Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến một số biện pháp rèn kĩ năng đọc tốt cho học sinh lớp 2...

Tài liệu Sáng kiến một số biện pháp rèn kĩ năng đọc tốt cho học sinh lớp 2

.DOC
12
27
102

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: ………………………………………… 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc tốt cho học sinh lớp 2.” 2. Lĩnh vực áp dụng: Trong công tác giảng dạy ở tiểu học. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết Kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng hoạt động của ngôn ngữ. Đặc biệt ở tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng, kĩ năng đọc có ý nghĩa rất sâu sắc, đọc để nắm được ý chính của đoạn văn, biết đặt đầu đề cho đoạn văn, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong bài học. Việc đọc có ý nghĩa cơ bản đầu tiên của học sinh bậc Tiểu học. Học đọc rồi mới đọc để hiểu, đọc để chiếm lĩnh ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập. đồng thời đọc cũng là công cụ để học tốt môn khác, có tác dụng tích cực đến trình độ ngôn ngữ, trình độ tư duy của học sinh. Do đó rèn kĩ năng đọc cho học sinh có tầm quan trọng đặc biệt. Trước hết rèn cho học sinh đọc đúng đảm bảo tốc độ vừa phải đạt 50 chữ/phút sau đó mới đọc diễn cảm. Có đọc diễn cảm thì mới hiểu được ý nghĩa của nội dung văn bản và từ ngữ trong văn cảnh. Nói tóm lại phân môn tập đọc là một phân môn có tầm quan trọng to lớn với bậc tiểu học. Muốn học giỏi thì trước hết phải đọc thông, viết thạo thì các em mới nắm được nội dung bài, yêu cầu của đề. Từ đó các em mới suy luận, tìm tòi để làm bài được tốt; Thế nhưng, qua tìm hiểu bạn bè đồng nghiệp và qua thực tế giảng dạy hiện nay tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh lớp 2 còn nhiều hạn chế. Vì thế tôi băn khoăn, trăn trở và đã tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc tốt cho học sinh lớp 2. Trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp những ưu điểm và hạn chế . - Ưu điểm + Bản thân giaó viên thích nghiên cứu sâu và dạy tập đọc có hiệu quả; + Nhà trường đã trang bị đầy đủ đồ dùng dạy học (tranh, ảnh); + Đa số học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập; + Học sinh trong lớp phần đông thích môn tập đọc. - Hạn chế + Một số em đến lớp chưa tập trung chú ý nghe giảng, chưa chịu khó luyện đọc luyện viết, đi học chưa chuyên cần, phụ huynh không kiểm tra, nhắc nhở con em học tập ở nhà. Tất cả những điều trên đã dẫn đến kết quả học tập của đa số học sinh là chưa cao, nhất là phân môn tập đọc các em chỉ biết đọc, chứ đọc chưa hay; - Một số học sinh phát âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x; tr/ch; một số vần anh/ăn; ươu/iêu; ât/âc..; - Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời rạc, chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; chưa cảm thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ; - Đặc biệt do ảnh hưởng của phương ngữ các em hay sai lỗi phát âm giữa thanh ngã/thanh hỏi, thanh ngã/thanh nặng. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 3.2.1. Mục đích của giải pháp Giúp các em tự tin hơn trong học tập nhất là môn tập đọc để các em điều chỉnh việc học tập của mình theo kịp tiến độ với các bạn và đưa ra giải pháp để giúp các em nâng dần chất lượng đọc cho học sinh yếu lớp 2. 3.2.2. Nội dung của giải pháp a)Tính mới của giải pháp - Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp, đọc mẫu thật hấp dẫn để lôi cuốn học sinh. Giáo viên đọc chuẩn xác, phù hợp với từng văn bản để học sinh học tập; - Rèn cho học sinh luyện phát âm đúng chuẩn, chú ý các từ ngữ, luyện đọc những từ ngữ học sinh phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần; 2 - Học sinh luyện đọc rành mạch, đọc lưu loát cả văn xuôi, thơ ca, hò vè. Đọc đúng nhịp thơ, thể hiện ngắt nghỉ đúng chỗ, nhấn giọng các từ ngữ, biết thay đổi giọng đọc theo đúng ngữ cảnh và tình cảm của câu; - Học sinh luyện đọc diễn cảm theo hình thức phân vai, đọc biết kết hợp giảng giải của giáo viên. b) Các bước thực hiện của giải pháp Qua thực tế giảng dạy tôi đã tiến hành các biện pháp theo thứ tự sau: Sử dụng phối hợp các phương pháp hạy học - Phương pháp trực quan: Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan bằng giọng đọc của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên là hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể loại khác nhau. Có bài giọng đọc náo nức, phấn khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân cần khuyên nhủ nghĩa là mỗi bài một vẻ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại ngữ liệu, tránh đọc đều đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm, qua ánh mắt, nét mặt, nụ cười. Khi giới thiệu bài nên dùng trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp các em háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép sẵn được ngắt theo cụm từ để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ. Có thể trực quan bằng cách nghe giọng đọc hay của học sinh trong lớp; - Phương pháp đàm thoại: Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ. Các em thích hoạt động (hoạt động lời nói) giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả lời tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm trước tiên phải đọc tốt (đọc lưu loát, rõ ràng) và cảm thụ tốt bài văn bằng những câu hỏi đàm thoại để hiểu phương pháp luyện đọc. Phương pháp này đựợc dùng chủ yếu trong giờ Tập đọc dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh luyện đọc nhiều lần. Tóm lại để giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp trên một cách hợp lý sao cho giờ học không bị ngắt 3 quãng, gián đoạn. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn các em tìm ra cách đọc, luôn lấy học sinh làm trung tâm. - Phân loại đối tượng học sinh và có biện pháp cụ thể Với đối tượng học sinh phát âm chưa đúng các phụ âm đầu: s/x, tr/ch; vần dễ lẫn: ât/âc, ăt/ăc; tiếng có thanh ngã/thanh hỏi, thanh ngã/thanh nặng (do ảnh hưởng của phương ngữ). Ví dụ: “nhất định” đọc là “nhấc định” “trìu mến” đọc là “chìu mến” “bắt đầu” đọc là “bắc đầu” “sẽ” đọc là “xẽ” “nặng trĩu nỗi buồn” đọc là “nặng trỉu nổi buồn” “buồn bã” đọc là “buồn bạ” “lặng lẽ” đọc là “lặng lẹ” (Bài Bàn tay dịu dàng – Tiếng Việt 2 tập 1, trang 166) Để sửa sai cho học sinh tôi cho 2 em ngồi cạnh nhau, em đọc tốt đọc trước, em đọc yếu nghe bạn đọc rồi đọc theo các em cùng theo dõi giúp đỡ nhau; Hầu hết học sinh đã biết đọc to, rõ ràng, biết ngắt nghỉ ở chỗ có dấu câu, nhưng khi đọc những câu dài không có dấu phẩy ngăn cách giữa các cụm từ các em thường tỏ ra lúng túng. Với đối tượng này tôi ghi sẵn các câu khó cần luyện đọc ra bảng phụ, đọc mẫu giúp học sinh tìm ra cách đọc cho mình. Ví dụ: Sói sắp tóm được Dê Non/ thì bạn con đã kịp lao tới, dùng đôi gạc chắc khoẻ/ húc Sói ngã ngửa.// (Bài Bạn của Nai Nhỏ-Tiếng Việt 2 tập 1, trang 23) - Cô đã ngắt hơi chỗ nào; - Học sinh phát hiện chỗ ngắt hơi rồi đọc lại; Khi đọc thơ các em cũng gặp khó khăn vì chưa biết ngắt nhịp, tôi cũng tiến hành tương tự như trên. Ví dụ: Những ngôi sao/ thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con. (Bài Mẹ - Tiếng Việt 2 tập 1, trang 101) Ai mang nước ngọt,/ nước lành, Ai đeo/ bao hũ rượu/ quanh cổ dừa. 4 (Bài Cây dừa - Tiếng Việt 2 tập 2, trang 88) - Cô đã ngắt nhịp như thế nào; - Học sinh phát hiện chỗ ngắt nhịp rồi đọc lại. Để giúp học sinh đọc các dấu câu đúng ngữ điệu tôi hướng dẫn các em với kiểu câu cảm thì chú ý đến cảm xúc của tác giả (vui, buồn, giận dữ, hài hước,…). Với kiểu câu hỏi thì cần lên giọng ở cuối câu, nhấn giọng ở các từ để hỏi. Với kiểu câu cầu khiến giọng đọc cao hơn và nhấn giọng ở các từ cầu khiến. Tôi giúp học sinh nắm cách đọc đặc trưng của từng loại văn bản. Chẳng hạn với thể thơ lục bát các em đọc giọng êm, nhẹ, nhấn giọng ở các tiếng gieo vần. Với những bài văn xuôi chú ý ngắt hơi theo ý mạch văn dựa vào dấu câu. Để giúp các em đọc hiểu tôi cho các em đọc nhẩm, đọc thầm. Trong quá trình học sinh đọc nhẩm, đọc thầm giáo viên phải kiểm tra, đánh giá được kết quả hoạt động đọc thầm của các em để giúp đỡ, uốn nắn. Trước khi đọc thầm tôi thường giao kèm nhiêm vụ nhằm định hướng đọc hiểu (đọc để biết – hiểu – nhớ điều gì?). Cũng có thể cho học sinh đọc đồng thanh nhịp nhàng, vừa phải (tránh đọc quá to) ở những bài học thuộc lòng để học sinh chóng thuộc bài. Đọc thầm giúp học sinh tập trung suy nghĩ để hiểu, do đó tôi rèn luyện nhiều cho học sinh kết hợp với phần tìm hiểu bài. Để giúp học sinh hiểu nghĩa từ khó trong bài giáo viên cần giải nghĩa bằng nhiều cách: cho học sinh đọc chú giải (nếu có) rồi tìm từ trái nghĩa, thay thế từ đó bằng một từ đồng nghĩa, đặt câu với từ đó… Giáo viên nêu tác dụng của từ đó trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ đề bài học, tránh quá rộng, quá sâu, vượt quá trình độ của các em. Ví dụ: Để giúp học sinh hiểu nghĩa từ “hoành hành” trong bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió” tôi cho học sinh - Đọc chú giải; - Đặt câu có từ “hoành hành”; Giáo viên giảng: Ngỡ rằng rời hang núi về đồng bằng cuộc sống của loài người sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Nhưng không! Cuộc sống của loài người vẫn chưa yên ổn khi gặp phải Thần Gió. 5 - Luyện phát âm đúng Yêu cầu đầu tiên đối với khả năng đọc chính xác, luyện đọc chính xác thực chất là rèn luyện phát âm đúng cho học sinh; Để dạy cho học sinh phát âm đúng tôi không quên rèn kĩ năng nghe . Ở đây vai trò giọng đọc của giáo viên rất quan trọng. Giữa nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc. Lỗi mà học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân : + Nguyên nhân chủ quan: như nói lắp, nói ngắn lưỡi khó đọc do tật bẩm sinh; Ví dụ: s / x: sung / xung, sâu / xâu, ... + Nguyên nhân khách quan: do cách phát âm sai của phương ngữ tạo cho các em thói quen nghe và nói từ khi nhớ; + Để chữa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ âm và ý nghĩa từ; + Cho học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần. Ví dụ: phát âm s / x: + Khi phát âm s (sờ): phải uốn lưỡi, hơi thoát ra chân răng đầu lưỡi; + Khi phát âm x (xờ): hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng. Ví dụ: phát âm tr / ch: Phát âm tr (trờ): hơi ra qua đọng tác bật đầu lưỡi với chân răng; - Mặt khác là việc sửa sai qua giảng nghĩa từ. Ví dụ: xâu / sâu : ''xâu kim'' với ''sâu trong lòng đất '' - Luyện đọc Từ chỗ đọc đúng âm, đúng thanh tiến tới cho học sinh đọc được mức độ cao hơn: đọc rành mạch tốc độ đọc 50 tiếng/phút, nắm được ý cơ bản của bài, đọc lưu loát và bước đầu đọc diễn cảm bằng đọc thành tiếng và đọc thầm, đọc chữ in và đọc chữ viết; Tôi chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắm cho từng 6 học sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và tham gia nhiều lần đọc trong một tiết học. Xen kẽ hợp lý đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt. + Đọc rành mạch - Cho học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc từng câu chứ không đọc từng con chữ, từng chữ rời rạc. Ví dụ: Bài thơ: ''Tiếng chổi tre '': Khi cơn giông // Vừa tắt / Tôi đứng trông // Trên đường lạnh ngắt // + Đọc văn xuôi Ngoài việc hướng dẫn đọc theo từ, cụm từ tôi tiến tới hướng đẫn đọc theo câu. Cuối câu học sinh phải biết lên giọng hoặc xuống giọng phù hợp. Nếu câu có dấu chấm cảm ta phải đọc thay đổi giọng theo đúng ngữ cảnh. Ví dụ: Bài thơ ''Thương ông''. Khi đọc câu thơ có dấu chấm cảm (!) thì đọc lên giọng: Không đau! Không đau! Khỏi rồi! Tài nhỉ! Ví dụ: Bài ''Voi nhà'' Toàn bài đọc với giọng linh hoạt. Cuối câu có dấu chấm cảm thì đọc lên cao giọng đoạn đầu thể hiện tâm trạng thất vọng khi xe bị sự cố: ''Thế này thì hết cách rồi!'' Đoạn 2: Giọng hoảng hốt khi voi xuất hiện: ''Chạy đi! Voi rừng đấy!''. Tôi hướng dẫn học sinh biết ngắt nghỉ ở các dấu ngắt câu, ở các từ ngữ cần nhấn giọng: ''ập xuống, ngăn lại, chạy đi, vội vã'' . 7 + Đọc văn vần: Học sinh đọc văn xuôi đã khó, đọc văn vần lại càng khó hơn. Khi đọc văn vần cần chú ý tiết tấu của đoạn văn. Tiết tấu là nhịp điệu của âm nhạc, ở sách tiếng việt lớp 2 có nhiều thể văn vần chúng ta thường gặp như: Thơ lục bát, thơ đường, thơ 5 chữ, thơ 4 chữ, thơ tự do. Ở đây không phải thể thơ nào cũng giống nhau phải thay đổi theo tiết tấu của câu, bài thơ theo thể thơ nào. - Khi đọc thơ lục bát thường đọc ngắt nhịp 2/4 (ở câu 6 chữ ) và nhịp 4/4 (ở câu 8 chữ). Ví dụ: Bài thơ ''Mẹ'' Lặng rồi / cả tiếng con ve Con ve cũng mệt /vì hè nắng oi Nhà em/ vẫn tiếng ạ ơì Kẽo cà tiếng võng /mẹ ngồi mẹ ru. - Thơ 7 chữ (thơ đường): đọc theo nhịp 4/3 hay 3/4. Ví dụ: Bài thơ ''Gió''. Gió ở rất xa / rất rất xa Nhưng thơ lục bát cũng có khi đọc theo nhịp 3/3 và 3/5 Những ngôi sao / thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con. - Đọc thơ câu 4 chữ theo nhịp 2/2. Ví dụ: Bài thơ ''Tiếng võng kêu'' Có gặp / con cò / Lặn lội / bờ sông ?/ Có gặp / cánh bướm / Mênh mông / mênh mông / - Đọc thơ 5 chữ theo nhịp 2/3 hoặc 3/2. Ví dụ: Bài thơ ''Cô giáo lớp em'' Đáp lời / "chào cô ạ ! '' / Cô mỉm cười / thật tươi. / 8 Yêu thương em ngắm mãi Những điểm mười / cô cho. / Tóm lại: Khi hướng dẫn học sinh đọc thơ, tôi hướng dẫn các em đọc theo nhịp kết hợp nghĩa của từ và cụm từ. + Đọc lưu loát Từ mức độ đọc rành mạch tôi hướng dẫn các em nâng dần lên mức độ đọc lưu loát tức là biết đọc theo cụm, tốc độ đọc nhanh hơn, đọc rành mạch và theo ngữ điệu có dấu câu. Ví dụ: Bài “Câu chuyện bó đũa''. Tôi hướng dẫn đọc: lời kể chậm rãi, lời giảng giải của người cha ôn tồn. Tôi đã hướng dẫn các em nhấn mạnh ở các từ, cụm từ: ''chia lẻ ra thì yếu'', "hợp lại thì mạnh'', ''đoàn kết mới có sức mạnh''. Ví dụ: Bài "Sơn Tinh, Thuỷ Tinh'' Tôi hướng dẫn đọc đoạn 1: Giọng đọc thong thả, trang trọng lời của Vua - dõng dạc. Đoạn tả cuộc chiến đấu giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hào hùng, nhấn mạnh các từ ngữ, cụm từ: truyệt trần, một trăm ván, hai trăm nệp, chín hồng mao… + Đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Đọc diễn cảm có nhiều mức độ nhưng ở lớp 2 tôi chỉ dừng lại ở mức biết phân biệt lời tác giả, lời nhân vật, đọc văn đối thoại, đọc phân vai. Khi đọc lời tác giả giọng đọc phải phù hợp với nội dung của đoạn văn. Tôi đã cho học sinh đọc phân vai trong các bài: Ví dụ: Bài ''Cò và Cuốc'' Chia nhóm 3 học sinh đọc phân các vai: người dẫn chuyện, Cò, Cuốc. Ví dụ: Bài ''Những quả đào'' Chia nhóm 5 học sinh đọc phân các vai: người dẫn chuyện, ông, Xuân, 9 Vân, Việt. Ví dụ: Bài: ''Chuyện bốn mùa'' Chia nhóm 6 em đọc phân các vai: người dẫn chuyện, 4 nàng tiên Xuân, Hạ, Thu, Đông và Bà Đất. - Giáo viên đọc mẫu diễn cảm Giáo viên đọc mẫu một cách chuẩn xác, phù hợp với từng văn bản gây thu hút học sinh, biết hướng dẫn học sinh về cách đọc, sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các trò chơi luyện đọc, ...) phát triển kĩ năng đọc cho học sinh. Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dấn lôi cuốn được các em bắt chước cách đọc diễn cảm. Ví dụ: Bài thơ: ''Cô giáo lớp em '' Giáo viên đọc mẫu với giọng tình cảm, trìu mến, nhấn giọng ở các từ ngữ gởi tả, gợi cảm: mỉm cười, tươi, thoảng, thơm tho, ngắm mãi'' Ví dụ: Bài: ''Bà cháu''. - Đọc mẫu giọng to, rõ ràng, thong thả, phân biệt giọng đọc ở các nhân vật: + Người dẫn chuyện: thong thả, chậm rãi; + Giọng cô tiên: trầm ấm, hiền từ, nhấn giọng ở các từ "Gieo hạt đào, giàu sang, sung sướng'' + Giọng hai anh em: cảm động, tha thiết. Nhấn giọng các từ, cụm từ: ''nhớ bà , xin bà sống lại''. Ví dụ: Bài thơ: ''Đàn gà mới nở'' Toàn bài thơ đọc với giọng âu yếm, hồn nhiên, vui tươi; chú ý thay đổi giọng đọc từng khổ thơ. + Khổ thơ 1: Giọng đọc trải dài, dịu dàng, vui tươi khi tả đàn gà con đáng yêu; 10 + Khổ thơ 2: Nhịp đọc dồn dập hơn khi tả sự nguy hiểm cả đàn gà con phải núp vào đôi cánh của gà mẹ; + Khổ thơ 3: Trở lại nhịp đọc khoan thai vì nguy hiểm đã qua đi; + Khổ thơ 4, 5: Nhịp đọc trải dài tả vẻ đẹp của đàn gà con. - Quan tâm đúng lúc đối với học sinh Học sinh tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên trong sáng, hiếu động nhưng cũng rất nhạy cảm. Khi đã để mất lòng tin của các em thì dễ dẫn các em đến tâm trạng chán nản và có thể có những hành vi ngỗ ngược. Giáo viên cần phải đối xử công bằng với từng học sinh, thương yêu tôn trọng, chăm sóc, dạy dỗ các em tận tình. Vì lẽ đó trong các giờ học tôi thường quan tâm hơn tới các học sinh yếu, quan tâm ngay từ việc sắp xếp chỗ ngồi. Tôi xếp các em ngồi ở bàn đầu để tiện theo dõi trong các tiết học, xếp xen kẽ các em đọc tốt vào các bàn để các em giúp nhau nhận xét, sửa sai trong hình thức đọc nhóm. - Động viên khen ngợi kịp thời Xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích được thầy cô giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng thầy cô giáo, luôn cố gắng làm nhiều việc tốt để được thầy cô giáo chú ý, khen ngợi. Ngược lại nếu không được cô giáo động viên kịp thời thì các em cũng rất dễ thất vọng. Vì vậy khi các em đọc có tiến bộ hơn dù rất ít tôi cũng kịp thời khen ngợi, khuyến khích các em để các em phấn khởi, vui vẻ và tự tin hơn. Mặt khác tôi không chê bai học sinh một cách lộ liễu trước cả lớp. Đối với những em chậm tiến bộ tôi nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách khắc phục chứ không phê bình gay gắt. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp Qua nghiên cứu thực hiện, tôi đã vận dụng tốt các giải pháp trên vào thực tế giảng dạy cho lớp có hiệu quả. Đạt hiệu quả là nền tảng vững chắc để giúp các em học tốt ở các lớp cao hơn. Tôi đã nhân rộng giải pháp này cho giáo viên trường tôi và cho tất cả trường bạn thực hiện. Tùy theo thực tế của từng trường, lớp mà có thể điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp để việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 đạt hiệu quả. 11 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp Qua một thời gian giảng dạy ở lớp 2 áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy: - Kĩ năng đọc của học sinh lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt, học sinh đọc lưu loát, diễn cảm hơn nhiều so với trước đây; - Học sinh hứng thú hơn trong học tập đặc biệt là phân môn tập đọc. Từ đó các em cảm thấy yêu thích tiếng việt hơn; - Số học sinh đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm rất nhiều, số học sinh trung bình về phần đọc đã được nâng lên; - Không còn học sinh phát âm sai các từ ngữ có âm, vần, thanh khó đọc; - Học sinh biết đọc phân biệt lời người kể và lời các nhân vật; - Không còn ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện mà đọc trôi chảy nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm, cảm thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ; - Đặc biệt càng gần cuối năm học kĩ năng đọc của các em càng thành thạo, đáp ứng được yêu cầu đặc trưng của phân môn. Các em ham thích đọc sách báo nhiều hơn trước, cách diễn đạt mạch lạc trong giao tiếp và học tập cũng tốt hơn nhiều. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng muốn thành công phải luôn kiên trì và bền bỉ tìm mọi cách khắc phục khó khăn thì mới đem lại kết quả tốt. Muốn các em học tập đạt kết quả tốt giáo viên chủ nhiệm phải bền bỉ, kiên trì, có năng lực về chuyên môn, có ý thức học hỏi, không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm những phương pháp tối ưu để áp dụng trong giảng dạy đạt hiệu quả./. Mỏ cày Nam, ngày 7 tháng 4 năm 2016 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng