. Chính vì vậy việc: “Ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy môn Tự nhiên - xã hội lớp 3.” là cần thiết.
2. Phạm vi đề tài.
2.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tình hình dạy học thực tế ở lớp và qua việc dự giờ các tiết dạy
của đồng nghiệp, qua việc góp ý xây dựng các tiết dạy thao giảng , chuyên đề ,
hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp Trƣờng, cấp Huyện và cấp Thành của giáo viên.
Thông qua công tác thanh tra hay giám khảo của Hội thi giáo viên dạy giỏi các
cấp. Tôi đã đúc kết đƣợc một số kinh nghiệm cho bản thân trong việc ứng dụng
CNTT trong dạy học.Vì vaäy, nội dung sáng kiến kinh nghiệm naøy tập trung vào
các vấn đề: những tác động tích cực và một số hạn chế cần tránh khi sử dụng các
phƣơng tiện dạy học hiện đại; thực hiện giáo án điện tử và ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học ở tiểu học.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
-Việc “Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên - xã hội
lớp 3.”
-Đối tƣợng: Các tiết dạy có sử dụng Giáo án điện tử tại trƣờng Tiểu Hợp
Thanh B, các tiết dạy trong Hội thi Giáo án điện tử cấp Huyện và cấp Thành
Phố.
-Thời gian: Năm học 2011 – 2012.
NOÄI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các
phƣơng pháp và hình thức dạy học. Những phƣơng pháp dạy học theo cách tiếp
cận kiến tạo, phƣơng pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết
vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học nhƣ
dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong
môi trƣờng công nghệ thông tin và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự
lực với máy tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua
maïng, dạy học qua cầu truyền hình. Nếu trƣớc kia ngƣời ta nhấn mạnh tới
phƣơng pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là
hình thành và phát triển cho học sinh các phƣơng pháp học chủ động. Nếu trƣớc
kia ngƣời ta thƣờng quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực
hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng
tạo của học sinh. Nhƣ vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang
“lấy học sinh làm trung tâm”sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các phàn mềm giáo dục
cũng đạt đƣợc những thành tựu đáng kể nhƣ: một số phần mềm tiện ích nhƣ
Power Point, VioLet … , E - learning và các phần mền đóng gói, tiện ích khác.
Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi ngƣời đều có
trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm
dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung
bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi
trƣờng học tập. Phần mềm dạy học đƣợc sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay
của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy
tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh
động hơn, tiết kiệm đƣợc nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phƣơng pháp
truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội
dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút đƣợc sự
chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng
có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động
nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ƣu việt này của công nghệ
thông tin và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm
việc, cách học tập, cách tƣ duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của
con ngƣời.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra
một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là
“thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo
điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự
rèn luyện của bản thân mình.
2.Cơ sở thực tiễn.
2.1 Thuận lợi:
Trƣờng Tiểu học Tiểu học Hợp Thanh B trong những năm học gần đây đã
triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phƣơng pháp dạy và học.
Trong những năm vừa qua nhà trƣờng đã mua máy chiếu Projector, máy vi
tính và nối mạng Internet.
Mặt khác trên giáo án điện tử giáo viên dễ dàng bổ sung, sửa chữa thay đổi
cấu trúc bài dạy một cách linh hoạt; phƣơng tiện đòi hỏi không nhiều chỉ cần
một máy tính, một máy chiếu và màn ảnh rộng, quan trọng là khâu soạn giáo án.
2.2. Khó khăn
Khó khăn nhất với chúng tôi là trình độ tin học còn hạn chế nên việc thiết
kế giáo án điện tử rất vất vả và mất nhiều thời gian. Chính vì vậy một số giáo
viên tỏ ra ngại và không hứng thú với việc soạn và giảng bằng giáo án điện tử.
Việc thiết kế giáo án điện tử do chƣa có nhiều kinh nghiệm nên việc chọn màu
sắc, phông chữ, hay chọn hiệu ứng đôi khi chƣa phù hợp. Giờ học còn phụ thuộc
vào nguồn điện, phòng học, ánh sáng, phƣơng tiện.
Nhà trƣờng còn chƣa có phòng nghe nhìn, mỗi khi giáo viên muốn dạy
bằng giáo án điện tử lại mất thời gian cho các thao tác kĩ thuật lắp máy, lắp màn
hình, có giáo viên chƣa nắm đƣợc quy trình lấp thiết bị thì phải chờ đợi , nhờ tới
sự hỗ trợ của các đồng nghiệp khác gây mất nhiều thời gian...
3. Nội dung
3.1 Thực trạng khi thiết kế giáo án điện tử
Để phát triển con ngƣời toàn diện góp phần hình thành năng lực phẩm chất
tƣ duy cho học sinh thì việc dạy học tốt các môn học là một yêu cầu không thể
thiếu. Ngƣời giáo viên không những dạy tốt các môn Toán, Tiếng Việt hình
thành tri thức cho học sinh mà còn phải dạy tốt tất cả các môn học khác nhau để
phát triển một con ngƣời toàn diện. Từ năm 2000 song song với việc thay sách
giáo khoa mới thì Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu các giáo viên tiểu học
đổi mới phƣơng pháp dạy học.
Hoà cùng với công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phƣơng pháp, hình thức tổ
chức dạy học trên toàn ngành, môn Tự nhiên - xã hội cũng có những bƣớc
chuyển mình, từng bƣớc vận dụng thay đổi linh hoạt các phƣơng pháp dạy học
có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nhằm tích cực hoá các hoạt động của học
sinh, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh
hội tri thức. Nhƣ chúng ta đã biết môn Tự nhiên xã hội là môn học cung cấp,
tranh bị cho học sinh những kiến thức ban đầu, cơ bản về tự nhiên và xã hội
trong cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh các em. Vì thế học sinh đã có vốn
sống, vốn hiểu biết ban đầu về tự nhiên xã hội. Mặt khác sách giáo khoa Tự
nhiên - xã hội lớp 3 không đƣa ra kiến thức đóng khung có sẵn mà là một hệ
thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh
muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện tốt các lệnh trong sách
giáo khoa. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để học tốt môn tự nhiên xã hội nhƣng
đồng thời nó cũng chính là điểm gây trễ nải trong việc học tập môn này.
Đối với môn Tự nhiên và xã hội việc thiết kế nội dung bài học bằng nhiều
tranh ảnh đã giúp cho giáo viên thiết kế giáo án diện tử gặp nhiều thuận lợi hơn
các môn học khác. Mỗi một bài học khi ta đƣa các tranh, ảnh lên màn hình lớn
và sử dụng các hiệu ứng sẽ giúp cho học sinh chú ý hơn.
Ví dụ khi dạy bài "Khả năng kì diệu của lá cây" ta đƣa hình ảnh
trong sách giáo khoa và làm hiệu ứng cho cây hô hấp và quang hợp sẽ giúp cho
bài học sinh động, học sinh hiểu và nắm bài nhanh hơn. Hay nhƣ dạy các bài về
quả, hoa, thân cây, thú , động vật,... thì ngoài các hình ảnh trong bài học ta có
thể đƣa thêm các hình ảnh khác có liên quan đến bài học giúp cho nội dung bài
học phong phú hơn.
Qua đó ta có thể nói việc dạy bằng giáo án điện tử đã giúp cho giáo viên đỡ
vất vả hơn nhiều. Thay bằng thao tác hƣớng dẫn, các thao tác gắn đồ dùng lên
bảng, giáo viên chỉ cần kích chuột lên là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh
đƣợc tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học.
Mặt khác khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế nhƣ sách giáo
khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thời gian mà hình ảnh nhỏ lại không
rõ nét nhƣ khi đƣa lên màn hình lớn.
Bên cạnh việc sử dụng phần mềm Power Point trong quá trình thiết kế giáo
án điện tử, tôi còn sử dụng phần mềm Violet, Flash vào phần luyện tập củng có,
hay trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trò chơi có thể diễn ra ở
đầu, giữa hoặc cuối tiết học. Trò chơi có thể giải quyết đƣợc một phần hay toàn
bộ nội dung bài học. Mặt khác còn giúp cho học sinh phản xạ nhanh từ đó phát
triển tƣ duy.
Việc đƣa ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn tự nhiên xã hội
có nhiều cái lợi cho cả giáo viên và học sinh. Nhƣng bên cạnh đó cũng không ít
giáo viên gặp nhiều khó khăn khi thiết kế giáo án điện tử. Vậy vấn đề đặt ra là
phải soạn giáo án nhƣ thế nào cho phù hợp thì mới mang lại hiệu quả mong
muốn.
3.2 Cách thiết kế và những yêu cầu cần thiết khi soạn giáo án điện tử.
Đối với môn Tự nhiên - xã hôi mỗi bài học là một hệ thống các hình ảnh
bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Bởi vậy khi soạn giảng một tiết
dạy bằng giáo án điện tử tôi thƣờng thực hiện các bƣớc sau:
Bước 1: Soạn giáo án ở chương trình Power Point.
Khi soạn ở giáo án ở chƣơng trình Power Point chúng ta cần soạn đủ các
bƣớc lên lớp, đặc biệt chú ý các bƣớc sau:
Kiểm tra bài cũ.
Dạy bài mới:
- Giới thiệu bài, khởi động.
- Tổ chức các hoạt động dạy học:
+ Hoạt động 1: Quan sát hình thành khái niệm kiến thức
+ Hoạt động 2: Khai thác vốn sống thực tế - Liên hệ hình thành kĩ năng
thái độ.
+ Trò chơi học tập hoặc làm phiếu bài tập theo yeu cầu.
=> Đây là bƣớc quan trọng nhất trong quá trình soạn giáo án.
Củng cố kiến thức.
Hƣớng dẫn về nhà.
Hiện nay đã có nhiều giáo viên tiểu học soạn giáo án trên chƣơng trình
Word, điều đó rất thuận lợi cho quá trình soạn giáo án điện tử.
Bước 2: Lựa chọn kiến thức khi trình chiếu.
Đây là bƣớc rất quan trọng, nhiều giáo viên đặc biệt là những giáo viên
mới bắt đầu soạn giảng với Power Point còn lúng túng ở bƣớc này. Để thực hiện
tốt ngƣời giáo viên phải nắm đƣợc kiến thức trọng tâm của bài giảng, không
tham kiến thức, không tham chình chiếu, chỉ đƣa trình chiếu những kiến thức,
nội dung học sinh cần ghi nhớ, không đƣa phần trình chiếu thuyết giảng của giáo
viên. Nếu kiến thức đƣa ra trình chiếu không đƣợc lựa chọn dễ bị đẩy vào hai
tình huống.
Kiến thức đƣa nhiều học sinh khó theo dõi.
Kiến thức đƣa quá sơ sài, học sinh không nắm đƣợc bài.
Vì thế ngƣời giáo viên cần biết chắt lọc và tinh giảm kiến thức cần trình
bày trên các Slide, đảm bảo nội dung cô đọng nhƣng vẫn đầy đủ ý.
Bước 3: Lựa chọn tư liệu đưa vào giáo án.
Các tƣ liệu đƣợc lựa chọn đƣa vào giáo án thƣờng là:
Hình ảnh:
- Hình ảnh trong sách giáo khoa nhằm giúp các em chiếm lĩnh kiến thức.
- Hình ảnh bên ngoài sách giáo khoa có liên quan đến bài học nhằm giúp
học sinh khái thác vốn sống - liên hệ hình thành kĩ năng.
- Các đoạn phim, vi deo clip.
Ngoài ra còn rất nhiều những hình ảnh khác nữa.
- Các đoạn phim: Đoạn phim quay về làng quê và đô thị, trái đất.... Các
clip: khă năng kì diệu của lá cây; năm, tháng , ngày...
Âm thanh: Các bài hát đƣợc sử dụng trong phần mở bài hay kết bài giúp
cho bài học phong phú hơn.
Có thể nói tƣ liệu để phục vụ cho mối bài giảng nhiều, giáo viên có thể
tìm và sƣu tầmảơ nhiều nguồn khác nhau trên Internet. để có một hệ thống tƣ
liệu phong phú, giáo viên phải có ý thức cập nhật thƣờng xuyên. Tuy nhiên
chúng ta cũng không nên quá lạm dụng mà phải biết chắt lọc, lựa chọn những tƣ
liệu đắt nhất, hiệu quả nhất có tác dụng tốt hơn với học sinh nếu không sẽ làm
loãng bài giảng, học sinh mải xem hình ảnh mà quên mất bài giảng.
Bước 4: Thiết kế các Slide của giáo án.
Lựa chọn số lƣợng Slide cho mỗi bài giảng.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy thƣờng một giờ dạy Tự nhiên xã
hội không nên sử dụng quá 10 - 12 trang.
- Kiểm tra bài cũ: 1 Slied
- Giới thiệu bài mới: 1 Slide
- Bài mới: 5 - 6 Slied
- Củng cố kiến thức: 1 - 2 Slied
- Hƣớng dẫn về nhà: 1 Slied.
Ngoài ra còn có các Slide khác là giới thiệu, lời chào.
Xây dựng bố cục mỗi Slide
Tuỳ theo từng nội dung bài mà chúng ta xây dựng bố cục cho linh hoạt.
Chọn phông nên, kiểu chữ, và cỡ chữ.
Đây cũng là bƣớc quan trọng vì nếu Slide phối hợp màu sắc không chuẩn,
thiếu các nguyên tắc cơ bản về độ sáng, tối độ đậm, nhạt, độ tƣơng phản khiến
các Slide không đạt tới sự hài hoà cần thiết dẫn tới gây ức chế cho học sinh.
Hoặc các Slide chứa quá nhiều chữ , hình ảnh, kích cỡ nhỏ, ngƣời xem không
thấy hoặc phải căng mắt ra gây mệt mỏi.
Nên thống nhất kiểu chữ, cỡ chữ , màu chữ ở những đề mụ, nội dung có
cùng một vị trí, vai trò, nhiệm vụ...
Với những nội dung mang ý khái quát hoặc có mục đích chốt lại nội dung,
kiến thức đƣợc in đậm với màu chữ, kiểu chữ khác hẳn với những màu chữ, kiểu
chữ đã chọn ở trên, học sinh dễ khắc sâu kiến thức.
Chọn phông nền nên chọn màu hài hoà nhƣng phải làm nổi bật màu chữ đã
sử dụng ở Slide. Không nên chọn màu nền quá tối nhƣ màu đen, ghi, nâu, xám...
hoặc màu quá chói nhƣ màu đỏ, tím, cam... Cũng không nên chọn mỗi Slide một
màu nền khác nhau điều đó cũng kéo theo màu chữ cũng phải thay đổi khiến cho
học sinh khó theo dõi, khó nhớ kiến thức... Vì vậy màu nền nênthống nhất ở tất
cả các Slide của một bài giảng.
Chọn cách trình chiếu.
Nên chọn kiểu đƣa kiến thức, hình ảnh xuất hiện một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên không nên lạm dụng các hiệu ứng các chuyển động khiến kiểu kiến thức
xuất hiện một cách cầu kì. Các dòng chữ nên xuất hiện với tốc độ vừa phải,
không nên quá chậm mất nhiều thời gianm cũng không nên lật quá nhanh các
slide gây cho học sinh cảm giác không kịp tiếp thu. Tôi thƣờng chọn những kiểu
chuyện động box, plus, expand... Tuy nhiên cũng không nên sử dụng quá nhiều
chuyển động trong một Slide, học sinh mất tập chung, chỉ chờ xem dòng chữ tiết
theo sẽ xuất hiện kiẻu nào.
Bước 5: Lên lớp
Đây là bƣớc quan trọng, nhiều giáo viên chuẩn bị giáo án tốt nhƣng giờ
dạy không thành công chính là ở bƣớc này.
Trong quá trình giảng dạy không đƣợc phụ thuộc vào thiết bị và công
nghệ làm mất khả năng linh hoạt, không bao giờ đƣợc coi việc chuẩn bị nội
dung của mình là cố định cứ để thế mà bất kì tình huống trên lớp đòi hỏi phải
điều chỉnh thay đổi. Cần làm chủ đƣợc công nghệ, không nên ngại việc bổ sung,
sửa chữa bài giảng ngay tại lớp bởi vì mỗi bài giảng luôn luôn có nhiều tình
huống bất ngờ xuất hiện, nếu làm chủ đƣợc công nghệ thông tin ta sẽ dễ dàng
thay đổi , điều chỉnh giáo án mà không hề ảnh hƣởng đến trình chiếu, học sinh
không biết đƣợc giáo viên đã dừng lại để sửa chữa nhƣ thế nào. Thiết bị hiện đại
cho phép giáo viên dễ dàng làm đƣợc điều đó.
Khi sử dụng giáo án điện tử vẫn phải kết hợp linh hoạt với các phƣơng
pháp dạy học khác tuyệt đối không thực hiện bài giảng kiểu diễn giải - trình
chiếu - diễn giải - trình chiếu. Để tránh đƣợc điều đó giáo viên phải xây dựng
đƣợc một hệ thống câu hỏi hay, phù hợp giúp cho học sinh nắm bài tốt. Mặt
khác cúng giúp cho giáo viên tránh đƣợc lối suy diễn máy móc, giữ đúng vai trò,
chức năng tổ chức, hƣớng dẫn định hƣớng chứ không áp đặt một chiều, Học
sinh đƣợc đặt đúng vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận kiến thức.
Tóm lại giáo án Power Point chỉ là công cụ hỗ trợ cho việc dạy học và giúp
cho bài giảng hay hơn, sinh động hơn và nó không thể nào thay thế đƣợc ngƣời
thầy trên bục giảng. Hiệu quả của một tiết dạy vẫn tập chung vào vai trò ngƣời
thầy.
Ví dụ
Bài: CÁC THẾ HỆ TRONG MỘT GIA ĐÌNH
Trong bài này tôi thiết kế trên 9 slide, sau đay là một số slide chính trong
bài:
+ Ở slide thứ nhất tôi thiết kế cho học sinh khởi động, thảo luận theo
nhóm đôi để đƣa học sinh đi vào kiến thức của bài.
Sau khi học sinh thảo luận và báo cáo kết quả mình vừa thảo luận. Giáo
viên đƣa ra kết luận của hoạt động 1 trên slide thứ 2.
Trên slide thứ 3 tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo 4 nhóm theo lệnh yêu
cầu.
Sau đó ở slide thứ 4 tôi làm hiệu ứng cho gia đình bạn Minh hiện trƣớc
cùng với 4 câu hỏi cho học sinh thảo luận. Một học sinh đứng dậy đọc các câu
hỏi đó. Tiếp theo tôi làm hiệu ứng biến mất và đồng thời cho hiệu ứng bay ra để
gia đình bạn Lan và câu hỏi cũng hiện ra trên slide 4. Ở phận này học sinh cũng
đứng dậy đọc câu hỏi. Sau khi học sinh quan sát và đọc câu hỏi tôi đƣa phiếu
giao việc ghi câu hỏi về các nhóm để các em thảo luận trong vòng 10 phút. Các
nhóm lên báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình.
Trên slide thứ 5 tôi làm hiệu ứng cho hiện lần lƣợt kết quả của các câu hỏi
sau khi các em lên báo cáo để nhằm khắc sâu kiến thức cho các em
Ở slide thứ 6 tôi đƣa ra một bức ảnh chỉ có 2 vợ chồng và đƣa ra câu hỏi
sau đó làm hiệu ứng để câu hỏi biến mất và thây vầo đó là phần trả lời hiện ra để
học sinh nhận biết đƣợc thế nào là gia đình có 1 thế hệ.
Trên slide thứ 7 này là kết luận của hoạt động 2
Slide thứ 8 tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm 4 (học sinh chuẩn bị
sẵn ảnh của gia đình mình)
Sau khi học sinh giới thiệu trong nhóm mình xong, tôi gọi một số học sinh
lên giới thiệu về gia đình mình trƣớc lớp và nói gia đình mình có mấy thế hệ.
Slide thứ 9 nêu kết luận của hoạt động 3.
Slide thứ 10 và 11 là trò chơi thỏ ăn cà rốt. Ở trò chơi này có 2 chú thỏ trên
mỗi chú thỏ ghi 2 thế hệ và ba thế hệ và một củ cà rốt.
Trên slide thứ 11 tôi đƣa ra một số bức ảnh của các gia đình có 1 thế hệ, 2
thế hệ, 3 thế hệ. Tôi lần lƣợt cho hiện ra từng bức ảnh một và yêu cầu học sinh
đoán xem bức ảnh đó thuộc gia đình mấy thế hệ. Sau khi học sinh trả lời tôi kích
chuột vào chú thỏ. Ví dụ ở bức ảnh thứ nhất học sinh trả lời là gia đình ba thế hệ
tôi kích chuột vào chú thỏ mang dòng chữ ba thế hệ nếu đúng chú thỏ đƣợc ăn
củ cà rốt bên cạnh, còn nếu sai thì chú thỏ sẽ khóc và không đƣợc ăn cà rốt.
- Xem thêm -