Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy văn bản lớp 9 thcs...

Tài liệu Skkn hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy văn bản lớp 9 thcs

.DOC
21
217
78

Mô tả:

A - PHẦN MỞ ĐẦU 1- LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Mỗi môn học trong nhà trường đều cung cấp tri thức về một chuyên ngành cụ thể. Riêng Ngữ văn là môn nghệ thuật tổng hợp vốn sống, vốn văn hoá, chính trị của con người và xã hội nên nó có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng, phát triển năng lực, nhân cách cho người học. Vì vậy, thực chất của việc rèn văn trong học tác phẩm văn chương là rèn người, làm sao phát huy được tiềm năng sáng tạo của mỗi người qua bộ môn này. Nhận rõ tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường, Bộ GDĐT, các Sở, Ban ngành những năm gần đây đã không ngừng tìm tòi, cải tiến phương pháp giảng dạy, chỉnh lí chương trình sách giáo khoa…để từng bước nâng cao chất lượng bộ môn, làm thế nào để phát huy cao nhất tác dụng của việc học văn đối với trí tuệ và nhân cách học sinh. Luật Giáo dục đã ghi: “ Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Thực hiện Nghị quyết TW 4 khoá II về: “ Đổi mới phương pháp dạy học các cấp học, bậc học”, Phòng Giáo dục- Đào tạo huyện Lệ Thuỷ đã triển khai kịp thời việc đổi mới trong công tác dạy và học để giúp học sinh tích cực độc lập và chủ động sáng tạo chiếm lĩnh tri thức trong quá trình học tập được tốt hơn. Nhưng đổi mới phương pháp dạy học như thế nào để nâng cao hiệu quả dạy học nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng quả là một vấn đề không ít khó khăn. Năm học 2016-2017, Bộ GD&ĐT tiếp tục đưa giáo dục kĩ năng sống vào các môn học ở trường THCS và hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng ở các môn học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ, chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị Trang 1 kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Phương pháp dạy học cũ đều thoát li hoặc không dựa vào quy luật hoạt động bên trong của chủ thể học sinh, vào sự tự thân vận động của học sinh, không làm được công việc khơi dậy trí tuệ của chủ thể học sinh, để từ đó học sinh khám phá, tiếp nhận, phân tích, chiếm lĩnh tác phẩm một cách có ý thức, có sự sáng tạo. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh ít có hứng thú và say mê khám phá thế giới hình tượng văn học hoặc chỉ tiếp thu một cách thụ động, hiểu nhân vật, nắm bắt đầy đủ các chi tiết nghệ thuật nhưng chưa biết đồng cảm và say mê khám phá thế giới bên trong tác phẩm. Trước tình hình thực tế đó, là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tôi đã trăn trở, tìm tòi làm thế nào để chất lượng dạy và học bộ môn ngày càng một tăng lên, để các em phát huy tối đa năng lực của mình. Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài “Hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy Văn bản lớp 9 THCS” góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên, học sinh. 1.2- ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Điểm mới của đề tài này về phạm vi, mức độ của nó không phải chỉ để giúp các em nắm được kiến thức cơ bản của bộ môn hay tạo được sự hứng thú học tập cho các em, mà quan trọng hơn hết là thông qua đó người thầy bồi dưỡng lẽ sống, tâm hồn, khả năng vận dụng được kiến thức liên môn để giải quyết tình huống trong thực tiễn cuộc sống, giúp các em rèn luyện được những kĩ năng sống cơ bản cho mình như: tính tự tin mạnh dạn hòa nhập tốt cùng tập thể, kĩ năng lựa chọn giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy phán đoán...góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Tác phẩm văn chương dù nhỏ nhất là Trang 2 một câu tục ngữ, một bài ca dao, hay lớn hơn là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên. Mặt khác, qua đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra hệ thống các giải pháp cụ thể nhất để vận dụng một cách hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp trong bộ môn. Từ đây, giáo viên có thể nhận thức được rõ nét về các cách vận dụng, các mức độ, hình thức vận dụng phương pháp này trong từng bài học cụ thể. Mỗi đề tài hoặc chủ đề được trình bày thành nhiều bài học nhỏ để người học có thể có thời gian hiểu rõ và phát triển các mối liên hệ với những gì mà người học đã biết. Cách tiếp cận này tích hợp kiến thức từ nhiều ngành học và khuyến khích người học tìm hiểu sâu về các chủ đề, tìm đọc tài liệu từ nhiều nguồn và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau. Việc sử dụng nhiều nguồn thông tin khuyến khích người học tham gia vào việc chuẩn bị bài học, tài liệu, tư duy tích cực và sâu hơn so với cách học truyền thống với chỉ một nguồn tài liệu duy nhất. Kết quả là người học sẽ hiểu rõ hơn và cảm thấy tự tin hơn trong việc học của mình. Đây chính là điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm này. 1.3. PHẠM VI ÁP DỤNG: Ngữ văn là môn nghệ thuật tổng hợp vốn sống, vốn văn hoá, chính trị của con người và xã hội nên nó có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng, phát triển năng lực, nhân cách cho người học. Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn chính là giúp các em có thêm những hiểu biết về cuộc sống. Đồng thời, rèn văn trong học tác phẩm văn chương là rèn người “ văn học là nhân học” (M.Gor-ki). Vì thế sáng kiến này chỉ định hướng áp dụng cho một số bài có yêu cầu tái hiện hình tượng trong dạy học môn Ngữ văn lớp 9 và đối tượng học sinh lớp 9 trong khoảng thời gian từ tháng 8/2016 đến 5/3017. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: Thứ nhất, đối với Giáo viên: Trang 3 Dạy học môn Ngữ văn nói chung, phần văn bản nói riêng đã từ lâu chúng ta quen với giảng dạy từng phân môn tách rời, còn chưa giảng dạy các phân môn đó như một thể thống nhất, trong đó mỗi phân môn vừa giữ bản sắc riêng vừa hoà nhập với nhau để hình thành nên kiến thức, kĩ năng Ngữ văn thống nhất theo hướng tích hợp ở học sinh. Việc nắm bắt tâm lý, nhu cầu tình cảm của học sinh là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết các vấn đề giáo dục song một số ít giáo viên chưa thực sự nắm bắt tâm lý, nhu cầu tình cảm của học sinh nên chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. Trong quá trình dạy học sách giáo khoa mới, giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, do ảnh hưởng của phương pháp dạy học cổ truyền nên trong tiết dạy học giáo viên rất ít giao việc cho học sinh hoặc tổ chức hoạt động không đạt hiệu quả . Thứ hai, đối với học sinh: Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong nhà trường như sau: “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm”. Chương trình, sách giáo khoa mới, phương pháp đổi mới trong dạy và học đòi hỏi học sinh phải tích cực khám phá, tìm tòi và chủ động tiếp nhận; học sinh khá giỏi ham thích theo kịp vấn đề dưới sự chỉ đạo của giáo viên chưa nhiều; một số em còn tự ti, thụ động, lười suy nghĩ, thiếu mạnh dạn tham gia ý kiến của mình vào bài học. Ngày nay, công nghệ ngày càng phát triển, trong suy nghĩ của học sinh đã phần nào xem nhẹ các môn khoa học xã hội.. Động cơ học tập của một bộ phận học sinh chưa đúng đắn, lười trong việc mở rộng tìm hiểu kiến thức liên quan đến nội dung bài học. Có học sinh chỉ ghi nhớ bài học một cách rời rạc, máy móc, không nắm được mối quan hệ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn hoặc khi kiểm tra đánh giá thường chỉ tự xếp mình vào mức đạt tối thiểu. 2.2. NGUYÊN NHÂN. Trang 4 Dạy học theo hướng tích cực là phải làm cho học sinh tự giác, chủ động, sáng tạo, phù hợp của từng lớp học, môn học. Dạy theo hướng tích cực là phải bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú cho học sinh học tập. Từ thực tiễn giảng dạy bản thân tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy, đã luôn chú ý đến việc tổ chức học sinh có hứng thú và say mê khám phá thế giới hình tượng văn học. Thực tế giảng dạy cho thấy rằng: những năm đầu thay sách và hiện nay còn có một ít bộ phận giáo viên do ảnh hưởng của phương pháp dạy học cũ là truyền thụ kiến thức có sẵn, nên giờ dạy còn chủ yếu là thầy giảng bài, học sinh chú ý lắng nghe, ghi và trả lời một số câu hỏi mà ít chú ý đến tổ chức hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy văn học. Nếu có tổ chức thì chiếu lệ, lúng túng và hiệu quả mang lại không cao. Lí do là ngại nêu ra các tình huống có vấn đề, phần nữa sợ mất thời gian sẽ cháy giáo án. Năm học 2016-2017, tôi được Nhà trường phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9. Tôi đã khảo sát thực tế bằng cách ra đề kiểm tra 15 phút với câu hỏi như sau: : “ Tưởng tượng mình là Trương Sinh, em hãy kể lại câu chuyện người con gái Nam Xương” ( Lớp 9). Khi chưa chú trọng triển khai hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy Văn bản cho học sinh, tôi có kết quả khảo sát của lớp 93, 94 là: Trung bình Yếu Số Số % % % % lượng lượng lượng lượng lượng 3 9 /36 02 5.6 6 16.7 14 38.9 14 38.9 4 9 /35 02 5.7 07 20.0 15 42.9 13 37.1 Tỉ lệ học sinh khá- giỏi thấp, nguyên nhân là chưa nắm bắt được hình tượng Lớp/ số Giỏi Số Khá Số nhân vật trong tác phẩm văn học. Qua nghiên cứu và giảng dạy trên lớp, qua thực tế của việc dạy học, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm về tổ chức hoạt động tái hiện hình tượng cho học sinh trong Văn bản lớp 9 THCS. 2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: Trang 5 2.3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản: Bước đầu tiên để tiếp xúc với văn bản là nắm được sơ lược nội dung của văn bản. Việc đọc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, như nhận xét của J.Paul Satre: “ Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục…”. Khi đọc bất kì một văn bản nào, bao giờ chúng ta cũng cần mục đích cụ thể và có cách đọc khác nhau cho mục đích khác nhau. Đối với đọc một tác phẩm văn học để hiểu, phân tích không đơn giản là đọc chi tiết hay lướt qua. Vì đọc như vậy chỉ mới nắm bắt được lớp vỏ âm thanh bên ngoài. Điều đó sẽ rất khó khăn cho việc khám phá chiếm lĩnh tác phẩm. Vậy phải đọc như thế nào để tái hiện được hình tượng nhân vật trong tác phẩm? Có thể có những cách như sau: a.. Đọc diễn cảm văn bản: Là việc đọc đúng từ ngữ, câu chữ, giọng điệu và tình cảm mà tác giả gửi gắm. Từ đó chúng ta hiểu được tâm tư, tình cảm của nhân vật trong tác phẩm. Ví dụ: Học bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt ( SGK Ngữ văn 9- tập1). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh giọng đọc tình cảm, chậm rãi và lắng đọng, xúc động và bồi hồi. Cho học sinh cảm nhận được bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi ấu thơ sống với bà tám năm ròng thời kì kháng chiến chống Pháp, làm hiện lên hình tượng người bà chăm sóc, lo toan, vất vả với tình thương yêu vô bờ dành cho cháu. Đứa cháu nay đã lớn khôn, trưởng thành, từ nơi xa xôi, suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị và cao quý của bà. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình cảm bà cháu, là nỗi Trang 6 nhớ, lòng kính yêu và biết ơn vô hạn của hình tượng nhân vật trữ tình là người cháu đối với bà, cũng là đối với gia đình và quê hương, đất nước. b. Đọc thầm văn bản: Hướng dẫn học sinh đọc thầm những văn bản trữ tình sẽ giúp học sinh có điều kiện hiểu được hình tượng nhân vật một cách sâu sắc hơn. Bởi vì đôi lúc tình cảm khó có thể bộc lộ thành lời thì im lặng chính là cách tốt nhất để người đọc tâm sự với hình tượng nhân vật - chủ thể trữ tình. Chẳng hạn học đoạn trích: “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du ( SGK Ngữ văn 9- tập 1). Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm và suy ngẫm trả lời câu hỏi: “ Có thể xem đây là đoạn thơ tả cảnh hay tả tình? Hay đoạn thơ vừa tả cảnh vừa tả tình?”. Như vậy, học sinh đọc thầm xong và có thể trả lời: “Đoạn thơ vừa tả cảnh vừa tả tình. Cảnh vật thiên nhiên được nhìn, tả qua con mắt, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng cô đơn, buồn nhớ, rất đỗi bơ vơ,…của hình tượng nhân vật Thuý Kiều”... c. Đọc to văn bản: Nếu như đọc thầm để tìm sự đồng cảm, để thấu hiểu ân tình thì đọc to cũng là một cách biểu hiện tình cảm, để hiểu hình tượng nhân vật, để thâm nhập vào tác phẩm. Ví dụ như học văn bản: “ Hoàng Lê nhất thống chí” ( Hồi thứ 14) của Ngô gia văn phái (SGK Ngữ văn 9- tập 1), cần hướng dẫn học sinh đọc to, giọng khẩn trương, phấn chấn để học sinh thấy được bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ, vị vua văn võ song toàn đã chỉ huy tài tình cuộc hành binh thần tốc tiêu diệt bọn xâm lược Mãn Thanh, làm thất bại âm mưu xâm lược của chúng và cho thấy rõ tình cảnh thất bại ê chề, khốn đốn nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống; đồng thời giáo dục cho các em lòng căm thù giặc. Và khi lòng căm giận kẻ thù cao độ cũng chính là lúc các em cảm thấy yêu quê hương mình hơn, trân trọng những gì mình đang có hơn và quyết tâm phấn đấu để góp một phần sức nhỏ của mình trong công cuộc chung của đất nước. d. Đọc phân vai: Trang 7 Đây cũng là một cách đọc có tác dụng rất lớn trong việc dẫn dắt học sinh cảm nhận được hình tượng nhân vật. Cách đọc này làm cho các em như hoà mình vào nhân vật, xem mình là nhân vật nào thì sẽ khóc cười cùng nhân vật ấy. Ví dụ: Tìm hiểu văn bản: “ Những đứa trẻ”( trích “ Thời thơ ấu”) của M.Gor-ki ( SGK Ngữ văn 9- tập 1), mỗi học sinh sẽ được phân vai một nhân vật. Các em sẽ ngoan ngoãn có vẻ buồn rầu như ba anh em con của đại tá Ốp-xi-an-nicốp; sẽ thân thiện, có thái độ cảm thông đối với những đứa trẻ của A-li-ô-sa; sẽ giận dữ, quát mắng của nhân vật đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp. 2.3.2. Biện pháp 2: Phân tích hình thành hình tượng nhân vật: Phẩm chất, tính cách của nhân vật không hẳn thông qua những lời giới thiệu cụ thể của tác giả hay qua những biện pháp nghệ thuật ước lệ mà có khi thông qua hành động, lời nói của nhân vật. Cho nên cần hướng dẫn học sinh phân tích để hình thành nên hình tượng nhân vật. Ví dụ: Học văn bản: “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (trích “Truyện Lục Vân Tiên”) của Nguyễn Đình Chiểu, cần hướng dẫn học sinh phân tích thông qua hành động, lời nói của nhân vật bởi phẩm chất, tính cách của nhân vật trong văn bản này chủ yếu bộc lộ qua hành động, lời nói. Đó là nhân vật Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; là nhân vật Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình. 2.3.3. Biện pháp 3: Sáng tạo lời nói và ý nghĩ nhân vật thay cho tác giả: Đây là một hoạt động tương đối khó nhưng giúp các em hiểu được tâm trạng của nhân vật. Chính là các em đã phần nào đi vào thế giới bên trong của tác phẩm. Chẳng hạn học xong văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ( SGK Ngữ văn 9- tập 1), yêu cầu học sinh bằng tưởng tượng của mình, hãy viết đoạn văn sau khi Vũ Nương biến mất, chàng Trương và bé Đản sẽ ra sao? Như vậy, học sinh sẽ nói lên được chàng Trương là anh chồng đa nghi, độc Trang 8 đoán, cố chấp, gia trưởng. Chàng không biết trân trọng người vợ có tư dung tốt đẹp, đức hạnh, nết na, hiếu thảo, thuỷ chung. Chính chàng cùng với xã hội phong kiến, chế độ nam quyền đã giết chết hạnh phúc của mình, để bây giờ cuộc sống của cha con chàng bơ vơ, buồn tủi; chàng sống trong sự ân hận, giày vò khôn nguôi... Hoặc học xong đoạn trích: “Mã Giám Sinh mua Kiều” trích “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du ( SGK Ngữ văn 9- tập 1), yêu cầu học sinh thay lời Mã Giám Sinh, hoặc Thuý Kiều, hoặc bà mối kể lại câu chuyện Mã Giám Sinh mua Kiều. Như vậy, học sinh nói lên được bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh; lòng cảm thương cho nhân vật Thuý Kiều, chỉ vì nàng Kiều cũng là nạn nhân của xã hội phong kiến, đã phải hi sinh bản thân mình vì gia đình. Từ đó, học sinh sẽ hiểu sâu hơn giá trị tố cáo của đoạn trích và khơi gợi được ở các em sự thương cảm những hoàn cảnh bất hạnh. 2.3.4. Biện pháp 4: Minh hoạ bằng những tác phẩm nghệ thuật khác: Để tái hiện hình tượng nhân vật, ngoài những biện pháp, phương pháp trên, cũng có thể minh hoạ bằng những tác phẩm nghệ thuật khác. Biện pháp này cũng kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên cái quan trọng nhất là học sinh hiểu tác phẩm, lúc đó mới trình bày lại nội dung tác phẩm, hình tượng nhân vật qua tranh vẽ, tượng tạc hình, …Qua đó giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn nhân vật, tác phẩm. Ví dụ: Học đoạn trích thơ: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ( SGK Ngữ văn 9- tập 1), có thể yêu cầu học sinh theo ý tưởng của mình vẽ một bức tranh trước lầu Ngưng Bích. Thông qua bức tranh đó, hiểu được thiên nhiên, biển trời trước lầu Ngưng Bích thật mênh mông bát ngát và qua đó hiểu được tâm trạng buồn, cô đơn của nàng Kiều,… Hoặc học xong văn bản: “Mây và sóng” của R.Ta-go( SGK Ngữ văn 9- tập 2), giáo viên Trang 9 có thể yêu cầu học sinh vẽ bức tranh để biểu đạt nội dung tác phẩm. Tuỳ trí tưởng tượng của từng học sinh, nhưng bức tranh đó phải có các hình tượng trung tâm của văn bản (mây, sóng, em bé và có thể có cả người mẹ). Qua bức tranh đó, thấy được bé cũng rất muốn đi chơi trước lời mời gọi, rủ rê của mây và sóng. Nhưng cuối cùng bé đã từ chối vì mẹ luôn đợi bé ở nhà và bé đã nghĩ ra trò chơi cùng với mẹ - “ mẹ con ta” ở khắp mọi nơi, không ai có thể tách rời, phân biệt và chia cắt được “ mẹ con ta”; thấy được tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. 2.3.5. Biện pháp 5: Trực quan hoá nội dung tác phẩm bằng những tác phẩm nghệ thuật khác: Đây cũng là một phương pháp thay đổi không khí giờ học, giúp học sinh bớt căng thẳng bằng cách học sinh vừa học, vừa thư giãn như xem phim, nghe băng đĩa,…Từ đó giúp học sinh cảm nhận sâu sắc hơn về hình tượng nhân vật, nắm chắc hơn giá trị nội dung tác phẩm. Chẳng hạn học bài thơ: “ Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải hoặc “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, có thể cho học sinh nghe bài hát. Từ đó giúp các em phần nào tái hiện hình tượng nhân vật, giá trị nội dung tác phẩm. Đó là cảm xúc say sưa, rạo rực của Thanh Hải trước mùa xuân thiên nhiên đất trời, mùa xuân đất nước. Đó là tấm lòng chân thành, cảm động của nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam ra Ba Đình- Hà Nội viếng Bác, viếng lăng Bác. Như vậy, xem xét hình tượng văn học thực chất là khám phá vẻ đẹp hài hòa mang bản chất thẩm mĩ của hình tượng. Vẻ đẹp ấy luôn chứa đựng quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người, quan điểm xã hội và quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Vì vậy, qua cấu trúc của các hình tượng văn học khác nhau, người đọc nhận ra những vấn đề của cuộc sống con người, quy luật của sáng tạo văn học cùng những vấn đề thuộc phong cách sáng tạo của từng thời đại, từng nhà văn cụ thể… Bản chất cốt lõi của cái đẹp là sự hài hòa, cân xứng. Tuy nhiên, quan niệm và biểu hiện cái hài hòa, cân xứng ấy trong các thời đại văn học cũng như ở từng tác giả cụ thể thường không giống nhau. Mỗi nhà văn thường tô đẹp thêm bức tranh hình tượng của mình bằng những đường nét, màu sắc mang đậm Trang 10 cái nhìn thẩm mĩ của riêng mình. Chính điều đó đã tạo nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng và sức hấp dẫn muôn đời của văn học. Giáo án minh hoạ: Tiết 112. bài 23. Văn bản: MÙA XUÂN NHO NHỎ (T1). ( Thanh Hải ) A.Mức độ cần đạt * Giúp HS: Cảm nhận được cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ của nhà thơ muốn được dâng hiến cho cuộc đời. Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa, giá trị của cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung. B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng. 1.Kiến thức. - Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân đất nước. - Lẽ sống cao đẹp của một con người chân chính. 2.Kĩ năng. - Đọc hiểu một văn bản thơ trữ tình hiện đại. - Trình bày những suy nghĩ, cảm nhận về một hình ảnh thơ, một khổ thơ, một văn bản thơ. C. Chuẩn bị. 1. GV: Soạn bài; Nghiên cứu tài liệu tham khảo; Sưu tầm bài hát: “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhạc sĩ Trần Hoàn phổ thơ Thanh Hải; Một số tranh ảnh có liên quan. 2. HS: Học bài cũ, soạn bài mới. D. Các bước lên lớp. 1. ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ: * Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật văn bản: “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông Ten”. 3. Bài mới * Giới thiệu bài. * Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy- học. Trang 11 Hoạt động của thầy và của trò HĐ 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu chú thích Gọi HS đọc CT*. HS T.bình đọc. H: Hãy giới thiệu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Thanh Hải? HS giới thiệu về tác giả HS nhận xét. H: Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm? HS giới thiệu về tác phẩm GV: Bài thơ thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước, thể hiện ước nguyện của tác giả. GVh/d HS cách đọc: Giọng say sưa, trìu mến ( phần đầu); nhanh( phần giữa); thiết tha, trầm lắng ( phần cuối). - Gv gọi HS đọc văn bản ( các đối tượng HS đọc). - GV nhận xét, bổ sung. Sau đó cho HS nghe bài hát: “Mùa xuân nho nhỏ” của nhạc sĩ Trần Hoàn. HĐ 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản. H: Phương thức biểu đạt của văn bản? HS suy nghĩ, trả lời. (HS khá). HS phát hiện: Phương thức biểu cảm. H: Từ PT biểu cảm đó, hãy cho biết Nội dung cần đạt I. Vài nét về tác giả và tác phẩm. 1. Tác giả: Thanh Hải (1930- 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn. - Quê: Thừa Thiên - Huế - Là cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. 2. Tác phẩm - Viết vào tháng 11/ 1980 khi tác giả nằm trên giường bệnh. II. Phân tích văn bản: Trang 12 mạch cảm xúc của bài thơ là gì? GV: Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, mùa xuân của đất nước, nhà thơ thể hiện ước nguyện được làm mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn. H: Vậy từ mạch cảm xúc hãy nêu bố cục của bài thơ? HS phân chia các phần Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên Khổ 2,3: Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước. Khổ 4,5,6: ước nguyện của tác giả. H: Để diễn tả cảnh sắc mùa xuân, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?Giọng điệu bài thơ? H: Bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ qua những hình ảnh nào ? HS phát hiện, Phân tích: + NT đảo ngữ “ mọc giữa...”: sức sống mãnh liệt của mùa xuân. + Tính từ, động từ.. +Giọng điệu phấn chấn, lạc quan. GV: NT đảo ngữ “Mọc” với một số động từ, tính từ thể hiện sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Bình:Với phép đảo ngữ làm cho sự vật, hình ảnh trở nên sống động. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, xoè nở trên mặt nước sông xanh. Tiếng chim hót ríu ran trong bầu trời xuân càng làm 1.Bố cục: Gồm ba phần. 2. Phân tích: 2.1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên và đất nước: a. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên: - Hình ảnh: dòng sông, bông hoa, chim chiền chiện. Màu sắc: xanh(sông), tím biếc(hoa). Âm thanh: tiếng chim hót vang trời. - Không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh tươi vui. Trang 13 cho không khí vui tươi, rộn ràng đất trời xứ Huế. Nhà thơ Tố Hữu cũng từngthốt lên: “Ôi, tiếng hót mê say con chim chiền chiện. Trên đồng lúa chiêm xuân, chao mình bay liệng” Như vậy, chỉ vài nét phác hoạ, tác giả đã vẽ ra một không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh tươi vui mùa xuân tươi đẹp rất Huế. HS lắng nghe. H: Cảm xúc của tác giả trước cảnh đất trời vào xuân được diễn tả ở những hình ảnh cụ thể nào? “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”. H: Em hiểu ntn về hình ảnh “giọt long lanh rơi”? HS ohát hiện. Có hai cách hiểu: + cách 1: giọt mưa xuân... + cách 2: giọt âm thanh tiếng chim ( sự chuyển đổi cảm giác: từ âm thanh( thính giác)- giọt ( thị giác)hứng ( xúc giác). GV: Có sự chuyển đổi cảm giác: Tiếng chim từ âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (thị giác) và có thể đưa tay hứng (cảm nhận cả bằng xúc giác). Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. H: Qua đây em hiểu gì về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên? GV: Dù hiểu theo cách nào thì hai - “Giọt long lanh”: giọt mưa xuân, giọt tiếng chim. Có sự chuyển đổi cảm giác. * Nhà thơ say sưa, ngây ngất trước cảnh đất trời vào xuân. Trang 14 câu thơ vẫn biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời lúc vào xuân. - Gọi hs đọc khổ 2 và 3. Mở một đoạn nhạc cho hs cảm nhận GV: Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời nhà thơ chuyển sang cảm nhận mùa xuân của đất nước. H: Mùa xuân của đất nước được tác giả khắc hoạ qua hình ảnh thơ nào? HS suy nghĩ, trả lời. Hình ảnh “ người cầm súng”, “ người ra đồng” H: Em hiểu như thế nào về hai hình ảnh“ người cầm súng” và “ người ra đồng”? GV treo tranh và bình. GV: Đây là bức tranh về người cầm súng và người ra đồng. Bức tranh giúp ta hiểu thêm về hình tượng thơ. Đó là hình ảnh người cầm súng hành quân trên đường xuân, h/ảnh người ra đồng nhổ mạ cấy lúa cấy lúa gợi nhớ hoàn cảnh đất nước ta những năm 80 với hai nhiệm vụ cơ bản( sẵn sàng chiến đấu bảo vệ và xây dựng đất nước), gợi nhớ đến không khí khẩn trương, hào hùng của đất nước nhân dân VN những năm đánh Mĩ. H: Hình ảnh “lộc” trong hai câu thơ “Lộc giắt đầy trên lưng”, “Lộc trải dài nương mạ” gợi cho em suy nghĩ gì? HS thảo luận, trình bày: b. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước: - Hình ảnh “ người cầm súng”,“ người ra đồng”: biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ và xây dựng đất nước. - Điệp từ “lộc”: tượng trưng cho vẻ đẹp Trang 15 + Lộc: chồi non( mùa xuân); + Lộc: Thành quả cách mạng ( mùa xuân…) GV: “Lộc” là chồi non, cây non,...ở đây h/a lộc non lại gắn liền với người cầm súng, người ra đồng. Mùa xuân của đất trời đọng lại trong h/ ảnh lộc non, đã theo con người VN. Chính họ đã góp phần đem lại mùa xuân bình yên đến mọi nơi trên đất nước. H: Sức sống của mùa xuân đất nước còn thể hiện qua những hình ảnh thơ nào? HS phát hiện “Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao ... Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”. H: Để thể hiện sức sống đó, tác giả đã sử dụng BPNT nào?Tác dụng? GV: Đất nước như mẹ hiền tảo tần sớm chiều; đất nước như vì sao, sao là vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ... H: Qua đó em có nhận xét gì về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước? HS: Niềm tự hào, tin tưởng vào sức “ Bật dậy” của đất nước. GV dẫn: Trước mùa xuânthiên nhiên đất nước như thế, nhà thơ có những suy nghĩ, ước nguyện ntn?Tiết hai các em sẽ học tiếp. E. Củng cố, dặn dò: mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. - BPNT: Điệp ngữ: mùa xuân, lộc, tất cả; từ láy:hối hả, xôn xao; nhân hóa: vất vả và gian lao; so sánh “như vì sao”; giọng thơ phấn chấn. Thể hiện sức sống và khí thế của đất nước khi vào xuân. *Nhà thơ say sưa, rạo rực, tự hào trước khí thế mùa xuân đất nước. Trang 16 - Nắm, hiểu được cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời, mùa xuân của đất nước. - Học thuộc lòng bài thơ. - Bài tập: Bằng tưởng tượng của mình, hãy vẽ một bức tranh mùa xuân thiên nhiên đất trời xứ Huế. - Soạn bài: “Mùa xuân nho nhỏ” (Tiết 2: Ước nguyện của nhà thơ) và bài thơ: “Con cò” (Hướng dẫn đọc thêm). 2.4. KẾT QUẢ: Qua hai năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên, tôi nhận thấy chất lượng dạy và học môn Ngữ văn được nâng cao rõ rệt. Ai đó đã từng nói “ Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Những giờ giảng văn sinh động hơn, phát huy được khả năng tiếp thu cái hay, cái đẹp của văn chương. Đối với học sinh, các em đã bước đầu ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết bộc lộ cảm xúc của mình đúng nơi, đúng lúc, đúng cách. Học sinh có hứng thú khi được sống cùng tác phẩm, được thay lời nói lên tiếng nói của nhân vật, đã đi vào thế giới bên trongcủa tác phẩm để khóc, cười cùng nhân vật. Kết thúc năm học 2016-2017, với đề kiểm tra của Sở Giáo dục Quảng Bình, các lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã đạt kết quả đáng mừng như sau: Lớp/ lượng 3 9 /36 94/35 số Giỏi Số % lượng 11 30.6 13 37.1 Khá Số % lượng 13 36.1 12 34.3 Trung bình Số % lượng 08 22.2 08 22.9 Yếu Số % lượng 04 02 11.1 5.7 Từ kết quả trên, so sánh kết quả khảo sát thực tế với đề như đã nêu ở trên đầu năm học 2016-2017, tỉ lệ học sinh khá- giỏi có bước chuyển biến đáng kể. Trong nhiều yếu tố tạo nên kết quả đó, không thể không kể đến việc vận dụng hoạt động tái hiện hình tượng đã phát huy được hiệu quả và có tác dụng tích cực Trang 17 trong việc nâng cao chất lượng dạy và học phần Văn bản nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung. 3. PHẦN KẾT LUẬN. 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm. Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn, như M.Gor-ki nói: “ Văn học là nhân học”. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm xúc nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hoà cùng nhịp đập trái tim. Việc dạy học theo chủ đề tích hợp trong bộ môn Ngữ văn cho học sinh là phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, góp phần giúp học sinh học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Quan điểm tích hợp và phương pháp dạy học theo hướng tích hợp đã được giáo viên tiếp nhận. Phần lớn GV lựa chọn mức độ tích hợp liên môn hoặc tích hợp trong cùng môn. Các bài dạy theo hướng tích hợp sẽ làm cho nhà trường gắn liền với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của cộng đồng. Học theo hướng tích hợp sẽ giúp cho các em quan tâm hơn đến con người và xã hội ở xung quanh mình, việc học gắn liền với cuộc sống đời thường là yếu tố để các em học tập. Quan điểm “ lấy học sinh làm trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh thì các em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vậy đào tạo mới có kết quả. Qua việc thực hiện hoạt động tái hiện hình tượng trong giảng dạy phần Văn bản lớp 9 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau: - Phải điều tra, phân loại đúng đối tượng học sinh ngay từ đầu năm để biết được những học sinh nào yếu kém nhằm bồi dưỡng rèn luyện thêm kĩ năng thâm nhập tác phẩm, nắm bắt được hình tượng nhân vật. Trang 18 - Tạo không khí học tập tích cực, để cho học sinh luôn hào hứng và muốn biết được sự tiến bộ của mình. - Trong dạy học, giáo viên phải chủ động, linh hoạt, căn cứ vào thực tế của học sinh để có cách tổ chức khoa học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Việc chuẩn bị của giáo viên phải cụ thể, tỉ mỉ, rõ ràng, khoa học. Trong quá trình hướng dẫn, tổ chức học sinh hoạt động học tập cần động viên, khuyến khích các đối tượng hoạt động, đặc biệt chú ý đến học sinh yếu kém, nhất là phải linh hoạt trong khâu tổ chức sư phạm lớp học. 3.2. Kiến nghị, đề xuất. Để thực hiện tốt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp đổi mới, quan trọng hơn cả là lấy yêu cầu bài học làm mục đích thiết kế hệ thống câu hỏi với những kiến thức cần đạt được thể hiện quan điểm thực hành tích hợp của chương trình Ngữ văn 9. Dạy học theo hoạt động tái hiện hình tượng trong Ngữ văn 9 có một sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức ở bậc Tiểu học. Từ thực tế giảng dạy tôi thấy việc tiếp thu kiến thức là khả năng thực hành của học sinh khi học THCS còn nhiều hạn chế nên khi đưa những câu hỏi tái hiện hình tượng còn có một số học sinh thực hiện chưa tốt, có sự bỡ ngỡ hoặc không thực hiện được. Do vậy chúng tôi đề nghị sự chỉ đạo đồng bộ trong việc thực hiện giảng dạy theo hướng đổi mới tái hiện hình tượng trong hoạt động dạy học Ngữ văn. Các bài soạn để dạy học theo hướng hoạt động tái hiện hình tượng giúp cho giáo viên tiếp cận tốt nhất với chương trình và sách giáo khoa mới. Bài dạy linh hoạt, học sinh học được nhiều, được chủ động chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Muốn tiến hành có hiệu quả, cần phải chú trọng đến việc bồi dưỡng giáo viên. Giáo viên phải hiểu được thế nào là hình tượng, phải nghiên cứu chương trình, tài liệu xem nó dựa trên môn khoa học xác định nào, có thể mở rộng quan hệ tương tác với các khoa học khác như thế nào, mức độ tái hiện hình tượng thể hiện ra sao?... Trang 19 Trên đây là một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tái hiện hình tượng. Là một giáo viên, tôi luôn mong ước mang đến cho học sinh những giờ học thật sự hấp dẫn, tạo mọi điều kiện cho các em tự khẳng định mình, lĩnh hội kiến thức, học tập tốt, nâng cao chất lượng và hiệu quả của tiết học. Bằng những kinh nghiệm có được qua những giờ lên lớp, trao đổi với các đồng nghiệp, hội thảo chuyên đề, dù đã rất cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi xin trình bày như trên với mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi chân thành của các đồng nghiệp và những người làm công tác chuyên môn ở các cấp quản lí quan tâm để sáng kiến của tôi đưa ra được hoàn thiện hơn và có thể áp dụng rộng rãi hơn, giúp tôi hoàn thành công tác chuyên môn, công việc trồng người, đạt kết tốt hơn trong quá trình giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn! Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng