MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG
GIỢ DẠY MỌN GDCS LỚP 6, 7
A. PHẦN MƠ ĐẦU: I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ở bất kì một quốc gia nào, những đổi mới về giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói
riêng cũng đều bắt đầu từ việc xem xét, điều chỉnh về mục tiêu giáo dục với mong muốn là các nhà
trường đào tạo cho đất nước những con người mới có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực thực hiện tốt
các nghĩa vụ của người công dân trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước.
Ơ nước ta, việc thực hiện đổi mới giáo dục pho thông nói chung, đổi mới chương
trình, nội dung và phương pháp giảng dạy môn giáo dục công dân (GDCD) ở cấp trung học cơ
sở (THCS) nói riêng cũng không ngoài mục đích đó đòi hỏi các cấp quản lí giáo dục va mỗi giáo
viên phải no lực thực hiện. Nhưng vấn đe đặt ra là cách tổ chức thực hiện các yêu cầu đổi mới
đo như the nào đe vừa co tính kha thi, vừa đảm bảo tính đúng đắn của một chu trương trong
điều kiện có được của mỗi nha trường, mỗi địa phương va kết qua thu được đạt như mong
muốn - nhất la đối với giáo viên, lực lượng co vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo
trong các nha trường thì phải đổi mới cách dạy, cách to chức học tập cho học sinh của mình
như the nào đe đạt được những yêu cầu va mục tiêu của đổi mới đặt ra? Xuất phát từ quan điểm và
những yêu cầu như vậy của việc đổi mới phương pháp giảng dạy ơ các môn học nói chung,
môn GDCD ơ cấp THCS nói riêng thì bất cư người giáo viên nào cũng đều có thể sử dụng
những phương pháp dạy học phu hợp với đặc thu của mỗi bo môn như: trực quan, đàm thoại,
nêu vấn đề, giảng thuyết, thảo luận nhóm, tổ chức ngoại khóa, thực hành… để chuyển tải đến
các đối tượng học sinh những nội dung cơ bản của từng bài học trong sách giáo khoa
(SGK). Tuy nhiên, việc chuyển tải đo co gây cho các đối tượng học sinh co được những hứng
thu học tập cần thiết hây không thì đây mới la vấn đe vo cùng quan trọng trong tiến trình
thực hiện giờ dạy của mình, vì theo lí luận dạy đã khẳng định:
- Hứng thú là nguồn lực vô tận của mọi cảm nhận của con ngưới, nó kích thích tư duy
và hành động của con người vươn tới sự tri giác các sự vật, hiện tượng có
trong thế giới khách quan mà con người muốn lĩnh hội.
- Hứng thú còn là cửa sổ, là lực hút của quá trình nhận thức và hình thành những tri thức
mới ở con người.
- Hứng thú chính là động lực thôi thúc và giúp con người luôn có những hưng phấn, năng
động và sáng tạo để vươn tới những mục tiêu mới.
Thật vậy, trong qua trình giảng dạy bo môn này ơ khối lớp 6, 7 tại trường THCS Hùng
Vương - TP Long Xuyên và qua dự giờ, học tập kinh nghiệm từ các tiết thao giảng, chuyên đề
của các đồng nghiệp trong tổ, ở cụm và hội đồng bộ môn … bản thân tôi lại càng thấy rõ và càng thấm
thía hơn về yếu tố này và nó luôn thôi thúc tôi có những suy nghĩ, nghiên cứu và quyết tâm thực hiện
nó. Đó là lí do mà tôi mạnh dạn đăng kí nghiên cứu, trải nghiệm và đúc kết đề tài sáng kiến kinh
nghiệm ( SKKN ) về: “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học môn
GDCD ở khối lớp 6, 7”.
II. NHỮNG CÔNG VIỆC ĐA NGHIÊN CỨU VA TRẢI NGHIỆM ĐE TÀI
SKKN:
Đe thực hiện những mục tiêu của đe tài SKKN đặt ra, bản thân tôi đa tiến hành
những công việc cụ thể như sau:
- Nghiên cứu nắm vững chương trình, nội dung các bài dạy môn GDCD lớp 6, 7 và tích
cực tìm hiểu thêm những vấn đề về đạo đức, pháp luật và xã hội có liên quan đến kiến thức bài học
trong thực tế.
- Nghiêm túc thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh gia
học sinh trong tiến trình soạn, giảng theo hướng dẫn và tập huấn của Sở đối với bo môn.
- Nghiên cứu tài liệu về tâm lí học lứa tuổi học sinh ở cấp THCS và kết hợp với các giáo
viên chủ nhiệm lớp để nắm, biết về hoàn cảnh sống của gia đình, môi trường sinh hoạt… của những
học sinh có dấu hiệu bất thường về đạo đức, lối sống và ý thức chấp hành trong lời nói, hành vi giao tiếp,
ứng xử.
- Thực hiện đầu tư thiết kế và biên soạn nội dung các tiết dạy theo hướng gắn kết nội dung
tiết dạy với những hoạt động để tạo cho các đối tượng học sinh có sự hưng phấn cần thiết và ham
thích học tập.
- Thường xuyên đúc rút kinh nghiệm sau từng tiết dạy để có những điều chỉnh, bổ sung hợp
lí về hệ thống các câu hỏi, cách diễn đạt các nội dung và kĩ năng, thao tác sử dụng các phương tiện,
đồ dùng dạy học … để tiết dạy sau đạt hiệu quả hơn.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM ĐỀ TÀI SKKN :
Do thời gian tiếp cận, giảng dạy môn GDCD ở trường phổ thông không lâu so với các đồng
nghiệp khác trong trường và được trường sắp xếp, tạo điều kiện cho tôi
được giảng dạy liên tục môn học này ở 2 khối lớp 6 và 7 nên việc nghiên cứu, trải
nghiệm đề tài SKKN của tôi cũng chỉ xoay quanh “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học
sinh trong giờ học môn GDCD lớp 6, 7 “ ở trường THCS Hùng Vương
– TP.Long Xuyên từ đầu học kì II năm học 2008 – 2009 đến nay mà thôi.
B. PHẦN NỘI DUNG :
I. NHỮNG CĂN CƯ NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM ĐE TÀI SKKN :
1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của môn GDCD ở trường phổ thông nói chung, cấp THCS nói riêng là nhằm
cung cấp cho học sinh hiểu biết về những giá trị đạo đức, pháp luật cơ bản phù hợp với nhận thức
của lứa tuổi, hiểu biết về những chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của con người Việt Nam trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Từ những hiểu biết đó của học
sinh, bằng khả năng sư phạm của mình mà người giáo viên tiến hành các hoạt động giáo dục nhằm
hình thành và xác lập cho các đối tượng học sinh có ý thức và hành vi sinh hoạt, học tập đúng đắn;
tích cực, tự giác trong thực hiện những chuẩn mực, những qui định mà các em đã học ở mọi nơi,
mọi lúc (gia đình, nhà trường và xã hội).
Nội dung của môn GDCD cấp THCS là được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học
của các ngành và môn học khác như : Đạo đức học, Luật học, Luân lí học, Xã hội học, Giáo dục học
… và dựa vào những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng - Nhà nước ta
trong chiến lược chăm lo phát triển nhân tố con người. Mặt khác, nội dung môn GDCD cấp
THCS còn tích hợp giáo dục cho học sinh có những hiểu biết cần thiết về một số vấn đề có tính
thời sự, xã hội khác phù hợp với lứa tuổi các em như : Giáo dục về kĩ năng sống, về giữ gìn vệ sinh bảo vệ môi trường, về thực hiện chính sách dân số - gia đình, về giới tính và sức khỏe sinh sản tuổi
vị thành niên, về phòng chống HIV/AIDS … Song, dù thực hiện ở nội dung nào đi nữa thì vấn đề
xuyên suốt và có tính xâu chuỗi các nội dung giáo dục này lại với nhau là sự gắn kết chặt chẽ
giữa kiến thức học tập với thực tiễn cuộc sống theo những chuẩn mực đạo đức và pháp luật được
mọi người quan tâm thực hiện.
Mục đích cuối cùng của việc dạy và học môn GDCD ở cấp THCS là làm thế nào để hướng
các đối tượng học sinh có ý thức và hành vi luôn vươn tới những giá trị chân, thiện, mi của cuộc sống;
có niềm tin và thói quen hành động theo những qui định, chuẩn mực đạo đức, pháp luật của một
người công dân mới trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Để thực hiện được những yêu cầu, mục tiêu của việc đổi mới chương trình và nội dung
trong dạy học môn GDCD cấp THCS nói chung, khối lớp 6, 7 nói riêng thì vấn đề trước tiên được
các cấp quản lí giáo dục quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện là phải đổi mới có hiệu quả về phương
pháp giảng dạy ở bộ môn này nhằm đảm bảo cho
các đối tượng học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến thức, kĩ năng và có thái độ,
tình cam và lí tưởng hành động đúng đắn, trung thực trong việc thực hiện những chuẩn mực,
những giá trị về đạo đức và pháp luật theo nội dung các kiến thức đã học; biết phân biệt được
những hành vi, thái độ “ đúng – sai “, “ tốt – xấu “ trong từng lời nói, việc làm … của bản thân và
của những người xung quanh trong thực hiện những chuẩn mục, qui định đó. Từ đo, giúp các
em có những điều chỉnh về cách ứng xử của mình phù hợp với những quy định của pháp luật và
những truyền thống, đạo lí của dân tộc.
Song, việc đổi mới phương pháp giảng dạy ơ môn GDCD cấp THCS nói chung, ở khối lớp
6,7 nói riêng không phải là sự bỏ đi những nguyên tắc, phương pháp giáo dục truyền thống cơ bản
của bộ môn mà là sự vận dụng có chọn lọc, kế thừa và nâng lên những phương pháp dạy học này trong
điều kiện xã hội và các phương tiện dạy học mới ngày nay thông qua lăng kính và các kĩ năng sư phạm
của người thầy để giúp cho từng học sinh có những hứng thú, ham thích và say mê học tập một cách
tích cực, tự giác và chủ động hơn. Như Đai-ri ( nhà GD Liên Xô cũ ) đã nói : “Dạy học hay dạy bất cứ
cái gì thì điều trước tiên là đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cho được cái thông minh, cái cảm hứng
ở người học, chứ đừng bắt trí nhớ của người học làm việc một cách máy móc, bắt no ghi chép rồi tra lại”.
Như vậy, mục đích của việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở các môn học nói chung, môn GDCD
nói riêng không gì khác hơn la tạo cho học sinh co những hứng thu học tập đe tư đo các em mới thấy
được sư cần thiết của việc học, biến quá trình lĩnh hội ( có sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên ) thành
quá trình tự lĩnh hội ( sự tự vận động các tri giác và tâm lực của học sinh ) một cách thông minh va
sáng tạo.
2. Cơ sở thực tiễn:
Ở trường THCS Hùng Vương đa số học sinh là con em của nhân dân lao động nghèo, cha
mẹ của các em phải bươn chãi để có miếng ăn hằng ngày. Một bộ phận phụ huynh học sinh từ nơi
khác đến hoặc đi làm thuê, mua bán xa, gia đình đổ vỡ, sống với ông bà … nơi ở của những
em này thường không ổn định, thiếu được sự quan tâm kiểm tra, nhắc nhở của gia đình, … nên
về đạo đức, lối sống, tình cảm và suy nghĩ của các em ít nhiều đã bị những tiêu cực, lối sống thiếu
lành mạnh tác động. Từ đó, làm cho một bộ phận học sinh của trường luôn có những biểu hiện
không đúng đắn về động cơ, thái độ học tập; một số thói hư, tật xấu như : chửi thề, nói tục, dối trá với
thầy cô, thô tục bạo hành với bạn bè … thường xảy ra trong giờ học lẫn giờ chơi. Mặt khác, do quan
niệm của một số học sinh và phụ huynh vẫn còn coi GDCD là môn phụ, không ảnh hưởng gì đến
việc thi cử sau này nên cũng không quan tâm, động viên và cố gắng. Mặc dù bản thân và các giáo
viên chủ nhiệm lớp có giải thích nhưng vẫn còn nhiều ý kiến chưa thật sự đồng tình, vì theo họ :
nếu gọi là môn học quan trọng thì tại sao Nhà nước không đưa môn GDCD vào hệ thống các môn
trong các kì thi tuyển ? Với cách suy nghĩ này không chỉ có ở những học sinh có cá tính ve học tập
mà ngay cả một số học sinh có học lực khá giỏi, đạo đức ngoan hiền trong những giờ học khác thì
cũng thiếu tập trung trong giờ học môn GDCD, biểu hiện dễ thấy ở những em này là thường nói
chuyện trong giờ học, không ghi chép bài, lơ là với lời giảng, câu hỏi của giáo viên ... Một số khác
thường xuyên có thái độ bỏ ngoài tai ở những nội dung mang tính giáo dục về đạo đức và rèn luyện
nhân cách, vì những học sinh này cho đó là “chuyện cũ rích”, “chuyện dạy đời” nên cũng không
cần chú ý.
Bên cạnh những quan niệm động cơ, thái độ không đúng đắn trong một bộ phận học
sinh về học tập bộ môn như đã vừa nêu thì trong giảng dạy do nhiều yếu tố khác nhau, bản thân cũng
như một số giáo viên cùng giảng dạy bộ môn đôi khi cũng chưa thật sự tạo được sự hứng thú học tập
cần thiết cho học sinh trong từng giờ dạy. Sự rập khuôn, sơ cứng trong áp dụng các phương pháp
dạy học đã tạo cho học sinh về lối mòn suy nghĩ và lĩnh hội, các tình huống thực tế, các tục ngữ ca
dao, các tranh ảnh … minh họa thiếu được người giáo viên “ thổi hồn “ để tạo ra những hấp dẫn từ
những phương tiện dạy học này.
Từ thực trạng dạy và học ở môn GDCD nói chung, khối lớp 6, 7 nói riêng như đã nêu trên,
bản thân tôi đôi lúc cũng thấy bị “ sốc “ - nhất là khi mới về trường. Nhưng do xác định đúng
đắn trách nhiệm của một giáo viên dạy môn GDCD : một môn học co chức năng giáo dục, rèn
luyện va xây dựng nhân cách con người từ trong lúc ngồi ghế nhà trường đã giúp tôi trụ vững và
luôn trăn trở là phải dạy như thế nào để các em có những hứng thú học tập, ham thích phát biểu, tích
cực tham gia xây dựng bài, tự giác thực hành, ghi chép … ? Với những trăn trở như vậy, từ đầu học
kì II năm học 2008 – 2009 đến nay bản thân đã không ngừng nghiên cứu, mày mò, trãi nghiệm ở
đề tài : “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học môn giáo dục công dân lớp
6, 7 “ đã thu được một số kết khả quan và xin đúc kết lại ở những việc làm và kết quả như sau :
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN :
1. Đầu tư cho việc làm và sử dụng hợp lí hệ thống các phương tiện giảng dạy trực quan đảm
bảo tính khoa học, chuẩn xác, sinh động và dễ hiểu:
Đây là phương pháp giảng dạy có nhiều ưu thế được hầu hết các giáo viên sử dụng trong quá
trình dạy học ở các nhà trường. Tuy nhiên, do tính đa dạng về nội dung giáo dục của môn GDCD là
xây dựng, rèn luyện ý thức, hành vi, thái độ, nhân cách con người trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nên
các phương tiện, đồ dùng giảng dạy trực quan chưa được các cấp quản lí các đơn vị chức năng thiết
kế, cung cấp cho việc dạy và học ở bộ môn này như các môn học khác. Để có được những loại
phương tiện, đồ dùng giảng dạy trực quan cần thiết theo yêu cầu tối thiểu của từng bài dạy, bản thân
cũng như hầu hết các giáo viên cùng dạy bộ môn phải tự làm hoặc tự sưu tầm theo những tính toán
dạy học chủ quan nên đôi lúc có những thiếu sót về tính chính xác, chưa đảm bảo tính khoa học,
thao tác, kĩ năng khai thác, trình bày các phương tiện, đồ dùng dạy học này cũng có những bất cập,
chưa thật sự hợp lí … thậm chí đôi khi còn làm tăng thêm tính rườm rà, phức tạp cho quá trình lĩnh
hội các tri thức của học sinh.
Thấy được những ưu và hạn chế trong sử dụng phương pháp dạy học này, bản thân đã tiến hành
những điều chỉnh để khắc phục những sai sót, hạn chế từ khâu chuẩn bị đến kĩ năng trình diễn
các loại đồ dùng, phương tiện giảng dạy này như : tranh ảnh, sơ đồ, mẫu chuyện … sao cho hợp
lí, khoa học, chuẩn xác, sinh động và dễ hiểu để thu hút sự tập trung, chú ý của các đối tượng học
sinh. Từ đó dẫn dắt các em đi vào nội dung của từng vấn đề, từng lĩnh vực của bài học đặt ra. Ví du:
. Khi dạy bài 1: “Tự chăm sóc - Rèn luyện thân thể” ở GDCD. 6, phần giới thiệu bài tôi
cho học sinh xem hình một bạn sáng thức dây đúng giờ, tập thể dục và hình một bạn ngủ trễ, đi
học muộn mà tỏ vẻ không lo lắng gì và yêu cầu học sinh nhận xét và cho ý kiến về ý thức “rèn luyện
thân thể va tự chăm sóc” của 2 bạn này.
Tập thể dục buổi sáng đúng giờ Lười tập thể dục buổi sáng
Ngủ muộn, đi học trễ giờ
- Xem thêm -