Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mg 5 6 tuổi làm quen với toá...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mg 5 6 tuổi làm quen với toán

.DOC
35
3104
99

Mô tả:

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực nhận thức 3. Tác giả: - Họ và tên: Vũ Thị Biên - Ngày, tháng, năm sinh: 11/4/1964 - Trình độ chuyên môn: Đại học mầm non - Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cộng Hòa 1. - Điện thoại: 0974 820 510 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Vũ Thị Biên 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Lớp 5 tuổi trường mầm non Cộng Hòa 1. 6. Các điều kiện cần áp dụng sáng kiến: phòng học rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ, đủ đồ dùng cá nhân, học sinh, giáo viên. 7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9/2014 đến tháng 2/2015 HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN) XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN -1- TÓM TẮT SÁNG KIẾN 1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến: Trong các môn học giáo dục mầm non tôi thấy việc hình thành các biểu tượng toán học sơ đẳng mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng là rất quan trọng, trong việc hình thành tính tích cực, độc lập, sáng tạo giúp trẻ có kiến thức, kỹ năng, biểu diễn những con số, phép toán đơn giản và đặc biệt hơn học tốt môn toán trẻ sẽ tự tin khi bước vào lớp 1. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến: Để áp dụng sáng kiến cần có những điều kiện sau: - Có đủ cơ sở vật chất, phòng học sạch sẽ thoáng mát về mùa hè. ấm về mùa đông, đồ dùng đồ chơi đủ cho trẻ trong lớp. - Giáo viên trực tiếp giảng dạy tại trường mầm non có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên và có kinh nghiệm giảng dạy. - Trẻ khỏe mạnh, phát triển bình thường, có nề nếp học tập và vui chơi. - Phụ huynh quan tâm đến việc học tập của trẻ. Thời gian và đối tượng để nghiên cứu và áp dụng sáng kiến từ thời điểm tháng 9/2014 đến tháng 2/2015 tại lớp mẫu giáo 5 tuổi mà tôi chủ nhiệm. 3.Nội dung sáng kiến: Trong sáng kiến của tôi, tôi đã chỉ ra được hạn chế: cơ sở vật chất, nhận thức của trẻ, sự phối hợp của phụ huynh trên cơ sở đó tôi đã xây dựng và đề xuất 6 biện pháp sau: - Biện pháp 1: Xác định nội dung cần truyền đạt cho trẻ. - Biện pháp 2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi - Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán - Biên pháp 4: Tổ chức hoạt động trong hoạt động học - Biện pháp 5: Lồng ghép tích hợp làm quen với toán về số lượng vào các môn học, hoạt động hằng ngày. - Biện pháp 6: Công tác tuyên truyền phối hợp với phụ huynh cho trẻ làm quen với toán về số lượng. */ Tính mới sáng tạo của sáng kiến: Các biện pháp của tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo giúp cho giáo viên có những biện pháp phù hợp như chuẩn bị đồ dùng, tạo môi trường làm quen với toán, tổ chức hoạt động trong hoạt động theo hình thức trò chơi, hội thi hay đề tài ngày hội ngày lễ,…. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi. -2- */ Khả năng áp dụng sáng kiến: Cách thức áp dụng: Với biện pháp 1 của tôi giúp cho mỗi giáo viên xác định đúng nội dung cần truyền đạt cho trẻ, khi giáo viên nắm vững được nội dung sẽ chuẩn bị những đồ dùng, đồ chơi để tổ chức hoạt động “biện pháp 2”. Tôi luôn tạo môi trường cho trẻ bằng những hình ảnh sinh động, những con số được cắt dán trên những mảng tường dành riêng cho biểu tượng về toán ( biện pháp 3). Giờ hoạt động rất cần thay đổi những hình thức tổ chức như thiết kế những tiết dạy thành những trò chơi, hay hội thi để thu hút trẻ (Biện pháp 4). Ngoài ra tôi còn tổ chức trẻ ôn luyện “LQVT” ở mọi lúc mọi nơi, nồng ghép trong những môn học khác (biện pháp 5). Luôn tuyên truyền kết hợp với phụ huynh cho trẻ “LQVT” tại gia đình (biện pháp 6). */ Lợi ích của sáng kiến: Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” sẽ mang lại những lợi ích sau: - Giúp tôi và giáo viên khác hiểu rõ hơn về nội dung, tầm quan trọng của môn “LQVT” về số lượng từ đó có sự đầu tư xây dựng các hoạt động cho trẻ làm quen tốt hơn. - Giúp trẻ hoạt động linh hoạt khi trẻ “LQVT” về số lượng và các hoạt động khác trong trường mầm non. - Giúp trẻ ghi nhớ được những con số, thực hiện được phép toán đơn giản như thêm bớt trong phạm vi 10 và chia 10 đối tượng thành hai phần bằng những cách khác nhau. - Giúp cho phụ huynh hiểu về tầm quan trọng về môn học sẽ cùng giáo viên giảng dạy cho con em mình tại gia đình. 4. Khẳng định giá trị, kết quả của sáng kiến: Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” thường xuyên sẽ giúp trẻ tiếp thu bài tốt hơn, trẻ ghi nhớ lâu hơn. Đặc biệt các phụ huynh hài lòng với kết quả của con em mình. Từ đó là động lực thu hút trẻ đến trường nhiều hơn. 5. Đề xuất kiến nghị. Đối với cấp trường, phòng giáo dục tạo mọi điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, mua sắm đồ dùng, đồ chơi, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức các hội thi giáo viên giỏi, chuyên đề, đồ dùng đồ chơi. -3- MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Mỗi chúng ta ai cũng nhớ lời bác Hồ dạy “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lời ích trăm năm trồng người” lời dạy của Bác đã in sâu vào tâm trí con người Việt Nam nhất là những người đứng trong sự nghiệp trồng người. Là một giáo viên mầm non tôi thấy mình nên làm gì để góp phần giáo dục nước nhà. Bởi vì giáo dục mầm non có một vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là góp phần vào việc nâng cao dân trí đạo tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chính vì vậy việc truyền thụ kiến thức và chăm sóc trẻ ở trường mầm non bước đầu hình thành cho trẻ những nhân cách đầu tiên tiên của con người. Thông qua học tập vui chơi sẽ giúp trẻ có khả năng độc lập vui chơi, sáng tạo, giúp trẻ phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ,…. Là tiền đề cho trẻ học tốt ở bậc học phổ thông sau này. Theo chỉ đạo của ngành học mầm non việc đưa các hoạt động đến cho trẻ hầu hết được bắt đầu bằng từ “làm quen” một trong những bộ môn mà tôi thấy có tầm quan trọng đối với trẻ mầm non đó là môn “Làm quen với toán” nói chung và về số lượng nói riêng. Quá trình cho trẻ làm quen với toán sẽ hình thành cho trẻ những biểu tượng toán đơn giản về số lượng giúp cho trẻ vững vàng khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, đồng thời phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, phát triển ngôn ngữ là nền tảng cho trẻ bước vào trường tiểu học sau này. Trong quá trình dạy trẻ “LQVT” về số lượng tôi thường chú trọng trang bị kiến thức cho trẻ mà không chú trọng tới việc gây sự ham muốn hứng thú cho trẻ hoạt động, thường dừng lại ở việc cho trẻ thụ động máy móc trước thao tác mẫu của cô, thậm chí còn truyền đạt kiến thức chưa chính xác, đồ dùng, đồ chơi để trẻ hoạt động còn ít, chưa đầy đủ theo chủ đề, chưa lồng ghép toán vào các hoạt động khác, công tác tuyên truyền phụ huynh còn hạn chế. Vì vậy trong quá trình giảng dạy trẻ sinh ra những mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu -4- quả của việc hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ và khả năng truyền thụ của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động này. Khi tôi cho trẻ “lQVT” về số lượng tôi thấy đa số trẻ không hứng thú khi học, trẻ mau nhớ lại mau quên kết quả sau mỗi tiết học trẻ nắm được bài còn thấp và vẫn còn trẻ chưa đạt yêu cầu. Đặc biệt hơn còn rất nhiều phụ huynh chưa quan tâm tới con em mình còn xem nhẹ bậc học mầm non nhất là môn toán đây là những điều tôi trăn trở, suy nghĩ mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” tôi hy vọng đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với toán trong trường mầm non. Bởi vì kết quả trên trẻ là niềm tin giữa phụ huynh với cô giáo, nhà trường. 1. 1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 1. 1. 1. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu và áp dụng với mẫu giáo nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng trong trường mầm non A. 1. 1. 2. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. 1. 2. Mục đích nghiên cứu 1. 2.1. Đối với trẻ: Giúp trẻ yêu thích môn “Làm quen với toán” về số lượng. Trẻ tiếp thu bài tốt có thể: đếm đến 10 và đếm theo khả năng, thêm bớt trong phạm vi 10, biết chia 10 đối tựơng thành hai phần bằng nhiều cách, biết so sánh số lượng của hai nhóm đồ vật, biết xếp tương ứng 1:1, biết tạo nhóm các đối tượng theo đặc điểm hay dấu hiệu, ghi nhớ được các con số từ 1 đến 10. Và đặc biệt hơn trẻ học tốt môn toán sẽ giúp trẻ có tính độc lập tự tin trước mọi người. 1. 2. 2. Đối với bản thân: Sau khi áp dụng đề tài tôi nắm vững phương pháp giảng dạy, biết nồng ghép tích hợp môn “LQVT” về số lượng vào các hoạt động khác một cách linh -5- hoạt, sáng tạo. Ngoài ra tôi làm đồ dùng phục vụ cho môn “LQVT” về số lượng, từ đó tôi sẽ tự tin hơn khi cho trẻ “LQVT” được quả mình mong đợi. 1. 2. 3. Đối với phụ huynh: Giúp cho các bậc phụ huynh hiểu tầm quan trọng của môn toán. Từ đó cùng cô giáo có phương pháp dạy trẻ và ủng hộ kinh phí nguyên vật liệu để làm đồ dùng đồ chơi khi “LQVT” về số lượng. Đặc biệt sẽ cùng cô giáo cho trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 1.3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tôi thường nghiên cứu trong sách vở, tài liệu tập huấn hè, ti vi, băng hình, mạng internet, tham khảo một số kinh nghiệm trong tập san. 1.3. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát và áp dụng những biện pháp vào thực tế tại nhóm lớp sau đó đánh giá kết quả. 1.3. 3. Phương pháp thực hành trải nghiệm: Tôi cho trẻ thực hành trải nghiệm những kỹ năng và kiến thức mà trẻ đã thu nhận được. 1. 3. 4.Phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ. Tôi thường xuyên dùng lời nói nhẹ nhàng, tình cảm để thu hút trẻ vào hoạt động “LQVT” về số lượng và luôn luôn động viên, khích lệ trẻ. 1.3. 5.Phương pháp trực quan, minh họa Khi giảng dạy tôi dùng những vật cụ thể như tranh ảnh, rối, mô hình, ngôn ngữ, cử chỉ,… giúp trẻ hiểu rõ những điều mình truyền thụ. 1.3.6. Phương pháp so sánh đối chứng, tổng kết sáng kiến Tôi so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng các biện pháp từ đó rút ra các biện pháp cho bản thân để làm tốt hơn. -6- 2. Cơ sở lý luận Trẻ nhỏ sinh ra và lớn lên giữa thế giới của những sự vật và hiện tượng đa dạng. Ngay từ nhỏ trẻ đã được tiếp xúc và làm quen với những nhóm vật có màu săc, kích thước và số lượng phong phú, với các âm thanh, chuyển động có ở xung quanh trẻ. Trẻ lĩnh hội số lượng của chúng bằng các giác quan khác nhau như thị giác, thính giác, xúc giác,…. Trẻ lứa tuổi nhà trẻ đã bắt đầu có những nhận biết về số lượng, đó là nấc thang đầu tiên và cần thiết giúp trẻ nhận biết thực trạng xung quanh. Những biểu tượng đầu tiên về các nhóm vật giống nhau như: nhiều con ốc, những cái lá, nhiều con búp bê,…. Được tích lỹ và phản ánh trong ngôn ngữ thụ động của trẻ nhỏ. Đối với trẻ 5 – 6 tuổi giáo viên cần hướng tới việc củng cố và làm sâu sắc hơn những kiến thức, kỹ năng mà trẻ đã được học từ các lớp bé, hơn nữa nội dung dạy trẻ phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triến trí tuệ và tư duy toán học cho trẻ. Ngay từ lớp mẫu giáo bé, nhỡ trẻ đã được làm quen với các tập hợp và học cách phân tích các tập con trong tập lớn theo các dấu hiệu như màu sắc từ 1 đến 5. Nhiệm vụ trẻ 5 – 6 tuổi tiếp tục học phép đếm xác định số lượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng của trẻ. Trẻ được làm quen với cách lập các số tiếp theo ở dãy số tự nhiên 6, 7, 8, 9, 10. Trên cơ sở so sánh các tập hợp cớ thể có độ lớn bằng nhau hoặc hơn kém nhau một đơn vị. Trẻ học cách chia 10 đối tượng thành 2 phần bằng nhiều cách khác nhau và trẻ phải nhớ được cấu tạo của 10 số đầu và đọc được 10 chữ số thành thạo. Chính vì vậy là giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp tôi luôn luôn tìm tòi những giải pháp tốt nhất để thu hút trẻ “làm quen” với toán nói chung và về số lượng, con số và phép đếm nói riêng cho trẻ 5 – 6 tuổi nhằm mục đích giúp trẻ phát triển toàn diện: đức, trí, lao, thể, mỹ. Giúp trẻ vững vàng tự tin để bươc vào lớp 1. 3. Điều tra thực trạng Mục đích của việc điều tra thực trạng trẻ “LQVT” về số lượng là để tôi nắm được nhận thức của trẻ. Trên cơ sỏ đó tìm biện pháp giảng dạy tốt nhất để -7- nâng cao chất lượng “LQVT” nói chung và cho trẻ “LQVT” về số lượng nói riêng. (Phụ lục 1) 3.1. Phương pháp điều tra 3.1.1. Đối với trẻ Ngay từ đầu năm học tôi cho trẻ “LQVT” về số lượng tôi thấy trẻ khi thực hiện phép đếm còn rất hạn chế, vẫn con trẻ đếm còn chưa đúng theo thứ tự từ 1 đến 10. Khi so sánh, thêm bớt, chia nhóm còn chậm, chưa chính xác. Đặc biệt hơn đa số trẻ còn chưa hứng thú với “LQVT” về số lượng. 3.1.2. Điều kiện phục vụ Đồ dùng để trẻ hoạt động có đủ nhưng còn ít loại đồ dùng, thẩm mỹ chưa cao nên chưa thu hút trẻ. 3.1.3. Sự phối kết hợp của phụ huynh Phần đông phụ huynh là ở nông thôn kinh tế còn khó khăn nên sự quan tâm để ngành học mầm non của phụ huynh còn hạn chế chưa chú ý đến việc học của trẻ còn coi nhẹ chương trình giáo dục mầm non nhất là chưa quan tâm đến việc trẻ “LQVT” về số lượng. 3.1.4. Đối với bản thân Là một giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, nắm vững những kiến thức phải truyền thụ cho trẻ song hình thức tổ chức còn chưa chú trọng nên các tiết cho trẻ “LQVT” về số lượng còn gò bó chưa sinh động nên kết quả thu hút trẻ vào hoạt động chưa cao. Với nhưng yếu tố trên đã dẫn đến kết quả trên trẻ như sau: Thời Số trẻ điểm T9/2014 Đánh giá 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 8 13 10 4 trẻ 5 10 15 5 23 37 29 11 14 29 43 14 Tách, gộp Số trẻ % 5 8 17 5 14 23 49 14 Từ kết quả điều tra trên đã làm tôi suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi “LQVT” về số lượng đạt yêu cầu trở lên. Bởi kết quả -8- trên trẻ là nhân tố quyết định đến niềm tin giữa phụ huynh với cô giáo, nhà trường mặt khác đặc biệt hơn là giúp trẻ vững vàng bước vào trường tiểu học sau này. 4.Các biện pháp thực hiện 4.1. Biện pháp 1: Xác định nội dung truyền đạt cho trẻ Xác định nội dung cần truyền đạt cho trẻ “LQVT” về số lượng là rất quan trọng giúp cho mỗi giáo viên có được kiến thức để cung cấp phù hợp vừa sức đối với trẻ. Mặt khác nó còn đảm bảo được tính hệ thống đối với trẻ 5 – 6 tuổi “LQVT” về số lượng, con số và phép đếm cần ghi nhớ những nội dung sau: + Cho trẻ luyện tập so sánh số lượng của hai nhóm đối tượng trong phạm vi 10 bằng cách xếp tương ứng 1 – 1. + Dạy trẻ sắp xếp 3 nhóm đối tượng theo sự tăng hay giảm dần về số lượng của các nhóm và sử dụng các từ: nhiều nhất, ít hơn,ít nhất. + Dạy trẻ tạo nhóm các đối tượng theo đặc điểm hay dấu hiệu nào đó như màu sắc, hình dạng, kích thước,…. + Tiếp tục dạy trẻ phép đếm xác định số lượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng của trẻ, dạy trẻ gộp 2 nhóm đối tượng lại và đếm đúng. + Dạy trẻ nhận biết các con số chỉ số lượng và con số thứ tự trong phạm vi 10, nắm được mối quan hệ giữa các số liền kề thuộc dãy số tự nhiên. + Cho trẻ làm quen với các phép biến đổi số lượng và mối quan hệ về số lượng đơn giản như: thêm, bớt, chia các nhóm có số lượng, đối tượng trong phạm vi 10 thành 2 phần theo các cách khác nhau. Trên đây là nội dung mà ngành giáo dục và đào tạo quy định nên tôi luôn chú ý đến nội dung này để truyền thụ cho trẻ, kết quả tôi thấy trẻ lớp tôi tiếp thu bài rất thoải mái không bị quá sức. 4.2. Biện pháp2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi -9- Đồ dùng, đồ chơi trong trường mầm non là rất quan trọng đối với trẻ. Đặc biệt là môn “LQVT” về số lượng phải có đồ dùng bởi vì trẻ khi được ngắm nhìn, quan sát, sờ mó bằng các giác quan khác nhau sẽ hình thành cho trẻ những biểu tượng toán như nhiều, ít, đếm, so sánh. Khi có đồ dùng, đồ chơi có thẩm mỹ cao sẽ thu hút trẻ vào hoạt động bởi vậy là giáo viên dạy trẻ 5 – 6 tuổi tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi để có nhiều hình thức giúp trẻ hứng thú khi “LQVT” về số lượng. Qua những cơ hội trò chuyện với trẻ tôi nắm bắt được sở thích của trẻ tôi đã chuẩn bị được những đồ dùng sau: + Mỗi trẻ 1 bộ thẻ số từ 1 đến 10, que tính, vở “LQVT”, bộ “LQVT”. + Mỗi trẻ: 10 cái bát, 10 cái thìa, 10 bông hoa, 10 con bướm, 10 cái cốc, 10 ống mút, 10 lá cờ, 10 ô tô (Những đồ dùng trên tôi vẽ và cắt bằng bìa màu, vỏ sữa, xốp màucòn nhũng chiếc cốc tôi làm bằng vỏ chai lavi, ….). Mỗi một đề tài tôi sử dụng một đồ dùng khác nhau để gây sự chú ý cho trẻ. Ngoài ra tôi chuẩn bị những ngôi nhà, cây xanh to, hình ảnh bến xe, ga tàu, …. Để tổ chức trò chơi luyện tập cho trẻ. Với việc chuẩn bị đồ dùng dạy cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi đã tự tin khi cho trẻ thực hiện trong giờ “LQVT”. Đặc biệt hơn khi có đồ dùng trẻ hứng thú tham gia hoạt động rất tốt. 4.3. Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán về số lượng Với môn toán điều cần ở trẻ là sự tiếp thu nhanh và có sự tư duy sáng tạo nhưng thường thì trẻ khi chơi rất hiếu động nên do mải chơi trẻ sẽ mau quên và khi chơi thì rất hay chán. Việc tạo ra được môi trường hấp dẫn cho trẻ là điều rất cần thiết vì nó có thể giúp trẻ hào hứng với các hình ảnh, đồ dùng, đồ chơi, … Do vậy cho dù lớp tôi còn trật hẹp nhưng tôi đã giành riêng một khoảng tường để trang trí cắt dán, in hình ảnh con số, hình học, cây xanh, con vật có số lượng khác nhau để hàng ngày trẻ dễ dàng quan sát, đếm, đọc con số. Giúp trẻ ghi nhớ các biểu tượng về toán và thường xuyên tôi cho trẻ cắt dán những hình ảnh có số lượng trẻ mới học gắn lên để trẻ khắc sâu về số lượng và con số. Kết hợp với góc dành riêng cho “LQVT” về số lượng thì tôi xếp đặt đồ dùng, đồ chơi ở các góc khác luôn luôn gọn gàng và tôi có ý xếp đặt những đồ dùng, đồ - 10 - chơi có số lượng mà trẻ đang được học mỗi nhóm đồ chơi tôi thường đặt chữ số tương ứng vào nhóm đồ dùng đồ chơi đó và thường xuyên thay đổi đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề để nhằm thu hút trẻ vào hoạt động chơi với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ ngắm nhìn, quan sát, đếm số đồ dùng, đồ chơi, so sánh, ….. các đồ dùng, đồ chơi đó. Với môi trường như trên tôi đã thu được kết quả rất tốt. Trẻ rất thích chơi với đồ chơi và đặc biệt trẻ nhận được chữ số, nhóm đồ vật, biết so sánh thêm bớt, chia nhóm đồ vật trong khi chơi. 4.4. Biện pháp 4. Tổ chức hoạt động trong hoạt động học Với hoạt động học “LQVT” về số lượng đối với trẻ 5 – 6 tuổi theo quy định của giáo dục mầm non một tiết hoạt động được thực hiện theo 3 phần: + Phần 1: Ôn kiến thức cũ + Phần 2: Làm quen kiến thức mới + Phần 3: Luyện tập Để hấp dẫn và lôi cuốn trẻ trong giờ “LQVT” về số lượng tôi đã dùng các hình thức như: trò chơi, hội thi, dựa vào ngày lễ tết, câu truyện, sự kiện,…. gắn liền với chủ đề để tạo cho trẻ có cảm giác mình đang được trực tiếp tham gia vào một trò chơi hay hội thi,… nào đó, gây cho trẻ sự thích thú, ham muốn được hoạt động từ những kiến thức khô khan tôi khéo léo nồng vào giờ học sự say mê thích thú với trẻ. Qua đó sẽ giúp trẻ tiếp thu các kiến thức về biểu tượng toán một cách dễ dàng hơn. Dưới đây là giáo án tôi thường xuyên áp dụng dạy trẻ trên lớp: Ví dụ 1: Đề tài “Đếm đến 7 nhận biết nhóm có 7 đối tượng, nhận biết số 7”. (Phụ lục 1) Ví dụ 2: Đề tài: Nhận biết mối quan hệ hơn kém về số lượng trong phạm vi 8 (Phụ lục 2) Ví dụ 3: Đề tài: Tách, gộp nhóm có 7 đối tượng thành 2 phần (Phụ lục 3) Với hình thức tổ chức như trên tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia hoạt động. Kết quả trên trẻ rất tốt, trẻ không những nắm được bài mà còn hiểu thêm - 11 - được công dụng của đồ dùng trong gia đình và phong tục của ngày tết cổ truyền của dân tộc có bánh chưng, bánh dày và sản phẩm của các nghề. 4.5. Biện pháp 5: Cho trẻ “LQVT” về số lượng ngoài tiết học, nồng ghép tích hợp vào các môn học Ngoài việc dạy trẻ “LQVT” về số lượng trên tiết học tôi còn ôn luyện cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt tôi luôn chú ý nồng ghép tích hợp vào các môn học khác, kể cả trong vui chơi và lao động của trẻ nhưng tôi luôn chú ý khi nồng ghép “LQVT” về số lượng vào các hoạt động một cách nhẹ nhàng không gây áp lực cho trẻ. Hoạt động tạo hình: Phần nhận xét sản phẩm của trẻ tôi thường xuyên cho trẻ đếm những sản phẩm đẹp. Từ đó trẻ củng cố được phép đếm. Hoạt động giáo dục âm nhạc: Tôi thường nồng ghép bằng cách: cho trẻ đếm số bạn hát và so sánh số bạn nam, bạn nữ đang hát số bạn nào nhiều hơn, ít hơn? Muốn số bạn nam bằng với số bạn nữ thêm mấy bạn nam nữa ? Với tình huống trên đã giúp trẻ so sánh số lượng và thêm bớt rất tốt. Hoạt động làm quen chữ cái: Khi cho trẻ làm quen với các từ tôi thường cho trẻ đếm số chữ cái ghép lại thành từ và so sánh hai tiếng trong từ đó. Tiếng nào có số chữ cái nhiều hơn, hay ít hơn là mấy ? Qua đó trẻ được ôn luyện phép đếm và so sánh. Hoạt động khám phá khoa học và khám phá xã hội: Tôi thường cho trẻ chơi trò chơi “Ô cửa bí mật”, những ô cửa tôi thường biểu thị bằng những con số. Cho trẻ đọc số và mở ô cửa đó. Khi kết thúc những tiết học tôi thường tổ chức những trò chơi “Bật qua vòng” cho trẻ đếm số vòng, đếm số trẻ chơi, đếm phần quà,….. Giờ đón trẻ trả trẻ: Tôi thường ôn luyện cho những trẻ còn tiếp thu chậm “LQVT” về số lượng. Bằng cách cho trẻ chơi đồ chơi và hướng cho trẻ đếm những đồ chơi giống nhau và chọn những chữ số đặt vào nhóm đồ chơi đó và cũng có thể thêm, bớt, chia các nhóm đồ chơi đó theo gợi mở của tôi. Để giúp trẻ ôn luyện những kiến thức trẻ còn tiếp thu chậm. - 12 - Hoạt động ngoài trời: Quan sát cây bàng có rất nhiều quả để dạy trẻ đếm được theo khả năng trẻ. Tôi cho trẻ đếm số quả bàng trên cây mà trẻ nhìn thấy. Giúp trẻ củng cố phép đếm theo đúng thứ tự. Để củng cố về so sánh nhiều hơn ít hơn và ít hơn là mấy ? Cho trẻ đi dạo trong sân trường quan sát cây xanh tôi hướng trẻ vào “LQVT” về số lượng như “Các con quan sát xem sân trường có mấy cây phượng? cây bàng có mấy cây? Cây nào có số lượng nhiều hơn? Nhiều hơn mấy cây ?”. Với những câu hỏi như trên giúp trẻ ôn luyện được cách so sánh về số lượng. Ngoài ra tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi liên quan đến chia nhóm. Ví dụ: Cho trẻ chơi những trò chơi cần phân chia theo đội, theo nhóm. Tôi thường cho trẻ tự chia và đếm số bạn trong từng đội hay từng nhóm (Tôi quan sát và giúp đỡ trẻ khi trẻ chưa biết chia). Kết quả: sau 2 – 3 lần tổ chức trò chơi trẻ lớp tôi đã chia nhóm rất tốt. Hoạt động chiều: Tôi thường dành riêng ít nhất một hoạt động chiều trong một tuần để rèn kỹ năng đã học hoặc cho trẻ làm quen với kiến thức mới để giúp trẻ khi tham gia hoạt động học không bị bỡ ngỡ tạo cho trẻ tiếp thu bài tốt ngay trong tiết học. Với cách hình thức ôn luyện nồng ghép các hoạt động cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi thấy trẻ rất tự tin vào các hoạt động trong ngày. Đặc biệt trẻ khắc sâu, ghi nhớ những nội dung “LQVT” về số lượng. 4.6. Biện pháp 6: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh dạy trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình Việc tuyên truyền và phối hợp cho trẻ “LQVT” về số lượng tới các bậc phụ huynh học sinh là rất quan trọng. Bởi vì thời gian trẻ gần gũi với các phụ huynh không phải là ít, tôi nghĩ trẻ chỉ học ở trường thôi chưa đủ, chỉ một cô giáo dạy học thôi lại càng không đủ. Mà cần có sự phối kết hợp chặt chẽ việc giáo dục trẻ giữa gia đình và nhà trường. Hiểu được vấn đề trên tôi đã làm như sau: Qua những giờ đón, trả trẻ tôi thường xuyên trao đổi về tình hình học tập của trẻ về “LQVT” về số lượng. Và tuyên truyền phụ huynh hiểu rõ hơn về tầm - 13 - quan trọng của môn toán đối với trẻ 5 tuổi và qua đó giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về trẻ đến trường học những gì ? học bằng gì ? Học như thế nào ? Tôi trao đổi với phụ huynh kết quả học tập của trẻ khi “LQVT” về số lượng. Từ đó tôi hướng cho phụ huynh kết hợp cùng tôi cho trẻ “LQVT” tại gia đình. Ví dụ: Trẻ chưa nhận được chữ số. Tôi trao đổi với phụ huynh giúp trẻ mua sắm tranh ảnh có chữ số, số lượng treo góc học tập của trẻ và thời gian gần gũi trẻ cho trẻ đếm và nhận chữ số tương ứng, cho trẻ nhắc lại cấu tạo của chữ số tại gia đình. Ví dụ: Trẻ chưa biết thêm bớt trong phạm vi 10 tôi trao đổi trực tiếp với phụ huynh trẻ đó về cách dạy trẻ tại gia đình. Bằng cách khi chơi với trẻ “Cho trẻ chơi đồ chơi phụ huynh sẽ cho trẻ thêm bớt hướng dẫn cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi”. Và thường xuyên chơi với trẻ về con số, nhóm đồ vật, thêm bớt, chia nhóm đồ vật để trẻ ghi nhớ tốt hơn. Với cách tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi thấy trẻ có kết quả rất tốt. 5. Kết quả đạt được Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện tại lớp của tôi đã thu được kết quả sau: 5.1.Cơ sở vật chất - Đồ dùng, đồ chơi đầy đủ, có thẩm mỹ cao. - Tôi đã làm đồ dùng đồ chơi, trang trí góc phù hợp. 5.2. Đối với bản thân Nắm vững được nội dung cần truyền đạt cho trẻ, các tiết cho trẻ “LQVT” về số lượng nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo hơn. 5. 3 Đối với trẻ. Trẻ hứng thú, say mê, vui vẻ khi “LQVT” về số lượng như tất cả các môn học khác, tôi thấy trẻ linh hoạt hơn, tự tin hơn ở mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt hơn trẻ nắm được kiến thức, kỹ năng mà mục đích đưa ra cho trẻ. - 14 - *Kết quả đạt được như sau: Thời Số trẻ điểm T2/2015 Đánh giá 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 20 10 5 trẻ 13 15 7 57 29 14 37 43 20 Tách, gộp Số trẻ % 16 14 5 46 40 14 5. 4. Đối với phụ huynh: Bằng những hình thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh hàng ngày, tôi thấy phụ huynh lớp tôi đã hiểu được tầm quan trọng của các môn học nói chung và môn “LQVT” về số lượng nói riêng. Đã thường xuyên ôn luyện cho trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình và đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ. * So sánh đối chứng Thời Số trẻ điểm Đánh giá T9/2014 35 T2/2015 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 8 13 10 4 20 10 5 trẻ 5 10 15 5 13 15 7 23 37 29 11 57 29 14 14 29 43 14 37 43 20 Tách, gộp Số trẻ % 5 8 17 5 16 14 5 14 23 49 14 46 40 14 Từ bảng so sánh đối chứng tôi nhận thấy kết quả đánh giá trên trẻ về 3 nội dung trên tôi thấy chất lượng “LQVT” về số lượng tăng lên rõ rệt so với kết quả đầu năm học. Khả năng đếm tỷ lệ tốt tăng: 34%, khá giảm: 8%, tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 15 % và đặc biệt không có trẻ chưa đạt. Khả năng thêm, bớt tỷ lệ tốt tăng: 23%, khá tăng:14% , tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 23 % và đặc biệt không có trẻ không đạt. - 15 - Khả năng tách, gộp số lượng tỷ lệ tốt tăng: 32%, khá tăng: 17% , tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 35 % và không có trẻ chưa đạt yêu cầu. Điều đó khẳng định những biện pháp của tôi áp dụng hoàn toàn hợp lí và đạt kết quả cao. Có được kết quả trên là sự cố gắng, lỗ lực không chỉ của bản thân tôi và các bé đặc biệt hơn nữa là sự góp sức của các bậc phụ huynh. * Sau khi nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Giáo viên phải có trình độ sư phạm, nắm chắc kiến thức sơ đẳng về toán học, phải tuân thủ đúng phương pháp giảng dạy từng loại tiết, có thủ thuật hướng dẫn gợi mở một cách sáng tạo luôn học hỏi kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp và thường xuyên nghiên cứu tài liệu, tập san, thông tin đại chúng để nắm bắt nhanh những sáng kiến hay vào giảng dạy và đặc biệt luôn lắng nghe ý kiến đóng góp của mọi người. - Giáo viên phải nắm bắt nhanh tình hình của lớp, hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ, từ đó có hình thức và biện pháp dạy phù hợp. Thường xuyên trao đổi, kết hợp với phụ huynh cùng đưa ra biện pháp dạy trẻ có khoa học. - Tạo điều kiện cho trẻ “LQVT” về số lượng ở mọi lúc, mọi nơi và thường xuyên nồng ghép các môn học, các hoạt động. - Giáo viên kết hợp với phụ huynh mua sắm làm đồ dùng, đồ chơi. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng Để sáng kiến của tôi được nhân rộng cho tất cả các giáo viên trong trường cũng như trường bạn với mong muốn nâng cao chất lượng “LQVT” về số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi cần các điều kiện sau: - Cơ sở vật chất phải có phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng, đồ chơi đủ, có nhiều chủng loại, màu sắc đẹp. - 16 - - Giáo viên phải đào tạo đúng chuyên ngành mầm non, phải đạt chuẩn trở lên, hiểu được tâm sinh lý trẻ. Thường xuyên trau dồi kiến thức, linh hoạt, sáng tạo trong tiết dạy. - Trẻ có sức khỏe tốt, phát triển bình thường, có nề nếp học tập, vui chơi. Trẻ thích đến lớp vui chơi, học tập cùng cô giáo và các bạn. Luôn hứng thú vào các hoạt động. - Đối với phụ huynh quan tâm đến việc học của trẻ, thường xuyên trao tình tình hình học tập của trẻ và kết hợp với cô giáo dạy con ở nhà. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Trên đây là một số biện pháp của tôi trong quá trình thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. - 17 - - Những biện pháp tôi đưa ra đã giúp cho tôi và giáo viên hiểu sâu về nội dung cho trẻ “LQVT” về số lượng. Từ đó có thêm những biện pháp như chuẩn bị đồ dùng, tổ chức hoạt động, dạy trẻ mọi lúc mọi nơi, kết hợp với phụ huynh. - Các biện pháp tôi đưa ra đã giúp trẻ nắm được bài rất tốt. Trẻ có kỹ năng đếm, so sánh, thêm bớt, gộp tách, chia nhóm rất tốt. Từ kết quả trên tôi thấy những biện pháp của tôi cần nhân rộng cho tất cả các đồng nghiệp trong trường và trường bạn với mong muốn nâng cao chất lượng “LQVT” về số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi. 2. Khuyến nghị Sau khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” tôi xin được mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị sau: + Đối với cấp trường: Tham mưu tốt với các cấp lãnh đạo tu sửa trường lớp rộng rãi để cho trẻ hoạt động, thường xuyên xây dựng những tiết học có chất lượng để cho giáo viên học tập. + Đối với cấp phòng, sở giáo dục: Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn về “LQVT” nói chung và “LQVT” về số lượng nói riêng. Cung cấp các tài liệu, tập san có nội dung về “LQVT” về số lượng để giáo viên học tập và nghiên cứu. Trên đây là một số biện pháp của bản thân tôi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục “LQVT” về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã rất cố gắng, song về mặt nội dung cũng như hình thức trình bày không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của hội đồng khoa học các cấp để đề tài của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục Mầm non 2. Phương pháp hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ Mầm non. TS. Đỗ Thị Minh Liên – Nhà xuất bản sư phạm 2003. 3. Chương trình giáo dục mầm non - 18 - DANH TỪ CÁC TỪ VIẾT TẮT - LQVT: Làm quen với toán MỤC LỤC STT 1 2 3 4 5 1 1.1 NỘI DUNG Thông tin chung về sáng kiến TÓM TẮT SÁNG KIẾN Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến Nội dung sáng kiến Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến MÔ TẢ SÁNG KIẾN Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu - 19 - TRANG 1 2 2 2 3 3 4 5 1.2 1.3 2 3 3.1 4 4. 1. 4.2 4.3 4.4 4.5 4.6 5 6 1 2 Mục đích nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Điều tra thực trạng Phương pháp điều tra Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Xác định nội dung truyền đạt cho trẻ Biện pháp2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán Biện pháp 4. Tổ chức hoạt động trong hoạt động học Biện pháp 5: Cho trẻ “LQVT” về số lượng ngoài tiết học, nồng ghép tích hợp vào các môn học Biện pháp 6: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh dạy trẻ “LQVT” tại gia đình Kết quả đạt được Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận Khuyến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 1 Phòng Giáo dục và đào tạo …………………………. Trường mầm non…………………………… PHIẾU KHẢO SÁT Khả năng đếm, thêm – bớt, tách gộp số lượng I. Thông tin chung: Tên trẻ:………………………………………………. Lớp:………………. Câu hỏi 1: Con hãy đếm số lượng đồ đùng, đồ chơi theo thứ tự a. Trẻ đếm theo thứ tự, thành thạo b. Trẻ đếm còn lung tung, chưa theo thứ tự c. Trẻ không đếm được Câu hỏi 2: Con hãy thêm, bớt đồ dùng, đồ chơi theo yêu cầu a. Trẻ thêm bớt tốt b. Trẻ còn lúng túng khi thêm bớt - 20 - 6 6 7 7 8 9 9 10 10 11 12 13 14 17 18 18 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng