Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp ...

Tài liệu Sáng kiến một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

.DOC
13
119
112

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số : ………………………………………………… 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4” 2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học 3. Mô tả bản chất của sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết Văn miêu tả là một thể loại văn chiếm đại đa số thời lượng trong chương trình dạy Tập làm văn lớp bốn. Là một thể loại rất phổ biến, quen thuộc trong sáng tác văn chương và trong cuộc sống đời thường. Nhờ miêu tả chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của tự nhiên, của con người…Trước đây học sinh lớp 4 làm văn miêu tả tôi nhận thấy chất lượng học tập môn làm văn viết của học sinh chưa cao. Chỉ được số ít học sinh biết cách viết văn sinh động có bố cục rõ ràng, các phần đủ ý. Còn lại phần lớn các em chưa biết tìm ý để biết đủ các phần cần thiết của một bài văn hoặc còn liệt kê các nội dung một cách đơn giản. Các em chưa nắm được bố cục một bài văn miêu tả con vật, nhiều em chỉ nêu được một đến hai bộ phận của con vật cần tả, có em lại chỉ nêu theo ngẫu hứng tự do không theo một trình tự nhất định. a) Ưu điểm - Bản thân tôi đã được tập huấn nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo sách giáo khoa mới; - Bên cạnh bộ sách giáo khoa, sách giáo viên tôi còn được cung cấp nhiều tài liệu chuyên ngành phục vụ nghiên cứu chuyên môn; - Một số học sinh có thái độ học tập tốt, biết cách quan sát các sự vật hiện tượng xung quanh, có óc thẩm mĩ; - Các em biết cách vận dụng các giác quan để quan sát; -Các em biết trình bày những điều quan sát được bằng những câu văn đầy đủ bộ phận, rõ nghĩa. b) Hạn chế - Trình độ của học sinh không đều, tình trạng học sinh viết câu, đoạn văn còn rời rạc, chưa đạt yêu cầu nhất là thời gian đầu năm học. Có những học sinh viết đoạn văn thật dài mà không hề sử dụng một dấu câu nào; - Nội dung chương trình Tập làm văn giữa lớp ba và lớp bốn có sự chênh lệch khá lớn, nhiều học sinh không theo kịp; - Cách dạy theo sách giáo khoa cũng gây không ít khó khăn cho học sinh: sách phân bố dạy theo từng phần mở bài, thân bài, kết bài, rồi cho học sinh làm một bài kiểm tra viết, không dành tiết nào để ghép các phần thành một bài văn hoàn chỉnh. Vì thế học sinh thường lúng túng khi làm bài; - Một số học sinh còn nghèo vốn từ khi nói và viết. Khi muốn trình bày một điều gì đó thì các em cứ diễn đạt dài dòng mà vẫn không nêu lên được điều muốn nói. Để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là làm thế nào giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết lựa chọn các từ ngữ miêu tả cho sinh động. Chính vì những lẽ đó, tôi đã nghiên cứu và thực hiện “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4”. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 3.2.1. Mục đích của giải pháp - Nhằm tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy văn miêu tả ở lớp 4; - Tìm ra những khó khăn, sai sót mà giáo viên và học sinh thường mắc phải khi dạy học kiểu bài tập làm văn miêu tả. Qua đó đưa ra giải pháp khắc phục có hiệu quả cho quá trình dạy học kiểu bài này; - Tích cực hóa hoạt động của học sinh. Nâng cao hiệu quả của việc dạy văn miêu tả. 3.2.2. Nội dung của giải pháp Tính mới của giải pháp: 2 Mặc dù đề tài chỉ nghiên cứu phần văn miêu tả ở học sinh lớp bốn nhưng rất dễ thực hiện và có thể áp dụng ở cả các lớp trong cấp học nếu có liên quan đến văn miêu tả. Đề tài này tôi đã tìm hiểu những lỗi mà học sinh hay mắc phải và đưa ra biện pháp cụ thể để hướng dẫn cho học sinh và rất dễ vận dụng. Một số học sinh có thái độ học tập tốt, biết cách quan sát các sự vật hiện tượng xung quanh, có óc thẩm mĩ, dùng từ đặt câu rất hay. Các bước thực hiện của giải pháp: a) Giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó, giáo viên hình thành và rèn luyện cho các em cách quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, giúp các em có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả. Ở tuổi Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật, đòi hỏi khi viết phải giàu cảm xúc, tạo nên cái "hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện. b) Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay từ tiết đầu tiên của thể loại bài này Dùng ngôn ngữ để làm cho người khác có thể hình dung, thấy được các sự vật, sự việc, con người…một cách cụ thể như ở trước mắt. Đó chính là miêu tả. Nói một cách khác, miêu tả cũng là trình bày những điều quan sát và nhận xét được của mình về sự vật, sự việc, con người ấy. Để miêu tả các em cần lưu ý: Phải quan sát thật kỹ: dùng mắt, tai, mũi có khi cả lưỡi để quan sát đồ vật, con vật, nhân vật, thực vật hay cảnh vật muốn tả. 3 Phải nhận xét cẩn thận: Bằng trí óc để quan sát, tìm các chi tiết đặc biệt để làm nổi bật đề bài. Miêu tả không phải là kể. Do đó, ta không kể lể hết chi tiết mà chỉ chọn những chi tiết chủ yếu để trình bày cặn kẽ và sống động. Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái riêng biệt của mỗi người. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết "bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng, thói già trước tuổi. Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, chứ không giống ngôn ngữ miêu tả trong khoa học, địa lí…và các thể loại văn khác. Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn. d) Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp. Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy Tập đọc, Luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn học khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng. 4 Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ cảm xúc. * Ví dụ: Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo: - Chú ta có cái đuôi thon dài như một con rắn. Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét: Bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một con rắn. Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn: - Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên; - Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu. Như vậy cùng là miêu tả về cái đuôi của chú mèo nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe. đ) Dạy tốt Tập làm văn cần dạy tốt kiến thức các phân môn khác của môn Tiếng Việt Ví dụ: Khi học về câu kể Ai là gì? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một người, một vật: Chích bông là con chim rất đáng yêu. Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân. Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. - Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kĩ năng viết cho 5 học sinh trong các giờ Chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ; - Nếu như Tập đọc rèn kĩ năng cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kĩ năng viết cho học sinh thì phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói hay nói cách khác là kĩ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện. e) Trình tự làm một bài văn Khi làm một bài tập làm văn, các em cần làm các việc như sau: * Phân tích đề: Đọc đi, đọc lại nhiều lần đầu đề, chú ý từng câu, từng chữ, gạch dưới những từ quan trọng để xem: - Đầu đề thuộc thể loại văn nào; - Đối tượng cần phải nói đến là gì? (Miêu tả đồ vật, cây cối hay con vật); - Trọng tâm yêu cầu của đầu đề là ở điểm nào; * Lập dàn ý: Sau khi đã phân tích đề, chúng ta lập một dàn bài tổng quát trước, sau đó dựa vào việc quan sát đối tượng (hoặc hồi tưởng) để tìm ý, tìm hình ảnh, màu sắc … bổ sung cho dàn bài tổng quát thành một dàn bài chi tiết. * Làm nháp và sửa chữa: Có dàn bài chi tiết rồi, chúng ta dựa vào đó để viết câu, thành bài văn hẳn hoi. Trong giai đoạn này, các em cần suy nghĩ thêm vào những ý tưởng chợt đến và bỏ bớt những chi tiết rườm rà, những ý trùng lặp không cần thiết. Sau khi đã viết thành bài, các em nên đọc lại thành tiếng để kiểm soát cách hành văn, cách dùng từ, cách sắp xếp các hình ảnh, cách chấm câu và chính tả có gì sai sót không. Làm bài : Khi làm bài ta cần lưu ý: Viết chữ thật ngay ngắn, cẩn thận. Sau mỗi phần, phải xuống dòng. Không được viết tắt trong bài văn. Không được viết chữ số, ngoại trừ ngày, tháng, năm hay niên hiệu của một vị vua. * Đọc lại bài: Cuối cùng chúng ta nên đọc lại bài vài lần để kiểm soát xem có các lỗi về chính tả, về dấu câu hay không. 6 g) Hướng dẫn học sinh xây dựng từng đoạn trong bài văn miêu tả * Đoạn văn mở bài: Trong bài Tập làm văn, mở bài là phần thứ nhất, nhằm mục đích giới thiệu đối tượng sẽ nói trong phần thân bài. Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài: ''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay đã được bốn tháng." - Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách mở bài nào? (trực tiếp); - Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn: "Nhà em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em." Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở bài một cách hợp lý nhất. * Phần thân bài: Thân bài sẽ nói rõ về đối tượng đã được giới thiệu ở phần mở bài. Yêu cầu của phần thân bài là phải thể hiện được trọng tâm và yêu cầu của đầu đề. Trong phần thân bài, những ý tưởng viết ra cần chân thật, đúng với những điều đã thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều quan trọng là các em phải biết chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào thì bài văn mới nổi bật được trọng tâm, thoát khỏi bệnh khuôn sáo, máy móc. Chẳng hạn: Tả cây vú sữa thì chú ý chi tiết về trái chín mọng, da bóng, vị ngọt… Tả cây mai thì phải chú ý chi tiết về hoa: vàng tươi, các cánh đều nhau… Tả hoa dạ lý thì phải chú ý đến các chi tiết hương thơm lúc về đêm. Tả cây liễu thì phải chú ý nét mềm mại, thướt tha của cành liễu rũ … Tả con chó săn phải chú ý nét tinh khôn của nó. Tả con gà trống không thể bỏ qua cái mào đỏ, bộ lông sặc sỡ, tư thế hiên ngang của nó; trái lại con gà mái 7 thì lại chú ý tính quyết liệt chống trả với diều hâu để bảo vệ đàn con… Tránh viết một cách dàn trải, dài dòng. Một bài văn tả loài vật đâu có nghĩa là tả đủ: đầu, mình, chân, đuôi mà chúng ta cần nói được đặc điểm tiêu biểu về hình dáng, tính nết, sự hoạt động của con vật cần tả. Khi đã có dàn bài với đầy đủ chi tiết rồi, các em dựa vào đó để giảng diễn ý thành câu văn đúng ngữ pháp. Sau đó, trau chuốt lại bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa,…), sử dụng các chi tiết cụ thể, các từ tượng hình… để cho câu văn sinh động, hấp dẫn hơn. Ví dụ: “Gia đình em có nuôi một con chó rất khôn. Em hãy tả con chó đó.” Ta lập dàn ý cho phần thân bài như sau: - Hình dáng tổng quát: Tầm vóc trung bình, vạm vỡ, lông xù, màu đen; - Từng bộ phận: Chân lùn, dưới mõm có râu, mắt sáng, tinh nhanh, có hai đốm vàng, tai cụp, thính; - Hoạt động tính nết: Mừng rỡ khi chủ đi đâu về, đêm đêm giữ nhà, hiểu được tiếng người, ngoan ngoãn. Dựa vào dàn ý diễn đạt thành câu văn đúng ngữ pháp: “Con chó của em tuy tầm vóc trung bình nhưng rất vạm vỡ. Nó có bộ lông xù màu đen. Bốn chân nó hơi lùn. Dưới mõm có râu. Đôi mắt nó sáng và tinh nhanh, phía trên hai mí lại có thêm hai đốm vàng nho nhỏ. Đôi tai nó cụp xuống và rất thính. Mỗi khi em đi học về nó rất mừng. Đêm nó nằm trước cổng nhà để giữ nhà. Con chó của em dường như hiểu được tiếng người và rất ngoan ngoãn.” Sau đó chúng ta sửa lại câu văn cho hay hơn. Thí dụ: “Nó có bộ lông xù màu đen” sửa lại: “Bộ lông nó hệt như một lớp mền bông màu đen phủ kín khắp thân thể nó vậy.” “Mỗi khi em đi học về nó rất mừng” sửa lại thành: “Mỗi khi em đi học về, Mi Mi thường chạy ra mừng ríu rít. Hai chân trước chồm lên ôm ngang người em. Cái đuôi nó ngúc ngoắc lất phất những sợi lông dài như cây phất trần.” Về mặt trình bày, thân bài nên chia thành nhiều đoạn, mỗi đoạn diễn đạt một ý, bài văn sẽ rõ ràng, mạch lạc hơn. Và cũng cần lưu ý, nhắc nhở học sinh khi viết mỗi đoạn thì phải có câu mở đoạn. Câu mở đoạn là câu mang ý khái 8 quát của toàn đoạn nằm ở vị trí đầu đoạn, các câu còn lại triển khai, cụ thể hóa cho nó. Ví dụ: Tả chú gà trống nhà em. Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Chú có thân hình chắc nịch. Bộ lông màu nâu đỏ óng ánh. Nổi bật nhất là cái đầu có chiếc mào đỏ rực. Đôi mắt sáng. Đuôi của chú là một túm lông gồm các màu đen và xanh pha trộn, cao vống lên rồi uốn cong xuống nom vừa mĩ miều vừa kiêu hãnh. Đôi chân chú cao, to, trông thật khỏe với cựa và những móng nhọn là vũ khí tự vệ thật lợi hại. * Đoạn văn kết bài: Học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Các em thường làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa lại để có được những kết bài hay. Bài văn hay thì phải có cảm xúc của người viết. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa. h) Giúp học sinh nắm vững từng loại bài miêu tả trong chương trình - Miêu tả đồ vật: Đồ vật là những vật dụng do con người làm ra để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mình. Ở lớp bốn, các em chỉ tả các đồ vật nhỏ, quen thuộc như : cái cặp sách, cái bàn học, cái trống trường… - Tả cây cối: Cây cối chỉ các loại cây nói chung, có loại do người trồng, có loại mọc tự nhiên, có loại mọc trên đất, có loại ở dưới biển… Ở lớp bốn, các em chỉ tả một số loại cây quen thuộc trong một thời điểm nhất định của nó như cây hoa hồng đang ra hoa, cây chuối đang trổ buồng… Do đó, các em lưu ý điều này chỉ cần quan sát và miêu tả kỹ nó trong những thời điểm mà đề bài quy định. 9 - Tả loài vật: Loài vật nói rõ hơn là động vật bao gồm các loại sống trên trời như chim, dưới nước như cá, trên đất như thú. Có loại sống tự nhiên trong rừng ,có loại đã được thuần dưỡng thành thú nuôi trong nhà. Ở lớp bốn, các em chỉ tả các con vật quen thuộc: heo, gà, mèo, chó… Loài vật giống cây cối ở chỗ đều có sự sống nghĩa là sinh ra, lớn lên và chết đi. Loài vật khác cây cối ở chỗ nó di chuyển được. Mỗi loài vật đều có tầm vóc, hình thể khác biệt nhau. Thói quen sinh hoạt của từng loài cũng khác nhau. Khi miêu tả, các em cần nêu bật được các sinh hoạt bình thường ấy nhất là các hoạt động bộc lộ nét đẹp, tính nết và ích lợi của từng loại. i) Chuẩn bị kỹ phần củng cố bài trong các tiết Tập làm văn - Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của các em; - Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em nên ở phần củng cố bài, giáo viên không nên đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên đưa ra những đoạn văn miêu tả của những tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học, có thể đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú và từ đó các em sẽ biết chắt lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn đạt hợp lý cho bài văn của mình; Chẳng hạn, trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật”, phần củng cố bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn như sau: "Con Rô sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi: "Rô đi tắm" là nó vẫy đuôi chạy theo, ngoan ngoãn như một đứa bé được nuông chiều. Thân hình nó không hề có một con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con Rô từ bao giờ mà nó biết đi vệ sinh vào một chỗ phía sau nhà. Nó rất ý tứ. Mỗi khi có khách đến chơi nhà nó nằm im trên tấm đệm, đôi tai vểnh lên như nghe bố mẹ và khách nói chuyện. Khách đứng dậy ra về, con Rô cũng theo bố mẹ đi ra cửa như để tiễn chân khách… 10 - Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình thức; - Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn; - Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình. l) Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài viết Có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo. Mỗi loại bài thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh. Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá" nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình. Giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn. Từ đó, học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng. Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh 11 sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. 3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu vận dụng vào năm học này và báo cáo đề tài cho tổ cùng toàn thể giáo viên trong trường tham khảo. Nhân rộng cho các trường khác. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp Trước khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp bốn SS 26 Điểm 9 -10 SL % 2 7,7 Điểm 7 - 8 SL % 8 30,8 Điểm 5 - 6 SL % 9 34,6 Điểm dưới 5 SL % 7 26,9 Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp bốn tôi chủ nhiệm kết quả cụ thể như sau: SS 26 Điểm 9 -10 SL % 7 26,9 Điểm 7 - 8 SL % 12 46,2 Điểm 5 - 6 SL % 6 23,1 Điểm dưới 5 SL % 1 3,8 Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, so sánh, bài làm sinh động, giàu cảm xúc. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu. Đây là một dấu hiệu tốt góp phần nâng cao hiệu quả học tập của các em. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn người giáo viên chủ nhiệm cần: - Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả; - Khi thực hiện kế hoạch bài dạy trên lớp giáo viên nên đọc cho học sinh nghe các câu văn, có sử dụng các biện pháp nghệ thuật, giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài làm của mình; 12 - Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn./. ................, ngày ... tháng ... năm .... NGƯỜI VIẾT 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng