SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
THÔNG QUA TIẾT SINH HOẠT LỚP CHỦ NHIỆM
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác Chủ nhiệm
THANH HÓA NĂM 2013
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu ....................................................................................................1
I.1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
I.2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2
I.3. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................3
II. Phần nội dung ................................................................................................3
II.1. Cơ sở lý luận..........................................................................................3,4
II.2.Thực trạng..................................................................................................4
a) Thuận lợi- khó khăn............................................................................4,5
b) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đạo đức học sinh.............5,6
c) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra……6,7
II.3. Kinh nghiệm giáo dục đạo đức học sinh
thông qua tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm..................................................................8
a) Mục tiêu .......................................………………………………….....8
b) Điểm mới trong đề tài…………………………….…………………8
c) Nội dung và cách thức tiến hành tiết sinh hoạt lớp .....……….8,9,10,11
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm và
giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu………………………….12,13,14
III.Kết luận, kiến nghị ......................................................................................14
III.1.Kết luận……………………………………………………………….14
III.2.Kiến nghị……………………………………………………………...14
Phụ lục 1. Mẫu biên bản xếp loại thành viên trong tổ……………………...15
Phụ lục 2. Mẫu biên bản sinh hoạt lớp……………………………....15,16,17
Tài liệu tham khảo.…………………………………………………………18
I. Phần mở đầu
I.1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Người có tài mà không có đức là
người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nhân
dân ta có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” Các câu nói trên khẳng định vai trò
cực kỳ quan trọng của phẩm chất đạo đức của con người trong sự nhìn nhận,
đánh giá sự tồn tại và phát triển của mỗi người nói riêng và xã hội nói chung.
Giáo dục hạnh kiểm được đặt ra hàng đầu, vì thế bất kỳ cơ sở giáo dục nào cũng
quan tâm đúng mức về giáo dục hạnh kiểm cho học sinh.
Là một giáo viên tham gia giảng dạy tại trường phổ thông ngoài công tác
chuyên môn có lẽ công tác chủ nhiệm cũng gắn bó với đại đa số thầy, cô. Công
tác thực hiện trên tinh thần trách nhiệm, lòng yêu trẻ …nói chung là “Kỷ cương
tình thương, trách nhiệm”, thực hiện với một mục tiêu duy nhất là hoàn thiện
nhân cách cho các em học sinh và phát huy hiệu quả học tập của mỗi học sinh.
Thực hiện thành công công tác này dựa trên kinh nghiệm của mỗi thầy, mỗi cô.
Chính vì thế có không ít những suy tư, trăn trở cho mỗi thầy, cô, thậm chí có thể
có sự lúng túng đối với những thầy, cô giáo trẻ mới vào nghề khi phải thực hiện
công tác này. Xác định rõ vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp, trong
những năm qua, Trường THPT THỌ XUÂN 5 nói riêng và các nhà trường nói
chung đã quan tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên để có một giải
pháp tối ưu cũng như hiệu quả của hoạt động chủ nhiệm lại là vấn đề chúng ta
cần trao đổi.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục của học sinh không chỉ là các môn văn
hóa, mà các hoạt động khác cũng mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, nhiều khi có
ý nghĩa quyết định trong việc giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, tức là
đào tạo cho học sinh cả tài và đức. Trong thời khoá biểu hiện nay có một tiết
sinh hoạt lớp vào ngày thứ bảy hằng tuần. Đó là quy định bắt buộc theo chương
trình của Bộ giáo dục – đào tạo ban hành. Thế nhưng, theo thói quen lâu nay
thông thường tâm trạng và ý nghĩ của thầy và trò, coi tiết sinh hoạt cuối tuần là
1
tiết không quan trọng, nội dung không rõ ràng, tính “linh hoạt” mỗi lớp một
cách, một chương trình, không khí tiết sinh hoạt trở nên nhàm chán, nặng nề,
ảnh hưởng đến tâm lí của thầy và trò muốn cho tiết sinh hoạt mau kết thúc. Nên
có lúc xảy ra tình trạng lớp ra trước lớp ra sau, dẫn đến tiết sinh hoạt lớp không
có hiệu quả và tác dụng thiết thực.
Là một giáo viên được phân công làm công tác chủ nhiệm, với sự ham học
hỏi kinh nghiệm của những đồng nghiệp đi trước, những giáo viên chủ nhiệm có
uy tín và kinh nghiệm tích luỹ được qua thực tế công việc, tôi xin được trao đổi
cùng các đồng nghiệp về “Kinh nghiệm giáo dục đạo đức học sinh thông qua
tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm” với mong muốn nâng cao hiệu quả của công tác
chủ nhiệm lớp, góp phần cùng nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục
trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay.
I.2. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 10a4, Trường THPT Thọ Xuân 5.
Học sinh lớp 11 b4, Trường THPT Thọ Xuân 5.
I.3. Phương pháp nghiên cứu.
Nhóm thứ nhất: Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình
thành kinh nghiệm ứng xử xã hội của học sinh. Nhóm này gồm:
Phương pháp đòi hỏi sư phạm.
Phương pháp tạo dư luận xã hội.
Phương pháp tập thói quen.
Phương pháp rèn luyện.
Phương pháp giao công việc.
Phương pháp tạo tình huống giáo dục.
Nhóm thứ hai: Nhóm các phương pháp hình thành ý thức (khái niệm,
phán đoán, niềm tin) cá nhân học sinh.Nhóm phương pháp này bao gồm:
Phương pháp đàm thoại.
2
Phương pháp diễn giảng.
Phương pháp tranh luận.
Phương pháp nêu gương.
Nhóm thứ ba: Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh
ứng xử của học sinh. Nhóm này bao gồm các phương pháp sau:
Phương pháp thi đua.
Phương pháp khen thưởng.
Phương pháp trách phạt.
3
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lý luận.
Khái niệm về đạo đức
Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã
hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và
quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự
giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội,
với tự nhiên và với cả bản thân mình.
Theo chiết tự:
Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão
tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hòa với mọi người là có Đức.
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3
phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc
còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân
văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Theo kinh dịch:
Đạo đức theo quan niệm của người xưa là con đường, là năng lực phổ
biến điều hành mọi sự vận động và biến hóa không ngừng của vạn vật và sự
việc quanh ta.
Từ các khía cạnh trên đạo đức có thể định nghĩa:
4
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao
cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong
quan hệ cá nhân với xã hội.
Khái niệm về giáo dục: Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức,
hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái
độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn
thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp
phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương
đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh
"Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu “giáo dục là quá trình, cách
thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục”.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền
thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Tư tưởng giáo dục của J.Comenxki “Con người muốn trở thành con người
thì phải có học vấn”, “Nhà trường chính là nơi đào tạo nên những con người
chân chính, là cái xưởng để chế tạo ra nhân đạo và hạnh phúc”. Ông còn nói:
“Người giàu có mà không có học vấn chẳng khác nào con lợn béo ị vì ăn cám;
người nghèo khó không có học vấn thì khác nào con lừa đau khổ buộc phải tải
nặng . Một người có hình thức đẹp đẽ mà không có học vấnthì chỉ là một con vẹt
có bộ lông hào nhoáng, hoặc như người ta đã nói, một lưỡi kiếm bằng chì trong
vỏ kiếm bằng vàng”.
Khái niệm về giáo dục đạo đức học sinh: giáo dục đạo đức cho học sinh
là giáo dục lòng trung thành đối với Đảng, hiếu với Dân, yêu quê hương đất
5
nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù liêm khiết và chính trực . Đó là đạo đức Xã
hội Chủ Nghĩa là đạo đức của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính
chân thực tích cực, khác với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh
gắn chặt với giáo dục tư tưởng- chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản
sắc văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa, cung cấp
cho học sinh những phương thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội …. giúp
cho các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự
giác, có khả năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
Khái niệm hạnh kiểm: là phẩm chất, đạo đức biểu hiện trong việc làm, trong đối
xử với mọi người, với xã hội và thiên nhiên.
Do đó, nói đến hạnh kiểm của học sinh trung học phổ thông (THPT) là nói
đến phẩm chất đạo đức của học sinh thể hiện qua ý thức tổ chức kỷ luật, là sự
chấp hành của học sinh về điều lệ trường trung học, và nội quy, quy chế của nhà
trường; về động cơ thái độ học tập; tinh thần tập thể, tinh thần xây dựng chi đội,
xây dựng lớp; tham gia các phong trào của lớp của nhà trường và các hoạt động
của đoàn.
II.2.Thực trạng.
a. Thuận lợi- khó khăn
Thuận lợi: Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã
mang lại không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự
quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy
đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình ít con, kinh tế ngày càng được cải
thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên cạnh
đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm
bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ
tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những
6
hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Sự phối kết hợp giữa các tổ
chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ.
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn
gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và
kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho
nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học
sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn
viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những
vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo
đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm trong
công tác giáo dục đạo đức học sinh.
b. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đạo đức học sinh.
Ảnh hưởng từ gia đình:
Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con người.
Những mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ là những tác động qua lại
đầu tiên trong đời sống xã hội của đứa trẻ. Trong gia đình, các em nhận được
những kinh nghiêm và kỹ năng sống đầu tiên. Các hình thức giáo dục con cái
trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng giá trị nhân cách của học
sinh THPT.
Sự thiếu quan tâm chăm sóc của bố mẹ, gia đình và người thân. Một số
bậc phụ huynh cũng vì lo toan cuộc sống mưu sinh mà quên bẵng đi việc giáo
dục con cái, do đời sống gia đình khó khăn, quanh năm làm ăn lam lũ hoặc phải
đi làm ăn xa, hoặc các em thuộc gia đình có bố mẹ ly dị, thiếu sự chăm sóc của
bố hoặc mẹ, đôi khi thiếu cả hai, phải sống với ông bà cho nên không đủ điều
kiện chăm sóc, quản lý con cái, việc giáo dục con cái phó mặc cho Nhà trường.
Nhiều em bị ảnh hưởng nặng nề từ bạo lực gia đình, sinh ra tính cục cằn,
cáu bẩn, bạo lực còn bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc sống gia đình không êm ấm.
Nhiều học sinh quậy phá có nguyên nhân từ tâm lý không ổn định, ở nhà không
được quan tâm nhiều.
7
Ảnh hưởng từ sự phát triển kinh tế xã hội và sứ bùng nổ công nghệ thông
tin
Sự phát triển của kinh tế xã hội và mặt trái của cơ chế thị trường cũng
đang đặt ra một thực tế là: Nhiều học sinh, do gia đình có điều kiện kinh tế khá
giả, được nuông chiều thái quá. Họ chỉ biết dùng tiền để chăm sóc con cái mà
thiếu sự quản lý con mình, có tiền, nhiều em bị lôi kéo, sa vào các trò chơi độc
hại, sa vào tệ nạn xã hội.
Sự bùng nổ của thông tin:
Dưới sự bùng nổ của thông tin, của Điện thoại di động, của Internet, của
phim ảnh, của các Website đen đã tác động không nhỏ đến nhận thức, lối sống
và cách hành xử của học sinh. Việc sử dụng điện thoại di động, mạng internet
của học sinh dẫn đến một thực tế là lợi bất cập hại. Mạng Internet, phim ảnh, hệ
thống chức năng thẻ nhớ trên Điện thoại di động cũng là những phương tiện
gián tiếp tác động làm hư hỏng học sinh bởi bản tính tò mò, hiếu động của tuổi
mới lớn…. và nhiều kênh thông tin khác cũng khiến cho nhiều học sinh lao vào
như con thiêu thân. Việc học sinh mê game, chát ảnh hưởng từ phim: thích quen
"hoàng tử" trong phim, có trang phục giống trong phim, thích chơi đồ vật kiểu
Mỹ....
Ảnh hưởng từ môi trường giáo dục
Nhiều học sinh do học yếu dẫn đến tình trạng ngồi trong lớp nghe thầy cô
giảng bài nhưng chẳng hiểu gì sinh ra quậy phá dần dần thành thói quen. Ngồi
trong lớp là cực hình, nên dẫn đến tình trạng bỏ giờ, bỏ lớp phổ biến.
Đó còn là cách hành xử của một số người lớn, một số cán bộ giáo viên
chưa mẫu mực, chưa có tính giáo dục cao; nghiệp vụ sư phạm của một bộ phận
cán bộ giáo viên còn chưa đổi mới, đặc biệt là đối với học sinh cá biệt vẫn còn
cứng nhắc, chưa lôi cuốn, chưa cảm hóa và thuyết phục được học sinh. Khoảng
cách vô hình giữa thầy cô và học sinh còn quá lớn. Có nhiều vấn đề khó khăn
trong cuộc sống, trong học tập, học sinh không thể tâm sự chia sẽ với thầy cô
8
của mình, để lâu ngày bị dồn nén, bột phát thành nhiều hành động xấu, khó kiểm
soát.
Lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày
càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích
sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ
giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.
c) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.
Đối với gia đình:
Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn các giá trị của các em,
trước hết là nhân cách của bố mẹ, anh chị em, cách thức giáo dục và chăm sóc
của bố mẹ, lối sống của gia đình. Do vậy, việc xây dựng một lối sống, sự quan
tâm đúng mực của gia đình và sự gương mẫu của bố mẹ là điều kiện cần thiết để
hình thành định hướng giá trị nhân cách đúng đắn của các em. Chúng ta cần tôn
trọng những quan điểm, nhu cầu và mong muốn chính đáng của các em, sẽ là sai
lầm nếu chúng ta chỉ nhìn các em như là những đứa trẻ còn non nớt. Các hình
thức giáo dục con cái trong gia đình cần được bố mẹ và các thành viên trong gia
đình chú ý đặc biệt, tránh sử dụng các hình thức giáo dục thiếu tích cực và đặc
biệt là các hình thức giáo dục roi vọt, xâm phạm thể chất và tinh thần của con
em mình.
Gia đình cần kết hợp với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị cho
các em, không nên phó mặc trách nhiệm giáo dục giá trị con em mình cho nhà
trường và xã hội.
Đối với sự phát triển xã hội và bùng nổ công nghệ thông tin.
Sự tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình ở
lứa tuổi THPT là phổ biến. Cần có sự giáo dục kết hợp giữa gia đình và nhà
trường nhằm định hướng cho các em văn hóa sử dụng công nghệ thông tin. Cần
làm cho các em hiểu rõ các mặt hại của việc lạm dụng công nghệ thông tin
không đúng mục đích.
9
Đối với môi trường giáo dục:
Công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, bên cạnh đó, số tiết dành cho
giáo viên chủ nhiệm (GVCN) còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng
công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa
hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về
kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học
sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển.
Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng
dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng.
Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm
tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm
khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ
một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như
bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu
sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm và học sinh không phải bao giờ
tìm được tiếng nói chung.
Ngay cả giáo viên chủ nhiệm trong giờ sinh hoạt lớp cũng chưa thật sự
đặt nặng vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh. Qua tìm hiểu một số giờ sinh
hoạt lớp ở các lớp khác tôi nhận thấy rằng một số lớp có những khoảng thời gian
chết mà cả thầy và trò đều không biết làm gì, một số lớp khác thì giáo viên chủ
nhiệm dành quá nhiều thời gian cho việc khiển trách, phê bình học sinh.
Thông thường GVCN dùng tiết sinh hoạt lớp để nhận xét, kiểm điểm,
nhắc nhở những sai phạm của HS trong tuần và phổ biến kế hoạch,công việc
tuần tới. Đôi khi GVCN cũng giao cho HS điều khiển một phần tiết sinh hoạt,
chủ yếu dưới dạng sơ kết, đánh giá kết quả học tập, thi đua trong tuần, sau đó
GVCN nhắc lại làm cho tiết sinh hoạt thường tẻ nhạt, nặng nề. Đôi khi tiết sinh
hoạt GVCN còn dùng để nhắc đến các khoảng thu, hay la mắng HS.Việc làm
mang tính hình thức, hiệu quả tiết sinh hoạt còn thấp, học sinh ít hứng thú. Đôi
lúc nội dung sinh hoạt chỉ 10-15 phút, thời gian còn lại là nói chuyện, hát….
10
Không biết làm gì cho hết thời gian, lúc đó cả thầy và trò ngồi chờ tiếng trống.
Vì thế tiết sinh hoạt lớp nhiều lúc bị coi thường, hiểu quả thấp.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân chịu
trực tiếp tác động theo nhiều chiều của môi trường mà cá nhân đó sống và sinh
hoạt. Giáo dục học sinh không thể tách các em ra khỏi xã hội và đưa vào một
môi trường giáo dục thật tinh khiết để ở đó các em chỉ được tác động bởi những
nhân tố tích cực. Tuy nhiên ta hoàn toàn có thể xây dựng nhà trường trở thành
trung tâm văn hóa của địa phương, ở đó các em dễ nhận thấy những giá đạo đức
và văn hóa đồng thời phải giáo dục các em ngay trong lòng xã hội, giúp các em
nhận thức, phân biệt được cái tốt cái xấu, điều nên làm, điều nên tránh, có sức
đề kháng với sự lôi kéo, cám dỗ của các trò chơi vô bổ, độc hại của tệ nạn xã
hội.
Từ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, qua thực tế công tác bản thân, tôi
xin đề suất kinh nghiêm giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt lớp
được trình bày trong phẩn ( II.3. Kinh nghiệm giáo dục đạo đức học sinh
thông qua tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm).
II.3. Kinh nghiệm giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt lớp
chủ nhiệm.
a. Mục tiêu.
Tiến hành thực hiện đề tài này, bản thân tôi mong muốn mình sẽ hiểu biết
nhiều hơn đời sống tâm lí của học sinh trong lớp chủ nhiệm; nắm bắt được
những nguyện vọng, hiểu được những khó khăn mà các em gặp phải trong quá
trình quản lí và học tập để có những giải pháp kịp thời nhằm điều chỉnh việc tự
quản, động viên, giúp đỡ và giáo dục các em.
Thông qua tiết sinh hoạt, học sinh vi phạm sẽ nhìn nhận những sai trái và
có hướng điều chỉnh, hiểu nhiều hơn nguyện vọng mà giáo viên muốn gửi tới
các em; học sinh tự quản; ban cán sự được rèn luyện cách thức quản lí.
b. Điểm mới trong đề tài.
11
Tổ chức tiết sinh hoạt lớp cuối tuần không phải là một điều mới mẻ đối
với giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm. Thông thường nó gồm ba hoạt động
cơ bản gồm: Tổng kết đánh giá hoạt động trong tuần, Xây dựng kế hoạch tuần
tiếp theo, GVCN nhận xét đánh giá. Tuy nhiên, để khắc phục một số tồn tại
trong tiết sinh hoạt, làm cho tiết sinh hoạt lớp có ý nghĩa và tác dụng thiết thực,
sinh động và phong phú hơn, trước hết chúng ta cần phải xác định mục đích,
yêu cầu giáo dục mà tiết sinh hoạt đó nhằm đạt được, sẽ hoàn thành cho học
sinh những gì qua tiết sinh hoạt đó (về trí thức, thái độ, kỹ năng), sau đó phải
kiểm tra được nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp hợp lí giúp học sinh
và tập thể học sinh thực hiện hoạt động và đánh giá hiệu quả. Tổ chức hoạt động
ngoài giờ lên lớp theo chủ đề của tuần, của tháng làm cho học sinh không cảm
thấy nhàm chán, tạo hứng thú cho tiết sinh hoạt. Mời đại diện phụ huynh đến dự
vào những buổi sinh hoạt phát động các phong trào lớn, tạo sự nghiêm trang và
nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc phát động thi đua, đồng thời nhận được sự
động viên, cổ vũ từ phía phụ huynh.
c. Nội dung và cách thức thực hiện tiết sinh hoạt lớp:
Để hoàn thành tốt tiết sinh hoạt, với kinh nghiệm của bản thân tôi xin đề
xuất thực hiện theo các hoạt động sau:
Hoạt động 1: Công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
Hoạt động 2: Tổng kết và đánh giá hoạt động trong tuần.
Hoạt động 3: Xây dựng kế hoạch tuần học tiếp theo.
Hoạt động 4: GVCN góp ý ,nhận xét và đánh giá.
Hoạt động 5: Hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Hoạt động bổ sung: Mời phụ huynh đại diện đến dự buổi sinh hoạt lớp.
Hoạt động 1: Công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
Chuẩn bị của giáo viên:
Thu thập thông tin- Điều khiển gián tiếp
Rà soát nhiệm vụ giáo dục của tháng, của tuần theo chủ đề,
12
Nắm bắt tình hình hoạt động và học tập của toàn lớp trong tuần thông qua
các nguồn: Sổ đầu bài, thầy cô bộ môn và cán bộ lớp. Cần nắm và phân loại các
thông tin trong giờ học và ngoài giờ học: Tiến bộ, sa sút, yếu có cố gắng, thiếu
tập trung… và việc thực hiện nội quy của tập thể lớp cũng như cá nhân học
sinh trong lớp.
Trao đổi, định hướng trước với cán bộ lớp về nhiệm vụ của tiết sinh hoạt
chuẩn bị thực hiện và kế hoạch tuần tiếp theo (dựa trên chủ đề hoạt động và
các công tác đột xuất của nhà trường và ban thi đua đoàn trường).
Chuẩn bị của học sinh:
Các tổ trưởng theo dõi thi đua của từng thành viên và cả tổ trong tuần làm căn
cứ xếp loại thi đua Từng thành viên.
Trên cơ sở của điều lệ trường trung học và quy chế 40 của Bộ giáo dục về
đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.
Trên cơ sở thực tiển nhà trường và địa phương, căn cứ nhiệm vụ năm học nhà
trường xây dựng hệ thống các văn bản quy định một cách cụ thể.
Quy định về xếp loại hạnh kiểm học sinh của nhà trường.(Thông tư
số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 15/12/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT).
Quy định về xếp loại thi đua của đoàn trường.
Quy định về xếp loại thi đua của tập thể lớp.
Mẫu biên bản theo dõi xếp loại thi đua từng thành viên trong tổ.( Mẫu Aphụ lục 1).
Cờ đỏ báo cáo tình hình thực hiện nền nếp.
Hoạt động 2: Tổng kết và đánh giá hoạt động trong tuần.
Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giờ các em thực hiện phê và tự phê , tự đánh
giá các hoạt động của cá nhân và tập thể trong suốt tuần học. GVCN tiếp tục
nắm bắt tình hình lớp qua đó bổ sung thêm thông tin về sự tiến bộ hoặc sa sút
của mỗi học sinh trong lớp để động viên hay uốn nắn kịp thời.
Lớp Trưởng điều khiển lớp.
13
Các tổ trưởng báo cáo kết quả theo dõi thi đua của từng thành viên và cả
tổ trong tuần làm căn cứ xếp loại thi đua Từng thành viên.
Thư ký lớp tổng kết hoạt động học tập của lớp thông qua biên bản sinh
hoạt lớp.
Mẫu biên bản sinh hoạt lớp( Mẫu B- phụ lục 2).
Lớp trưởng cho các bạn đóng góp ý kiến về các hoạt động của lớp : Phản
ánh đúng sai của quá trình theo dõi của các tổ. Những trường hợp sai phạm chưa
được báo cáo, các cá nhân cần tuyên dương…
Lớp trưởng tổng kết : Dựa trên quá trình theo dõi, quản lý lớp trực tiếp
trong suốt tuần học và qua báo cáo của các thành viên trong lớp. Cần nêu rõ
những mặt nổi bật trong tuần đồng thời vạch rõ những khiếm khuyết của tập thể,
cá nhân trong lớp. Cuối cùng đề xuất tuyên dương cá nhân điển hình của lớp
cũng như đề xuất phê bình cá nhân vi phạm với GVCN.
Đây là hoạt động quan trọng nhất của tiết sinh hoạt, thể hiện tốt khả năng
tự quản của học sinh. Nêu cao được tinh thần phê và tự phê trong tập thể, giúp
các em có được sự đoàn kết, thấy rõ trách nhiệm của mỗi thành viên trong xây
dựng tập thể đồng thời ngăn ngừa được mầm móng của những sai phạm về đạo
đức học đường.
Đây cũng là điểm khó khăn nhất của tiết sinh hoạt tự quản vì:
Thứ nhất: GVCN không điều hành trực tiếp hoạt động này
Thứ hai: Tâm lý học sinh thường e ngại khi tiến hành phê bình bạn, sợ
bạn ghét, bị cô lập hoặc có thể có những hành động “trả thù” nên xu hướng
thường bao che.
Hoạt động 3: Xây dựng kế hoạch tuần học tiếp theo.
Dựa trên sự định hướng trước của GVCN, nhiệm vụ đặt ra của nhà trường
và đoàn trường, mục tiêu thi đua rèn luyện, lớp trưởng phát thảo kế hoạch thực
hiện bao gồm: nhiệm vụ phải thực hiện và mục tiêu phân đấu đạt được trên tính
thần khắc phục những mặc yếu kém tuần qua và phát huy những lợi thế đạt được
của tập thể lớp.Tập thể lớp trao đổi và đi đến phương án thực hiện.
14
Kết thúc hoạt động 3, lớp trưởng mời GVCN cho ý kiến
Hiệu quả của mỗi tuần phụ thuộc phần lớn vào kế hoạch đặt ra của tuấn trước đó
Hoạt động 4: GVCN góp ý ,nhận xét và đánh giá.
GVCN cần đánh giá góp ý phương pháp làm việc của cán bộ lớp, uốn nắn
điều chỉnh để rèn luyện kỷ năng tự quản cho lớp.
Cần phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời các học sinh đã có sự
cố gắng phấn đấu trong tuần.
Cần phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá nhân sai phạm,
chây lười, lơ là trong học tập và thiếu tính thần trách nhiệm với tập thể. Phát
hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng học sinh cá biệt.
Thưởng, phạt công minh đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng
buộc học sinh. Tiếp tục rút kinh nghiệm với những kết quả đạt được đồng thời
góp ý bổ sung kế hoạch hoạt động theo định hướng giáo dục đã có.
Hoạt động 5: Hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết sinh hoạt ngoài thái độ nhẹ
nhàng GVCN cần định hướng cho lớp có những tiết mục văn nghệ thư giãn
như: hát, kể chuyện vui, tấu hài, những trò chơi nhỏ… cũng có thể tổ chức tặng
quà sinh nhật cho các em có ngày sinh thuộc tháng hoặc tuần đang sinh hoạt,
đan xen hợp lý, linh hoạt giữa các hoạt động. Có như thế giúp các em cảm thấy
nhẹ nhàng và thích thú tăng thêm hiệu quả giờ sinh hoạt lớp.
Mục tiêu hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi THPT
như: Kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa; Kỹ năng tổ chức quản lý và tham gia
các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể hoạt động; Kỹ năng tự học tập, tự
đánh giá kết quả học tập và rèn luyện, định hướng nghề nghiệp…phát triển toàn
diện về nhân cách của học sinh.
Yêu cầu khi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp:
15
Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp(HĐNGLL) phải phù hợp với yêu
cầu, nguyện vọng và khả năng của học sinh; phát huy tính chủ động, sáng tạo và
tham gia tích cực của học sinh ; đảm bảo tính thực tiển, đa dạng hóa các hình
thức tổ chức, hoạt động trên cách tiếp cận kỹ năng sống.
Bám sát mục tiêu giáo dục THPT, đặc biệt là phải rèn luyện cho học sinh
tác phong làm việc theo nhóm, và những kỹ năng của người lao động thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tổ chức HĐNGLL phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nhà trường,
của địa phương; phải huy động mọi lực lượng GD trong và ngoài nhà trường để
tổ chức hoạt động cho học sinh.
Phương pháp:
Phương pháp tổ chức hoạt động NGLL
Linh hoạt lựa chọn các phương pháp tích cực như: Phương pháp thảo luận
nhóm; phương pháp diễn đàn; phương pháp đóng vai; phương pháp giải quyết
vấn đề; phương pháp tổ chức các hoạt động giao lưu; phương pháp giao nhiệm
vụ; phương pháp tình huống, phương pháp trò chơi….. đồng thời sử dụng các kỹ
thuật day học tích cực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của từng chủ điểm.
Khi sử dụng các phương pháp trên, chú ý đến nội dung hoạt đông cụ thể
của từng chủ điểm, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi học sinh THPT.
Đối với mỗi lớp có một cách thiết kế tiết sinh hoạt khác nhau . Ví dụ:
Đọc sách báo, tạp chí, tác phẩm văn học, bình văn học ...
Trao đổi phương pháp học tập, đố vui để học, phương pháp giải các bài
tập khó...
Sinh hoạt tập thể, thi hùng biện về chủ đề của tháng…
Sơ kết các hoạt động trong tháng, trò chơi...
Hoạt động bổ sung: Mời phụ huynh đại diện đến dự buổi sinh hoạt lớp.
Trong các tháng có các phong trào thi đua quan trọng như chào mừng 8/3,
26/3, 20/10, 20/11. GVCN mời phụ huynh đại diện đến dự buổi sinh hoạt lớp.
Như vậy phụ huynh nắm được các phong trào thi đua của lớp, của trường. Nhấn
16
mạnh tầm quan trọng của đợt thi đua, cũng để học sinh thấy được tầm quan
trọng của đợt thi đua đó. Và đồng thời nhận được sự ủng hộ, đôn đốc của các
bậc phụ huynh.
Với tiết sinh hoạt lớp, được tiến hành theo qui trình trên, HS có hứng thú,
tập thể HS có không khí lạc quan, đoàn kết thân ái, đặc biệt các kỹ năng tự quản
của HS được hình thành và phát triển, hiệu quả giáo dục đạo đức của GVCN
trong tiết sinh hoạt được nâng cao. Tạo cho HS không còn mặc cảm đối với tiết
sinh hoạt, không còn tình trạng bỏ tiết trong ngày thứ bảy. Học sinh thấy được
tiết sinh hoạt là một tiết học không phải là một tiết kiểm điểm.
Muốn làm được điều này, GVCN phải nhiệt tình, năng động, ý thức được
tầm quan trọng của tiết sinh hoạt. Các hình thức và nội dung của tiết sinh hoạt
cuối tuần có thể rất phong phú và đa dạng, tuỳ từng trường, từng địa phương có
thể triển khai linh hoạt hơn để phù hợp với đặc điểm của học sinh trường mình,
góp phần giáo dục toàn diện đối với học sinh.
II.4.Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
Nội dung của đề tài này đã được chính tác giả của đề tài thực hiện ở những
lớp chủ nhiệm của mình qua các năm học 2011– 2012 ở lớp 10 A4, năm học
2012– 2013 ở lớp 11 B4 đã đem lại những kết quả khá khả quan.
Cụ thể :
Năm học 2011– 2012 ở lớp 10 A4.
Đặc điểm của lớp
Thuận lợi:
Các em có ý thức xây dựng tập thể.
Luôn được nhà trường và các thầy cô giáo quan tâm, tânh tâm trong công
tác giảng dạy.
Đa phần phụ huynh quan tâm tới việc học tập, rèn luyện của con.
Khó khăn:
17
- Xem thêm -