Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến rèn kĩ năng “giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh...

Tài liệu Sáng kiến rèn kĩ năng “giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh

.DOC
24
113
110

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ GHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số : ……………………………………………........................................ Tên sáng kiến : Rèn kĩ năng “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh”. 1. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học 2. Mô tả bản chất của sáng kiến 2.1 Tình trạng giải pháp đã biết - Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới: Trong những năm gần đây, vấn đề giữ vở sạch, viết chữ đẹp của học sinh đặc biệt được quan tâm vì học sinh ở bậc tiểu học phải dùng chữ viết để học tập và giao tiếp. Chữ viết luôn ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. Để cải thiện tình hình này, nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên truyền thực hiện theo phong trào thi đua việc rèn chữ viết và giữ vở sạch đẹp cho học sinh. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường các thầy cô đang tích cực đổi mới phương pháp dạy, tăng thêm thời gian bồi dưỡng cho các em, hướng dẫn các em cách bảo quản sách vở, rèn chữ viết đẹp. Tuy vậy chất lượng chữ viết và giữ vở sạch mặc dù có tiến bộ song chưa thực sự vượt bậc và đảm bảo theo yêu cầu. Hiện nay một số em chữ viết còn chưa đúng độ cao con chữ, nhiều lỗi chính tả, viết xấu, viết chậm, dẫn tới việc nói, đọc, tiếp thu kiến thức hạn chế. Việc giữ vở sách còn bẩn, nhàu nát, các em viết chưa cẩn thận rồi gạch, xóa hoặc vẽ bậy trước và sau vở. Qua khảo sát lớp phụ trách tôi rút ra những ưu điểm và tồn tại sau: - Ưu điểm của giải pháp cũ:  Học sinh có đầy đủ cặp để đựng sách vở và dụng cụ đi học, trách ướt, nhàu sách vở, quăn góc hoặc mất;  Một số em viết các nét tương đối đều, đúng độ cao, đúng mẫu, trình bày khá đẹp, biết giữ gìn tập vở sạch sẽ;  Một số em ngồi viết đúng tư thế;  Sĩ số lớp vừa, không quá đông, thuận lợi cho việc theo dõi phong trào giữ vở sạch, rèn chữ viết của lớp. - Hạn chế của giải pháp cũ:  Đa số các em chưa có ý thức trong việc giữ gìn vở sạch, rèn chữ viết mà phải cần đến sự nhắc nhở nhiều của giáo viên chủ nhiệm; + Các em ngồi viết chưa đúng tư thế; cầm bút sát ngòi, chặt quá, tì mạnh mực sẽ dây ra tay và sau đó tay lại tì vào vở dẫn đến vở bị bẩn và các em chưa biết cách để vở đúng, viết còn gạch bỏ nhiều; + Chưa xác định được khoảng cách viết giữa các chữ với nhau, viết còn chưa đúng về độ cao, chữ chưa đúng mẫu; + Mẫu chữ viết còn sai lệch, có những em viết chưa rõ nét, nét còn nguệch ngoạc không thẳng hàng, có em chưa viết liên kết nét trong chữ; + Một số em bỏ dấu chưa ngay âm chính; + Khi viết một số thầy cô chưa quan tâm hoặc quan sát chưa kịp thời đến các em để luyện tập, rèn chữ viết; + Vở còn để bẩn, chưa sạch sẽ, trình bày viết chưa khoa học, chưa theo một quy trình viết cụ thể nào;  Học sinh chưa giữ gìn vở, còn viết thử phía sau trang cuối và một số em còn chừa hàng, bỏ trống trang, xé vở; Để thúc đẩy, động viên giáo viên và các em học sinh trong nhà trường quan tâm hơn nữa tới việc dạy và rèn chữ viết góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh” để nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn trong nhà trường. 2.2 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến - Mục đích của giải pháp:  Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và giữ vở sạch sẽ;  Nâng cao chất lượng phong trào Vở sạch – Chữ đẹp;  Rèn chữ đẹp giúp cho học sinh sáng tạo ra nhiều mẫu chữ để trang trí và phục vụ nhu cầu đời sống cho con người trong xã hội;  Giữ vở sạch, viết chữ đẹp một phần giúp các em tự tin và hứng thú hơn trong học tập;  Giúp các em biết giữ gìn và bảo quản sách vở bằng cách bao bìa, dán nhản, trình bày vào vở cẩn thận, sạch sẽ và khoa học;  Ngoài ra việc rèn các em biết giữ vở sạch, viết chữ đẹp còn rèn cho các em những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, kiên trì, tinh thần kỷ luật và phát triển óc thẩm mỹ “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người”. - Nội dung của giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:  Đề tài này giúp tôi luôn rèn luyện, tìm hiểu và nắm vững hơn phương pháp dạy học sinh biết cách giữ gìn tập vở, dụng cụ học tập, viết chữ đẹp;  Nâng cao hiệu quả giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh. - Tính mới của giải pháp  Đa số học sinh thích và chịu khó nắn nót luyện viết. Trong lớp nhiều em viết chữ đẹp, tập vở sạch sẽ, trình bày khoa học;  Các em biết sắp xếp đồ dùng học tập ngăn nắp, gọn gàng;  Giáo viên cẩn thận hơn trong việc viết đúng mẫu, giữ gìn dụng cụ dạy học, sách vở bao bìa, sắp xếp bàn, tủ, gọn gàng, ngăn nắp;  Phụ huynh rất hài lòng về sự tiến bộ con em mình về chữ viết, tập vở sạch sẽ. Hỗ trợ giáo viên nhắc nhỡ học sinh trong việc rèn chữ viết và giữ gìn tập vở ở nhà. - Các bước thực hiện giải pháp Khi đến lớp giáo viên viết chữ đẹp, trình bày bảng khoa học rõ ràng sẽ để lại ấn tượng tốt cho học sinh lâu dài và có tác dụng đến việc học của các em. Vì thế hơn ai hết giáo viên phải là người nắm vững các qui định về cách viết và kĩ thuật viết để hướng dẫn cho các em rèn chữ đẹp. Sau đây là một số biện pháp thực hiện: Giải pháp 1: Tạo cho học sinh tinh thần quyết tâm rèn luyện Muốn cho học sinh lớp mình hứng thú rèn luyện chữ viết tôi thường xuyên kể một số chuyện hay với chủ đề nêu gương bạn viết đẹp, luôn giữ vở sạch hay những bạn lúc đầu viết xấu nhưng qua quá trình rèn luyện chữ viết lại trở nên nổi tiếng vì chữ đẹp, ngăn nắp, giữ gìn dụng cụ học tập ngay ngắn. Tôi kể vào lúc sinh hoạt lớp để cả lớp cùng nghe và học tập. Giải pháp 2: Thực hiện đúng qui định khi viết chữ + Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 – 30cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái; + Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái, cầm bút quá thấp sẽ làm cho thao tác viết nặng nề mau mỏi tay và nét chữ ghì nặng xuống giấy vở sẽ không được đẹp có ảnh hưởng rất lớn đến kĩ năng viết nhanh viết đẹp sau này, Ngồi viết đúng tư thế, cầm bút đúng kĩ thuật sẽ tạo tư thế thoải mái khi viết chữ viết đẹp hơn và tránh được vẹo cột sống và cận thị ... + Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở); + Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết chưa đúng chữ, không được tẩy xoá đậm đen do khoanh tròn thành cục phải dùng thước gạch ngang một gạch ngay chữ viết chưa đúng; Giải pháp 3: Phân loại kiểu chữ viết chưa đúng của học sinh sau đó phân loại nhóm chữ để rèn luyện Phân loại các lỗi viết chưa đúng của học sinh Ngay từ đầu năm học tôi tổ chức kiểm tra đơn giản như viết một đoạn văn ngắn phân loại các kiểu lỗi, viết chữ chưa đúng mẫu của học sinh trong lớp:  Kiểu thứ nhất: mắc lỗi về dấu thanh (các em đánh dấu sai vị trí, dấu đánh to dài và cao sát dòng kẻ trên);  Kiểu thứ hai: mắc lỗi về chữ viết h, l, k sai chủ yếu của các chữ này là ở nét khuyết;  Kiểu thứ ba: đặt bút sai vị trí n, m, t, h, b (đặt bút sát dòng kẻ thứ nhất);  Kiểu thứ tư: viết các chữ có nét khuyết dưới sai :g, y, ng;  Kiểu thứ năm : viết chữ hoa xấu, chưa đúng;  Kiểu thứ sáu: viết chưa đúng về khoảng cách; Đối với những con chữ viết xấu không đúng mẫu tôi bố trí cho các em ngồi đầu bàn để giáo viên có điều kiện tiếp xúc sửa chữa kịp thời những lỗi sai; Sau khi phân loại các kiểu chữ viết của các em tôi tìm biện pháp thích hợp sửa và rèn chữ cho từng em theo phương chăm “mưa dầm thấm lâu”. Phân loại nhóm chữ viết  Tôi sắp xếp các chữ có hình dáng tương tự vào cùng một nhóm, xuất phát từ quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ;  Bảng chữ cái tiếng việt được sắp xếp thành các nhóm: Nhóm 1: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc ngược trái, nét móc phải: A, Ă, Â, M, N; Nhóm 2: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc ngược trái xoắn ở giữa thân chữ và dưới thân chữ: P, R, B, D, Đ; Nhóm 3: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong dưới, cong trái nét xoắn to ở đầu chữ: C, E, Ê, G, T; Nhóm 4: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong trái kết hợp với nét lượng ngang nét móc xuôi móc phải: I, K, H, V; Nhóm 5: gồm cc chữ cái có nét cong kín: O, Ô, Ơ, Q; Nhóm 6: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc hai đầu: U, Ư, X, Y. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh liên kết nét trong chữ ghi tiếng Để giúp HS rèn luyện về cách nối nét móc giáo viên phân tích cho học sinh hiểu cách nối. Có 3 trường hợp xảy ra:  Trường hợp 1: liên kết từ chữ hoa sang chữ thường;  Trường hợp 2: liên kết nét nối thuận lợi; Ví dụ: a nối với n -> an sao cho nét nối là nét thẳng chéo và tạo được khoảng cách vừa phải giữa chữ a và chữ n (khoảng bằng một con chữ o). Chú ý nối sao tròn đầu nét móc.  Trường hợp 3: liên kết nối nét không thuận lợi; Ví dụ: từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu của chữ a rồi viết (thao tác đưa bút trên không gọi là lia bút).  Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh vị trí dấu phụ, dấu thanh  Vị trí dấu phụ: dấu ở các chữ ă â ê ô hướng dẫn học sinh đặt phía trên đầu chữ cái, điểm cao nhất của dấu không quá 1/3 đơn vị của điểm thấp nhất của dấu không chạm vào đầu các chữ cái, chiều ngang của dấu bằng 1/3 đơn vị chữ;  Vị trí dấu thanh: hướng dẫn các em đặt dấu thanh vào chữ ghi nguyên âm ( bỏ dấu ngay âm chính) giáo viên lưu ý thêm với học sinh dấu thanh nhảy ra ngoài vùng liên kết vì vậy khi viết xong các chữ trong vùng liên kết phải hướng dẫn học sinh lia bút trên không từ điểm dừng của phần vần đến điểm đặt bút của dấu thanh. Giải pháp 6: Phương pháp rèn kĩ năng viết Phương pháp trực quan:  Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu… Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và đẹp;  Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học;  Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh;  Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng. Phương pháp đàm thoại gợi mở: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích. Ví dụ: Khi dạy chữ A, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm có bao nhiêu nét? là những nét nào? chữ A cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?… Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau. Phương pháp luyện tập: Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác. Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách ngồi viết. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:  Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp: Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình dáng, thứ tự các nét viết);  Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Học sinh luyện tập viết bằng phấn (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi viết vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sử dụng bảng, giáo viên phải hướng dẫn học sinh cả cách lau bảng, cách giơ bảng, cách sử dụng và bảo quản phấn;...  Luyện học sinh viết đúng qua các tiết tập viết ở lớp: Qua bài viết học sinh nắm được các khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, tốc độ, tên gọi các nét, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh và liên kết các chữ cái khi viết. Từ đó mới hình thành ở các em những biểu tượng về hình dáng độ cao và sự cân đối, tính thẫm mỹ của chữ viết, giúp các em viết đủ, viết đúng dòng ở mỗi bài tập viết;  Việc ghi chép bài hàng ngày: Ngoài việc rèn cho học sinh luyện viết theo các hình thức trên. Thì việc viết bài hàng ngày của các em là rất quan trọng quyết định chữ đẹp hay không vì đây là giai đoạn mang tính chất luyện tập thực hành viết nhiều với nhiều tốc độ viết khác nhau. Chính vì vậy giáo viên cần thực hiện: + Cho học sinh viết bài hàng ngày khi hết bài dùng thước kẻ để kẻ không dùng tay, viết trang nào hết trang đó không để cách trang, trước khi viết kiểm tra vệ sinh tay tránh để bẩn dây ra vở; + Luôn luôn quan tâm tới việc cầm bút của học sinh không để các em cầm bút quá sát với ngòi, đưa bút quá mạnh và nhanh dẫn đến nét sẽ nguệch ngoạc không đều.  Giải pháp 7: Đổi mới phương pháp dạy học Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tiết tập viết như sau:  Kiểm tra học sinh viết bảng con (1 - 2 em viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu), sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động viên kịp thời những học sinh viết đẹp);  Hướng dẫn học sinh viết chữ: + Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát; + Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét? Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?… (Có thể cho học sinh chỉ vào chữ mẫu trên bảng);  Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ: + Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát; + Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi; + Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp (hoặc trên bảng con) để học sinh nắm vững quy trình viết chữ caí. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả quy trình; + Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nắn, nhận xét kết quả (chú ý về hình dáng, quy trình).  Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng: + Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng dụng; sau đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết; + Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng (chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền mạch - nối chữ, khoảng cách giữa các chữ cái, đặt dấu ghi thanh…); + Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng tâm ở bài dạy), học sinh theo dõi; + Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn (chữ ghi tiếng từ có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét;  Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết: + Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì ? viết mấy dòng? cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? viết từ ứng dụng mấy dòng ? cần lưu ý về cách nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao ?…); Ví dụ: Hướng dẫn viết chữ hoa G Gồm 2 nét, nét 1 cong dưới và cong trái. Đặt bút lên đường kẻ 6, viết nét cong dưới rồi chuyển hướng viết tiếp nét cong trái tạo vòng xoắn to ở đầu chữ, phần cuối nét cong trái đến đường kẻ 3 trên thì dừng lại; Nét 2 khuyết ngược, từ điểm dừng bút của nét 1 chuyển hướng ngược lại, viết nét khuyết ngược kéo dài đến đường kẻ 4 dưới, dừng lại ở đường kẻ 2 trên. + Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết và tư thế ngồi viết (chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém).  Nhận xét bài viết của học sinh: + Giáo viên nhận xét bài viết của học sinh đã viết xong ở lớp; + Nhận xét kết bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài học dài, giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập theo nội dung tương ứng. Giải pháp 8: Đối với việc giữ vở sạch  Ngay từ đầu năm tôi đã giáo dục các em hiểu tầm quan trọng ý nghĩa, tác dụng của việc giữ vở sạch, chữ đẹp. Tôi còn cho các em xem những bộ vở sạch, chữ đẹp từ những năm trước và động viên cá em hăng say rèn luyện để đạt được những bộ vở sạch, chữ đẹp như các anh chị và các bạn. Đầu năm tôi qui định mẫu vở, bút chì, bút mực cho các em cả lớp thống nhất;  Khi viết các em mở nắp nhẹ nhàng, không cắn đầu bút, nếu bút bẩn lấy giẻ lau sạch rồi mới viết.Trước khi viết cần thử bút ra giấy nháp, khi nào thấy mực ra đều đặn mới viết vào vở, không đẻ giây mực bẩn vở;  Các em mở gấp vở nhẹ tay, khi viết không gấp đôi vở; không được vẽ bẩn vào trước và sau bìa sách, vở; không làm quoăn các mép sách vở;  Nếu các em lỡ viết không đúng nên dùng thước gạch ngang một đường ngay chữ đó, không được tô đậm hay quẹt nguệch ngoạc chữ chưa đúng, các em không được viết bỏ hàng, chừa trang, không được viết trang bìa, xé vở. Ngoài các giải pháp trên người giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, luôn gần gũi quan tâm chăm sóc đến từng học sinh, đồng thời tìm ra những biện pháp thiết thực với từng học sinh để giúp đỡ các em kịp thời. Với mong muốn mỗi chữ của các em ngày càng thêm tươi thêm đẹp. 2.3 Khả năng áp dụng của giải pháp Đề tài này có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp trong trường tiểu học tôi đang dạy và nhân rộng đến các trường khác. 2.4 Hiệu quả, lợi ích thu được dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Giáo viên:  Thông thạo phương pháp dạy tập viết cho học sinh;  Cần phải kiên trì, nhẫn nại, thường xuyên khích lệ động viên các em;  Chữ viết của giáo viên khi viết ở bảng lớp cũng như khi chấm bài cho học sinh đúng mẫu, đúng chính tả, trình bày khoa học.  Học sinh:  Hăng say với việc rèn học sinh giữ vở sạch, rèn chữ đẹp;  Cẩn thận, kiên trì và tỉ mỉ, tính sáng tạo,... các em không chỉ có cố gắng về chữ viết mà còn học tốt hơn các môn khác;  Luôn giữ gìn và sử dụng các dụng cụ học tập nhẹ nhàng, ngăn nắp, sách vở ngay ngắn, sạch đẹp;  Phụ huynh:  Luôn chuẩn bị dụng cụ học tập cho con em mình đầy đủ, cùng với giáo viên kiểm tra nhắc nhở các em có ý thức giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp;  Cảm thấy vui khi con em mình có tiến bộ về chữ viết, biết giữ gìn tập vở sạch sẽ; Kết quả đạt được so với đầu năm như sau:  Thi vở sạch - chữ đẹp cấp trường 1 em đạt giải ba, 1 em đạt giải khuyến khích so với đầu vào năm rồi không có em nào tham gia;  Theo tôi kết quả giữ vở sạch, chữ đẹp có tiến bộ so với đầu năm. Sĩ Vở sạch Chữ đẹp Đều nét tương đối theo mẫu số Đầu năm Hiện nay Đầu năm Hiện nay Đầu năm Hiện nay 30 5-16,7% 20- 66,7% 2- 6,7% 15 - 50% 2- 6,7% 7- 23,3% Qua một thời gian áp dụng, tôi thấy học sinh lớp có những chuyển biến rõ rệt về chữ viết. Viết nắn nót, cẩn thận đã thành thói quen của học sinh. Các em luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ sạch đẹp. Phong trào “vở sạch - chữ đẹp” của lớp luôn được đánh giá cao. Vở viết của học sinh đảm bảo chất lượng, chữ viết đúng mẫu, tốc độ viết đúng quy định. Bản thân giáo viên khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nâng cao chất lượng giờ dạy tốt hơn. Trên đây là một vài biện pháp kinh nghiệm của bản thân tôi để rèn kĩ năng “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh ”. Song những vấn đề tôi đề cập tới chắc chắn còn chưa nhiều kinh nghiệm. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp đế góp phần nâng cao chất lượng giữ vở sạch, chữ viết đẹp cho học sinh./. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ GHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số : ……………………………………………............ Tên sáng kiến : Rèn kĩ năng “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh”. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học Mô tả bản chất của sáng kiến I. TÌNH TRẠNG GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT Trong những năm gần đây, vấn đề giữ vở sạch, viết chữ đẹp của học sinh đặc biệt được quan tâm vì học sinh ở bậc tiểu học phải dùng chữ viết để học tập và giao tiếp. Chữ viết luôn ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. Để cải thiện tình hình này, nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên truyền thực hiện theo phong trào thi đua việc rèn chữ viết và giữ vở sạch đẹp cho học sinh. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường các thầy cô đang tích cực đổi mới phương pháp dạy, tăng thêm thời gian bồi dưỡng cho các em, hướng dẫn các em cách bảo quản sách vở, rèn chữ viết đẹp. Tuy vậy chất lượng chữ viết và giữ vở sạch mặc dù có tiến bộ song chưa thực sự vượt bậc và đảm bảo theo yêu cầu. Hiện nay một số em chữ viết còn chưa đúng độ cao con chữ, nhiều lỗi chính tả, viết xấu, viết chậm, dẫn tới việc nói, đọc, tiếp thu kiến thức hạn chế. Việc giữ vở sách còn bẩn, nhàu nát, các em viết chưa cẩn thận rồi gạch, xóa hoặc vẽ bậy trước và sau vở. Qua khảo sát lớp phụ trách tôi rút ra những ưu điểm và tồn tại sau: 1. Ưu điểm - Học sinh có đầy đủ cặp để đựng sách vở và dụng cụ đi học, trách ướt, nhàu sách vở, quăn góc hoặc mất; - Một số em viết các nét tương đối đều, đúng độ cao, đúng mẫu, trình bày khá đẹp, biết giữ gìn tập vở sạch sẽ; - Một số em ngồi viết đúng tư thế; - Sĩ số lớp vừa, không quá đông, thuận lợi cho việc theo dõi phong trào giữ vở sạch, rèn chữ viết của lớp. 2. Hạn chế - Đa số các em chưa có ý thức trong việc giữ gìn vở sạch, rèn chữ viết mà phải cần đến sự nhắc nhở nhiều của giáo viên chủ nhiệm; - Cách cầm bút của đa số học sinh chưa đúng, cầm bút sát ngòi, cầm bút chặt quá, ngồi chưa đúng tư thế, chưa biết cách để vở đúng, viết còn gạch bỏ nhiều; - Vở còn để bẩn, chưa sạch sẽ, trình bày viết chưa khoa học, chưa theo một quy trình viết cụ thể nào; - Mẫu chữ viết còn sai lệch, có những em viết chưa rõ nét, nét còn nguệch ngoạc không thẳng hàng, tư thế ngồi viết chưa đúng theo quy định; - Các em chưa xác định được điểm đặt bút và điểm dừng bút khi viết; - Chưa xác định được khoảng cách viết giữa các chữ với nhau, viết còn chưa đúng về độ cao, chữ chưa đúng mẫu; - Khi viết một số thầy cô chưa quan tâm hoặc quan sát chưa kịp thời dẫn đến các em viết chưa đúng khi phát hiện ra thì tự mình tẩy xóa; - Giáo viên chưa yêu cầu học sinh giữ gìn vở, không viết thử phía sau trang cuối và không được xé đến khi viết hết quyển. - Một số học sinh sử dụng viết còn bị lem, cầm quá sát đầu bút, tì mạnh mực sẽ dây ra tay và sau đó tay lại tì vào vở dẫn đến vở bị bẩn; Để thúc đẩy, động viên giáo viên và các em học sinh trong nhà trường quan tâm hơn nữa tới việc dạy và rèn chữ viết góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng giữ vở sạch, viết chữ đẹp cho học sinh” để nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn trong nhà trường. II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN LÀ SÁNG KIẾN Mục đích của giải pháp: - Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và giữ vở sạch sẽ; - Nâng cao chất lượng phong trào Vở sạch – Chữ đẹp; - Rèn chữ đẹp giúp cho học sinh sáng tạo ra nhiều mẫu chữ để trang trí và phục vụ nhu cầu đời sống cho con người trong xã hội; - Giữ vở sạch, viết chữ đẹp một phần giúp các em tự tin và hứng thú hơn trong học tập; - Giúp các em biết giữ gìn và bảo quản sách vở bằng cách bao bìa, dán nhản, trình bày vào vở cẩn thận, sạch sẽ và khoa học; - Ngoài ra việc rèn các em biết giữ vở sạch, viết chữ đẹp còn rèn cho các em những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, kiên trì, tinh thần kỷ luật và phát triển óc thẩm mỹ “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người”. Nội dung của giải pháp: 1. Tính mới của giải pháp - Trong quá trình thực hiện đề tài tôi nhận thấy học sinh rất say mê tập luyện viết. Giấy ô li càng dày thì khả năng viết chữ đẹp của các em càng cao. - Rèn học sinh tự hoàn thiện mình về mọi mặt ngay từ khi còn nhỏ. - Giáo viên cần mẫu mực trong việc viết đúng mẫu, giữ gìn dụng cụ dạy học, sách vở bao bìa, sắp xếp bàn, tủ, gọn gàng, ngăn nắp; 2. Các bước thực hiện giải pháp Khi đến lớp giáo viên viết chữ đẹp, rõ ràng sẽ để lại cho học sinh ấn tượng lâu dài và có tác dụng đến việc học của các em. Vì thế hơn ai hết giáo viên phải là người nắm vững các qui định về cách viết và kĩ thuật viết để hướng dẫn cho các em rèn chữ đẹp. Sau đây là một số biện pháp thực hiện: a) Tạo cho học sinh tinh thần quyết tâm rèn luyện Muốn cho học sinh lớp mình hứng thú rèn luyện chữ viết tôi thường xuyên kể một số chuyện hay với chủ đề nêu gương bạn viết đẹp, luôn giữ vở sạch hay những bạn lúc đầu viết xấu nhưng qua quá trình rèn luyện chữ viết lại trở nên nổi tiếng vì chữ đẹp, ngăn nắp, giữ gìn dụng cụ học tập ngay ngắn. Tôi kể vào lúc sinh hoạt lớp để cả lớp cùng nghe và học tập. b) Hướng dẫn các em tư thế ngồi, cách ngồi, cách để vở và cách cầm bút Ngồi viết đúng tư thế, cầm bút đúng kĩ thuật sẽ tạo tư thế thoải mái khi viết chữ viết đẹp hơn và tránh được vẹo cột sống và cận thị ... Giáo viên đặc biệt quan tâm hướng dẫn tỉ mỉ cụ thể về cách cầm bút cho học sinh. Cầm bút quá thấp sẽ làm cho thao tác viết nặng nề mau mỏi tay và nét chữ ghì nặng xuống giấy vở sẽ không được đẹp có ảnh hưởng rất lớn đến kĩ năng viết nhanh viết đẹp sau này. c) Phân loại kiểu chữ viết chưa đúng của học sinh sau đó phân loại nhóm chữ để rèn luyện Phân loại các lỗi viết chưa đúng của học sinh Ngay từ đầu năm học tôi tổ chức kiểm tra đơn giản như viết một đoạn văn ngắn phân loại các kiểu lỗi, viết chữ chưa đúng mẫu của học sinh trong lớp: - Kiểu thứ nhất: mắc lỗi về dấu thanh (các em đánh dấu sai vị trí, dấu đánh to dài và cao sát dòng kẻ trên); - Kiểu thứ hai: mắc lỗi về chữ viết h, l, k sai chủ yếu của các chữ này là ở nét khuyết; - Kiểu thứ ba: đặt bút sai vị trí n, m, t, h, b (đặt bút sát dòng kẻ thứ nhất); - Kiểu thứ tư: viết các chữ có nét khuyết dưới sai :g, y, ng; - Kiểu thứ năm : viết chữ hoa xấu, chưa đúng; - Kiểu thứ sáu: viết chưa đúng về khoảng cách; Đối với những con chữ viết xấu không đúng mẫu tôi bố trí cho các em ngồi đầu bàn để giáo viên có điều kiện tiếp xúc sửa chữa kịp thời những lỗi sai. Sau khi phân loại các kiểu chữ viết của các em tôi tìm biện pháp thích hợp sửa và rèn chữ cho từng em theo phương chăm “mưa dầm thấm lâu”. Phân loại nhóm chữ viết - Tôi sắp xếp các chữ có hình dáng tương tự vào cùng một nhóm, xuất phát từ quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ; - Bảng chữ cái tiếng việt được sắp xếp thành các nhóm: Nhóm 1: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc ngược trái, nét móc phải: A, Ă, Â, M, N Nhóm 2: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc ngược trái xoắn ở giữa thân chữ và dưới thân chữ: P, R, B, D, Đ Nhóm 3: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong dưới, cong trái nét xoắn to ở đầu chữ: C, E, Ê, G, T - Nhóm 4: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong trái kết hợp với nét lượng ngang nét móc xuôi móc phải: I, K, H, V Nhóm 5: gồm cc chữ cái có nét cong kín: O, Ô, Ơ, Q Nhóm 6: gồm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc hai đầu: U, Ư, X, Y c) Hướng dẫn học sinh liên kết nét trong chữ ghi tiếng Để giúp HS rèn luyện về cách nối nét móc giáo viên phân tích cho học sinh hiểu cách nối. Có 3 trường hợp xảy ra: - Trường hợp 1: liên kết từ chữ hoa sang chữ thường; - Trường hợp 2: liên kết nét nối thuận lợi; Ví dụ: a nối với n -> an sao cho nét nối là nét thẳng chéo và tạo được khoảng cách vừa phải giữa chữ a và chữ n (khoảng bằng một con chữ o). Chú ý nối sao tròn đầu nét móc. - Trường hợp 3: liên kết nối nét không thuận lợi. Ví dụ: từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu của chữ a rồi viết (thao tác đưa bút trên không gọi là lia bút). d) Hướng dẫn học sinh vị trí dấu phụ, dấu thanh - Vị trí dấu phụ: dấu ở các chữ ă â ê ô hướng dẫn học sinh đặt phía trên đầu chữ cái, điểm cao nhất của dấu không quá 1/3 đơn vị của điểm thấp nhất của dấu không chạm vào đầu các chữ cái, chiều ngang của dấu bằng 1/3 đơn vị chữ; - Vị trí dấu thanh: hướng dẫn các em đặt dấu thanh vào chữ ghi nguyên âm giáo viên lưu ý thêm với học sinh dấu thanh nhảy ra ngoài vùng liên kết vì vậy khi viết xong các chữ trong vùng liên kết phải hướng dẫn học sinh lia bút trên không từ điểm dừng của phần vần đến điểm đặt bút của dấu thanh. d) Phương pháp rèn kĩ năng viết Phương pháp trực quan: Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu… Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và đẹp. - Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học; - Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh; - Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng. Phương pháp đàm thoại gợi mở: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích. Ví dụ: Khi dạy chữ A, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm có bao nhiêu nét? là những nét nào? chữ A cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?… Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau. Phương pháp luyện tập: Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác. Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách ngồi viết. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau: - Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp: Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình dáng, thứ tự các nét viết); - Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Học sinh luyện tập viết bằng phấn (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi viết vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sử dụng bảng, giáo viên phải hướng dẫn học sinh cả cách lau bảng, cách giơ bảng, cách sử dụng và bảo quản phấn;.. - Luyện học sinh viết đúng qua các tiết tập viết ở lớp: Qua bài viết học sinh nắm được các khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, tốc độ, tên gọi các nét, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh và liên kết các chữ cái khi viết. Từ đó mới hình thành ở các em những biểu tượng về hình dáng độ cao và sự cân đối, tính thẫm mỹ của chữ viết, giúp các em viết đủ, viết đúng dòng ở mỗi bài tập viết; - Việc ghi chép bài hàng ngày: Ngoài việc rèn cho học sinh luyện viết theo các hình thức trên. Thì việc viết bài hàng ngày của các em là rất quan trọng quyết định chữ đẹp hay không vì đây là giai đoạn mang tính chất luyện tập thực hành viết nhiều với nhiều tốc độ viết khác nhau. Chính vì vậy giáo viên cần thực hiện: + Cho học sinh viết bài hàng ngày khi hết bài dùng thước kẻ để kẻ không dùng tay, viết trang nào hết trang đó không để cách trang, trước khi viết kiểm tra vệ sinh tay tránh để bẩn dây ra vở; + Luôn luôn quan tâm tới việc cầm bút của học sinh không để các em cầm bút quá sát với ngòi, đưa bút quá mạnh và nhanh dẫn đến nét sẽ nguệch ngoạc không đều. e) Thực hiện đúng qui định khi viết chữ - Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 – 30cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái; - Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái; - Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở); - Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại. f) Đổi mới phương pháp dạy học Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tiết tập viết như sau: - Kiểm tra học sinh viết bảng con (1 - 2 em viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu), sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động viên kịp thời những học sinh viết đẹp); - Hướng dẫn học sinh viết chữ: + Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát; + Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét? Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?… (Có thể cho học sinh chỉ vào chữ mẫu trên bảng); - Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ: + Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát; + Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng