CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: ………………………………………
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp phụ đạo cho học sinh chậm tiếp thu
ở phân môn Học vần lớp 1”.
2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Cũng như các môn học khác, muốn học tốt phân môn Học vần lớp 1.
Trước hết mọi học sinh phải có lòng say mê, hứng thú học tập. Bên cạnh đó giáo
viên đặc biệt chú ý đến tâm sinh lí của học sinh cũng như khả năng tiếp thu kiến
thức của các em. Do vậy giáo viên phải làm sao ngay từ những ngày đầu cắp
sách đến trường các em phải nhận biết sơ giản nhất những kiến thức cơ bản chữ
cái ghi âm; tiếp theo đọc, viết được các chữ cái ghi âm đó, tiến đến các em ghép
và đọc được vần, tiếng, từ ngữ và câu ứng dụng.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, mỗi học sinh có trình độ nhận thức
không giống nhau dẫn đến việc tiếp thu kiến thức không đồng đều. Đối với bất
kì một lớp học nào thì việc có nhiều đối tượng học sinh vẫn là chuyện bình
thường.
Vì thế để chất lượng giảng dạy các môn học nói chung phân môn Học vần
nói riêng được tốt, đòi hỏi giáo viên đứng lớp phải quan tâm và phải có biện
pháp cụ thể đối với từng đối tượng học sinh. Trong thực tế giảng dạy lớp 1, tôi
đã nghiên cứu thực hiện và đã đúc kết thành đề tài: “Một số biện pháp phụ đạo
cho học sinh chậm tiếp thu ở phân môn Học vần lớp 1”.
a) Ưu điểm
- Đa số các em có học Mẫu giáo nên có ý thức học tập;
- Phụ huynh có quan tâm đến việc học của các em nên sắm đầy đủ sách
vở, đồ dùng học tập;
1
- Giáo viên được cung cấp thiết bị dạy học như: Bộ đồ dùng Tiếng Việt,
một số tranh ảnh, bảng phụ, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
b) Hạn chế
- Đa số giáo viên khi đứng lớp có vận dụng đổi mới phương pháp nhưng
chưa đạt hiệu quả cao vì giáo viên còn ảnh hưởng phần nào thói quen nói nhiều
hay lặp lại câu trả lời của học sinh; nhận xét thay cho học sinh. Chính vì lẽ đó
mà còn hạn chế khả năng phát triển của học sinh;
- Tổ chức phụ đạo còn chung chung không có biện pháp cụ thể cho từng
đối tượng học sinh nên chưa hạn chế tối đa số lượng học sinh chậm tiếp thu
phân môn Học vần;
- Một số phụ huynh học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn; nhà xa hoặc
thấy con mình học yếu còn tư tưởng: “ Năm nay học không nổi năm sau ở lại
học lớp 1 cho cứng”.Vì vậy họ không chịu khó dành thời gian đưa con đi học
cũng như dạy con học ở nhà từ đó dần dần các em học chậm tiếp thu;
- Bên cạnh đó một số phụ huynh chưa nắm được nội dung chương trình
sách giáo khoa mới đặc biệt là phương pháp hướng dẫn các em học ở nhà;
- Một số gia đình thuộc diện nhà nghèo cha mẹ lo đi làm mướn đôi khi
không đưa đón các em được dẫn đến các em phải nghỉ học;
- Lứa tuổi các em còn ham chơi hơn ham học, chưa hiểu được tầm quan
trọng của việc học;
- Bên cạnh đó còn một số em hay quên, mới dạy thì đọc được, viết được
nhưng khi về nhà hay qua một hôm sau thì không nhớ hoặc nhớ lẫn lộn dẫn đến
trình trạng đọc, viết không đúng;
- Các em hay đọc vẹt, bắt chước rất tốt và nhanh. Các em có thể đọc làu
làu hoặc nhìn tranh đọc nhưng chưa chắc các em nhớ được mặt chữ. Nếu giáo
viên không phát hiện thì sau một thời gian các em sẽ hỏng kiến thức;
- Một số em hay lơ là thiếu tập trung thường nhận dạng, phát âm lẫn lộn
các âm, vần,… có đặc điểm gần giống nhau về cách đọc, cách viết.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
2
Tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp giúp đỡ học sinh chậm tiếp thu
phân môn Học vần; nâng chất lượng đọc, viết cho học sinh này.
3.2.2. Nội dung của giải pháp
Tính mới của giải pháp:
- Khắc phục những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí của học sinh khi mới vào
lớp 1 để các em háo hức thích được làm “học sinh”, thích đến trường, đến lớp;
- Đổi mới phương pháp dạy học hình thành được khả năng tự học ở học sinh;
- Chia đối tượng học sinh này ra thành từng nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống
nhau ngay từ những ngày đầu năm học có phương pháp phụ đạo cho từng nhóm;
- Kết hợp với phụ huynh học sinh sau một tháng giảng dạy trao đổi cặn kẽ
về đặc điểm của từng nhóm học sinh.
Các bước thực hiện của giải pháp:
a) Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt
tâm lí khi mới vào lớp 1
- Sự chuyển tiếp từ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi
Mầm non sang hoạt động học là hoạt động chủ đạo của học sinh Tiểu học, làm
cho các em gặp những khó khăn về mặt tâm lí. Khi đến tuổi đi học trẻ thường
háo hức, chờ đợi, thích được làm “học sinh”, thích đến trường, đến lớp. Tuy
nhiên tâm lí này chưa được bền vững khi gặp phải các khó khăn trong học tập,
các em dễ chuyển sang chán học…Vì vậy giúp các em khắc phục vượt qua các
khó khăn trở ngại về tâm lí ở đầu lớp 1 sẽ tạo điều kiện cho các em vươn lên đạt
kết quả trong học tập;
- Để làm tốt điều đó, tôi luôn gần gũi, chăm sóc uốn nắn các em, tạo cho
các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vì lứa tuổi các em là
hiếu động, khả năng tập trung chú ý chưa cao. Thật là một cực hình nếu các em
phải ngồi im không nói, chẳng cựa quậy, cấm động đậy. Vì cái miệng lúc nào
cũng huyên thuyên, cái tay khó mà để yên một chỗ, cái óc chẳng thể thiếu điều
để suy nghĩ. Vì vậy, tôi cần hướng tính năng động của các em vào hoạt động có
mục đích để giờ học đạt hiệu quả;
3
- Trong giảng dạy trước đây, chủ yếu tôi đặt câu hỏi cho từng học sinh trả
lời, không cho trả lời tập thể, hạn chế đồng thanh. Vì vậy một số em không được
gọi thì không có việc để làm. Những em này không tập trung suy nghĩ, không
khí lớp học không sôi nổi cho nên tôi nghĩ phải làm sao cho các em vui mà học,
chơi mà học, vừa học vừa chơi. Chơi là hình thức, vui là tính chất, học là mục
đích cuối cùng. Muốn được như vậy thì hình thức cung cấp kiến thức, kĩ năng
cho học sinh phải phong phú không chỉ khô khan: cô giảng trò nghe, cô hỏi trò
trả lời mà cần phải tổ chức cho từng học sinh được tham gia hoạt động;
- Cụ thể ở bài 55: Ôn tập các vần vừa học có kết thúc bằng âm n. Thay vì
tôi đặt câu hỏi cho học sinh nêu những vần đã học có âm cuối là n thì tôi hình
thành bảng ôn rồi cho học sinh luyện đọc. Tôi đã uyển chuyển biến cái mệnh lệnh
khô khan ấy bằng trò chơi truyền điện: đầu tiên tôi nêu một vần có âm cuối n rồi
gọi một học sinh khác em này có nhiệm vụ nêu tiếp một vần khác có âm cuối là n
nhưng không được trùng với vần trước và không được chậm quá 5 giây. Nếu
xong em có quyền gọi bạn khác nêu. Cứ như thế cho đến lúc tôi thấy đủ số vần thì
dừng lại. Hình thức vui chơi này, tuy chỉ từng em nói nhưng vẫn gây được hào
hứng và sôi nổi vì tất cả các em trong tư thế chuẩn bị đón nhận luồng điện truyền
đến. Các em còn hứng thú vì đây không phải là lệnh của cô giáo mà là của bạn bè
và bản thân các em được bạn gọi và sau đó em được gọi bạn;
- Để khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến ngoài việc khen ngợi
tuyên dương những ý đúng, ý sáng tạo, tôi cũng không bát bỏ những ý kiến chưa
hợp lí của các em một cách thô bạo mà tôi luôn nhẹ nhàng, hóm hỉnh dẫn dắt các
em phát biểu vào trọng tâm vấn đề. Còn đối với những học sinh chậm tiếp thu hay
nhút nhát tôi vẫn chấp nhận những ý kiến mà các em lặp lại của bạn hay của cô.
Tôi thiết nghĩ từ từ động viên các em phát biểu một cách độc lập. Đối với học
sinh lớp 1 giáo viên nên khen ngợi kịp thời khi các em hoàn thành nhiệm vụ đồng
thời động viên các em chưa hoàn thành nhiệm vụ. Tránh việc đơn thuần chỉ dùng
điểm để thưởng hay phạt các em mà cần động viên khuyến khích là chính;
- Tôi luôn suy nghĩ tìm ra nhiều cách tuyên dương, khen ngợi kịp thời khi
các em có dấu hiệu tiến bộ; như tặng hoa mỗi khi các em ngoan hay học tiến bộ
4
sau đó cuối tuần tổng kết lại, em nào có nhiều bông hoa tôi tuyên dương khen
ngợi trước lớp nhiều lần như thế. Học sinh lớp tôi có tiến bộ rất nhiều trong học
tập đặc biệt là những học sinh chậm tiếp thu;
- Việc tạo cho các em một không khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi thoải
mái, cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là 1 ngày vui với nhiều trò chơi
học tập. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp các em khắc phục vượt qua những
khó khăn trở ngại về mặt tâm lí khi mới bước vào lớp 1.
b) Đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự học ở
học sinh
- Theo cách dạy truyền thống các em đến trường chỉ nhận được lượng
kiến thức duy nhất từ thầy cô. Những kết luận bài học đều do thầy cô cung cấp.
Cách dạy học như thế tạo cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động.
Chính vì thế chưa hình thành khả năng tự học ở học sinh;
- Do đó, muốn hình thành cho học sinh kĩ năng tự học thì tôi phải lựa
chọn, phối hợp nhiều hình thức giảng dạy như: cá nhân, nhóm, cả lớp. Tôi luôn
nghiên cứu bài dạy đề ra mục tiêu cho sát, rõ về kiến thức, kĩ năng, thái độ
không chung chung quá nặng so với trình độ học sinh;
- Xây dựng cho mình kế hoạch bài dạy sát với trình độ của học sinh, làm
sao cho tất cả học sinh đều làm việc như vậy các em sẽ tập trung chú ý vào bài
giảng của thầy cô;
- Tôi phải chăm chút từng đối tượng học sinh nhất là học sinh chậm tiếp
thu theo hướng cá thể hóa dạy học. Tôi thường xuyên đi đến từng nhóm, từng
học sinh để giúp đỡ các em, mối thân thiện sẽ hình thành từ đây và các em sẽ
bộc lộ những suy nghĩ, hiểu biết của mình với giáo viên. Tôi luôn yêu cầu cao
đối với bản thân và xác định các yếu tố quyết định sự thành công của giờ học là
phương pháp dạy của người thầy và học của trò. Vì vậy, tôi luôn rèn luyện cho
mình khi dạy không nói thừa cũng như không làm thừa thao tác, câu hỏi phải
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn làm được điều này, trước tiên tôi
xây dựng kế hoạch bài dạy, trong việc xây dựng kế hoạch bài dạy tôi quan tâm
nhất là xác định thật kĩ mục tiêu của bài (phạm vi kiến thức cần được cung cấp)
5
tránh giảng thừa cũng như giảng thiếu kiến thức cho học sinh. Sau khi xác định
được phạm vi kiến thức, để kiến thức bài giảng thành kiến thức của học sinh thì
điều quan trọng thứ hai là phải lựa chọn phương pháp làm sao cho phù hợp để
cho tất cả học sinh trong lớp hiểu được (đặc biệt chú ý đến đối tượng học sinh
chậm tiếp thu);
- Ngoài ra, tôi cần phải tạo không khí lớp học sinh động từ khâu giới thiệu
bài, hình thành bài mới như thế nào để lôi cuốn các em tham gia hoạt động một
cách tích cực.
- Tôi cũng rèn cho các em biết cách sắp xếp và sử dụng đồ dùng học tập
như thế nào cho nhanh, chính xác. Cụ thể ở Tiết 1 môn học vần tôi hướng dẫn
cho các em cách sắp xếp đồ dùng học tập thế nào cho nhanh, chính xác: sách
giáo khoa, bảng con, bảng cài để thành chồng;
- Vì đầu tiết học tôi kiểm tra kiến thức cũ ở sách giáo khoa, rồi viết ở
bảng con, khi sang bài mới giáo viên cho học sinh hình thành vần mới ở bảng
cài. Sau đó viết bảng con và cuối cùng đến đọc sách giáo khoa. Sau mỗi lần sử
dụng cho học sinh đặt xuống phía dưới cùng như thế tạo cho các em thói quen
ngăn nắp sử dụng không mất thời gian.
c) Chia đối tượng học sinh chậm tiếp thu ra thành từng nhóm nhỏ có
đặc điểm gần giống nhau
- Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi thường xuyên theo dõi kết quả
học tập của các em với nhiều hình thức kiểm tra để nắm được số lượng học sinh
yếu phân môn học vần. Từ đó có phương pháp phụ đạo cho thích hợp đối với
từng đối tượng. Nếu giáo viên không phát hiện kịp thời thì các em dần dần hỏng
kiến thức rồi các em sẽ chán học;
- Sau khi nắm được đối tượng học sinh chậm tiếp thu phân môn Học vần,
tôi không áp dụng phụ đạo một cách chung chung cho tất cả các đối tượng mà
tôi tiến hành phân chia đối tượng học sinh này ra thành nhiều nhóm nhỏ có đặc
điểm gần giống nhau và có phương pháp phụ đạo cho từng nhóm:
6
+ Nhóm học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học: Các em này có
khả năng tiếp thu được kiến thức. Nhưng các em còn ham chơi và hiếu động nên
không tập trung trong giờ học dẫn đến các em chưa nắm được kiến thức;
+ Nhóm đọc được nhưng viết chưa đúng: Các em có khả năng đọc
được nhưng do chưa nắm được qui trình, cách viết. Có khi các em nhìn chữ thì
đọc được nhưng khi giáo viên đọc thì các em không nhớ cấu tạo, qui trình viết
hoặc nhớ lẫn lộn nên không viết được hay viết không đúng;
+ Nhóm không đọc được, không viết được: Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là do tư duy các em phát triển chậm chưa qua học lớp mẫu giáo, chưa
được gia đình quan tâm.
d) Tiến hành phụ đạo từng nhóm nhỏ
- Nhóm học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học: Để các em có ý
thức tốt tập trung nghe giảng. Ở giờ học trên lớp giáo viên cần thường xuyên
nhắc nhở quan tâm đến các em, gọi các em phát biểu, đọc bài với câu hỏi vừa
sức với các em. Cần động viên khen ngợi khi thấy các em có tiến bộ. Bên cạnh
đó giáo viên cần tạo cho không khí lớp học thoải mái bằng các hình thức trò
chơi, câu đố có liên quan đến bài học.
Khi dạy bài: O – C giáo viên có thể nêu câu đố nhỏ
Nét tròn em đọc chữ O
Khuyết đi một nữa sẽ cho chữ gì? (C )
Không dấu trời rét nằm cong (CO)
Thêm huyền bay lả trên đồng cỏ xanh (CÒ)
Có hỏi xanh tươi mượt mà
Trâu bò vui gặm nhẩn nha từng đàn (CỎ)
Học sinh suy nghĩ rồi ghi kết quả vào bảng con, giáo viên nhận xét khen
ngợi những học sinh giải đúng.
Hoặc trò chơi mà các em thích.
Ví dụ: Trò chơi hái hoa
Ở mỗi bông hoa giáo viên có ghi âm vần, tiếng, từ mới học hay đã học.
Sau đó cho một số em lên bảng hái và đọc to cho cả lớp nghe. Giáo viên nhận
7
xét khen ngợi những em đọc đúng động viên khuyến khích những em đọc chưa
được cố gắng ở lần sau.
Đến cuối tiết học tôi quan tâm đến đối tượng này xem các em có nắm
được kiến thức hay chưa? Nếu chưa nắm được tôi cần chú ý nhiều hơn ở tiết phụ
đạo cho đến khi các em nắm được kiến thức mới thôi. Dần dần sẽ thúc đẩy được
động cơ học tập của các em, nếu chúng ta không quan tâm, các em sẽ chán học
dẫn đến mất căn bản không nắm được kiến thức.
- Nhóm đọc được nhưng viết chưa đúng: Để khắc phục được tình trạng
này tôi cần phải lưu ý các em nhiều hơn trong tiết học vần lúc luyện viết ở bảng,
vở tập viết. Ngay từ những bài đầu cần cho các em nắm vững thuật ngữ: “Dòng
kẻ”; “Ô li” tên gọi các nét, cách viết các nét một cách chắc chắn thì khi vào dạy
môn tập viết chữ cái rất thuận lợi. Một nét có độ cao mấy ô li bắt đầu và kết thúc
ở dòng kẻ nào. Giáo viên chấm một chấm nhỏ ở điểm đặt bút và điểm kết thúc,
chỉ đường lia bút để cho các em viết theo. Học sinh nắm được cách viết các nét
thì dễ dàng nắm được cấu tạo chữ cái, viết tốt được chữ cái thì việc nối các chữ
cái thành chữ thì không mấy khó.
Chẳng hạn, khi hướng dẫn học sinh viết chữ h, giáo viên chấm một chấm
nhỏ lên bảng có kẻ sẵn ôli ở dòng thứ hai từ dưới đếm lên làm điểm đặt bút và
chấm một chấm nữa ở dòng kẻ thứ 5 chỉ độ cao 5 ôli và chấm một điểm nữa ở
dòng kẻ 2 chỉ điểm kết thúc. Giáo viên dùng viết chỉ đường lia bút cho học sinh,
viết theo bắt đầu từ điểm đặt bút, viết nét khuyết trên 5 ô li sau đó viết nét móc
2 đầu kết thúc dòng kẻ thứ 2.
Nguyên nhân dẫn đến các em viết chưa đúng là do các em chưa nắm được
cấu tạo và qui trình viết các nét mà tôi không thể hướng dẫn ở lớp vì không có
thời gian cho đến khi phụ đạo tôi sẽ hướng dẫn lại cụ thể cho các em này. Vì có
nắm được các nét cơ bản thì các em sẽ viết được các chữ rõ ràng, đúng trình tự
tiến đến các em viết vần, tiếng, từ nhiều lần vào vở để các em ghi nhớ.
- Nhóm không đọc được, không viết được: Đây là một trong những đối
tượng tương đối khó, giáo viên cần phải tốn nhiều thời gian và công sức nhất,
khi học chính khóa cũng như lúc học phụ đạo.
8
Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hóa kiến thức kỹ năng cho
các em. Khi chưa nắm rõ kiến thức các em thường ghi nhớ một cách máy móc.
Bên cạnh đó giáo viên cần khéo léo sắp xếp cho các em học sinh chậm tiếp thu
ngồi cạnh một học sinh học tốt phân môn này nhằm tạo điều kiện cho các em có
thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Sự có mặt kịp thời của giáo viên trước
những khó khăn của học sinh chậm tiếp thu khi làm bài có tác dụng nâng cao
niềm tin cho các em trong học tập.
Trong tiết học, giáo viên cần cho các em phát âm nhiều lần để các em
nhận dạng được âm cũng như vần mình đã học một cách chính xác rồi viết vào
bảng. Khi đến tiết phụ đạo củng cố lại cho các em thuộc các nhóm âm vần có
điểm giống nhau để các em dễ phân biệt.
- Nhóm chữ cái có nét cong: e, o, a, ô, ơ, g, …
- Nhóm có nét khuyết: h, y, k, l, b.
Khi dạy giáo viên có thể dùng thẻ chữ để cho các em nhận dạng, phát âm.
Nếu phát âm đúng âm nào thì cho viết ngay âm đó vài lần cho học sinh nắm.
Ở tiết phụ đạo, tôi cho các em viết các nét có điểm giống nhau mỗi nét
một dòng.
- Nhóm có nét thẳng, nét đứng, nét xiên, nét ngang, nét hất;
- Nhóm có nét móc;
- Nhóm có nét khuyết;
- Nhóm có nét thắt.
Khi các em viết thành thạo các nét, các âm cơ bản, tiến hành cho các em
viết các âm, vần có đặc điểm gần giống nhau mỗi âm, vần từ 1- 2 dòng vừa viết
vừa đọc nhẩm cho ghi nhớ.
Để tiết học đạt hiệu quả không mất nhiều thời gian, khi dạy tôi linh động
ghép các nhóm có đặc điểm gần giống nhau để dễ theo dõi và sửa sai cho học
sinh cũng như bao quát được các nhóm.
Đối với các em học sinh chậm tiếp thu, khi viết tiếng thành chữ dễ sai
phần vần. Do đó khi đánh vần các em chỉ đọc được tên âm đầu, tên vần, tên dấu
9
thanh mà ít lập lại cấu tạo vần, giáo viên lầm tưởng các em đã nắm được cấu tạo
vần.
Ví dụ: bờ- ong- bong- sắc- bóng; sờ- an- san- huyền- sàn.
Nhưng các em không biết phải viết ra sao, các em còn lúng túng ở chỗ
này. Vậy khi đọc cho các em viết tiếng “ Toán” học sinh có thể viết thành tóa
hay tón. Để khắc phục chỗ này tôi cho các em yếu đánh vần tờ-o-a-nờ-oan; tờoan – toan – sắc – toán. Vì thế, khi các em viết thì phần vần sẽ đầy đủ và chính
xác hơn.
d) Kết hợp với phụ huynh học sinh
Sau một tháng giảng dạy, tôi nắm được một số học sinh chậm tiếp thu
môn Tiếng Việt của học sinh lớp mình nói chung phân môn Học vần nói riêng.
Ngoài việc họp tất cả phụ huynh học sinh, tôi tiến hành mời phụ huynh học sinh
theo từng thời điểm của từng nhóm để trao đổi cặn kẽ về đặc điểm của từng
nhóm học sinh. Từ việc trao đổi từng nhóm riêng lẻ tôi và phụ huynh học sinh
có điều kiện bàn bạc để tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những hạn chế của các
em.
Hằng tháng, giáo viên cần đến thăm gia đình học sinh để báo cáo kết quả
học tập cũng như những biểu hiện thất thường của học sinh để cho phụ huynh
nắm mà có biện pháp cụ thể đối với các em hoặc giáo viên trao đổi với phụ
huynh qua điện thoại.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Đề tài này áp dụng với các lớp 1 ở trường Tiểu học tôi đang công tác và
nhân rộng đến các trường Tiểu học trong huyện, nhằm góp phần hạn chế phần
nào tình trạng học sinh chậm tiếp thu ở phân môn Học vần ở lớp 1.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng giải pháp
Qua nhiều năm nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp để phụ đạo cho
học sinh chậm tiếp thu phân môn Học vần lớp 1 vào lớp mình phụ trách. Tôi
nhận thấy:
10
- Các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em biết đọc các âm, vần, tiếng, từ và
biết tìm tiếng mới, từ mới;
- Những em hay lơ là thiếu tập trung trong giờ học nay các em đã hào
hứng tham gia một cách sôi nổi, càng ngày các em được phụ đạo thể hiện rõ nét
tiến bộ của mình;
- Học sinh đạt yêu cầu cơ bản tăng, số học sinh chưa đạt yêu cầu cơ bản giảm;
- Đặc biệt các em rất tự tin, hứng thú trong học tập. Điều này cho ta thấy
một số biện pháp phụ đạo cho học sinh chậm tiếp thu phân môn Học vần mang
lại kết quả tương đối khả quan.
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, bản thân tôi nhận thấy muốn nâng cao
hiệu quả việc phụ đạo học sinh ở phân môn Học vần giáo viên phải có:
- Tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, thương yêu gần
gũi với học sinh. Bên cạnh đó ngay từ những ngày đầu học sinh cắp sách đến
trường, Giáo viên cần phải giúp các em khắc phục vượt qua những khó khăn, trở
ngại về mặt tâm lí khi mới vào lớp 1;
- Tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, rồi giáo viên tiến hành đổi
mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự học của học sinh. Sau
đó giáo viên thường xuyên theo dõi kết quả học tập của học sinh để biết được số
lượng học sinh chậm tiếp thu phân môn Học vần. Sau khi biết được số lượng
học sinh này giáo viên tiến hành chia đối tượng học sinh này ra từng nhóm nhỏ
có đặc điểm gần giống nhau, mà lựa chọn phương pháp phụ đạo thích hợp cho
từng nhóm;
- Một số biện pháp hỗ trợ để góp phần phụ đạo học sinh chậm tiếp thu
phân môn Học vần lớp 1 thành công đó là thường xuyên kết hợp với cha mẹ của
các em để báo cáo kịp thời kết quả học tập cũng như những thay đổi của các em
trong quá trình học tập mà nhắc nhở giáo dục các em.
Lớp tôi đạt kết quả cụ thể: Cuối học kì I (2015 -2016): Hoàn thành: 27
HS: 93,1%; Chưa hoàn thành: 2 HS: 6,9%. Theo khảo sát đến cuối tháng 2 năm
2016 ( Tuần 24): Hoàn thành: 29 HS: 100%./.
................, ngày 15 tháng 4 năm 2016
11
12
- Xem thêm -