Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng mô...

Tài liệu Sáng kiến một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng môn toán lớp 3

.DOC
15
127
89

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập -Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: .......................................................................................... 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng môn Toán lớp 3. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Toán tiểu học. 3. Mô tả bản chất sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã cho biết Môn Toán có một vị trí quan trọng trong các môn học ở tiểu học, kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống của con người và là cơ sở để học tiếp môn Toán ở các bậc học trên. Mặt khác, môn Toán ở tiểu học góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện; nó giúp con người phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt và hình thành trong học sinh cách nhìn đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong thực tiễn. Đồng thời môn Toán ở tiểu học còn bồi dưỡng cho các em tính trung thực, cẩn thận, tính khoa học trong lao động, học tập, góp phần vào sự hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của con người lao động mới. Chính vì vậy mà môn Toán ở tiểu học là môn học cực kì quan trọng không thể thiếu được đối với học sinh. Nội dung chương trình môn Toán ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng bao gồm 5 mạch kiến thức: Số học, đại lượng và đo đại lượng, hình học, thống kê, giải toán. Các nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nội dung dạy học đại lượng và phép đo đại lượng giữ vai trò quan trọng nhằm giúp học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, dạy học đại lượng và phép đo đại lượng nhằm giúp củng cố các kiến thức có liên quan trong môn Toán, phát triển 1 năng lực thực hành, năng lực tư duy của học sinh. Cụ thể: việc dạy học các đại lượng và đo đại lượng, lập bảng đơn vị đo, thực hành cân đo, làm các bài tập giúp các em biết so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, biết thao tác tư duy cơ bản. Ưu điểm của giải pháp - Lớp học luôn nhận được nhận được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường; giáo viên nhiệt tình trong công tác; học sinh chăm ngoan, ham thích học môn toán; - Nội dung, phương pháp dạy học có tính khả thi, phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh; - Kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết thực phù hợp với trình độ và điều kiện học tập cho học sinh; - Thiết bị dạy học tương đối đầy đủ. Khuyết điểm của giải pháp - Việc nắm bắt phương pháp dạy học mới của giáo viên còn khó khăn, còn phụ thuộc vào tài liệu hướng dẫn; - Phần này giáo viên chưa suy luận đầy đủ, cụ thể khiến học sinh khó hình dung ra biểu tượng; - Thực hiện chuyển đổi đơn vị đo đại lượng, giáo viên chưa hướng dẫn các em nắm các kĩ năng khi thực hiện chuyển đổi đơn vị đo; - Trong dạy học một số giáo viên chưa chú ý, tập trung vào rèn kỹ năng cho học sinh; - Còn nhầm lẫn giữa đơn vị đo; - Giáo viên không có hứng thú dạy mảng kiến thức này; - Học sinh tiếp thu bài còn chậm hiệu quả chưa cao; - Đa số học sinh là con em nông dân nên việc nhắc nhở các em tự học còn nhiều hạn chế. 2 Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh lớp 3 khi học về đại lượng và đo đại lượng: Từ phía giáo viên Trong thực tế giảng dạy, còn một số giáo viên vẫn sử dụng phương pháp dạy học cũ: Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng, ghi nhớ rồi làm theo bài mẫu. Do đó, học sinh ít hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường nghèo nàn, đơn điệu, năng lực vốn có của cá nhân học sinh ít có cơ hội phát triển, nên việc học sinh mắc phải những sai lầm khi học về đại lượng và đo đại lượng là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, khi thấy học sinh mắc những sai lầm trong học toán, giáo viên chưa tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục nên những sai lầm đó vẫn còn tồn tại. Từ phía học sinh Nhận thức của học sinh tiểu học, nhất là ở các lớp đầu cấp thường là cảm tính, tư duy của các em dựa vào trực quan và quan sát. Khả năng tưởng tượng của học sinh tiểu học còn bị hạn chế. Suy luận của các em không phải là suy diễn mà là một dãy các phán đoán gián đoạn, mò mẫm, chưa phải là phán đoán có ý thức. Vì khái niệm đại lượng là một khái niệm trừu tượng, nằm tìm ẩn trong các đối tượng vật chất cụ thể nên nhận thức được các khái niệm về đại lượng và đo đại lượng đặc biệt khó khăn đối với học sinh tiểu học. Chính vì vậy, khi học về đại lượng và đo đại lượng học sinh thường mắc một số sai lầm. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến a) Mục đích của giải pháp Giúp học sinh khắc phục dần những tồn tại của việc giải quyết các bài toán có nội dung liên quan đến các đơn vị đo đại lượng. 3 Nhằm giúp học sinh nắm được phương pháp làm bài toán nội dung liên quan đến các đơn vị đo đại lượng một cách chính xác, khoa học. b) Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Tập cho học sinh có thói quen tính nhanh, tính đúng và làm thành thạo các phép tính, sử dụng các hệ thống đơn vị đo. Học tập ở đồng nghiệp nhất là các giáo viên lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, các giáo viên được nhà trường giao cho nhiệm vụ hướng dẫn học sinh giải toán olympic. c) Mô tả chi tiết giải pháp Giải pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt về đại lượng và đo đại lượng. Qua tìm hiểu và phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm của học sinh lớp 3 khi học về đại lượng và đo đại lượng, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt về đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 như sau: Giải pháp 1: Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chưa nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo. Khi dạy học về các đơn vị đo của một đại lượng cần giúp học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó. Bảng các đơn vị đo đại lượng là một hệ thống hoá các đơn vị đo đã học. Bảng còn là một công cụ giúp học sinh biết cách chuyển đổi số đo từ đơn vị này sang đơn vị khác. Để giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài ở lớp 2, tôi đã tiến hành dạy học bài: “Bảng đơn vị đo độ dài” như sau: Bước 1: Thành lập bảng Học sinh nhắc lại (có thể không theo thứ tự) tất cả các đơn vị đo độ dài đã học. Giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp lại theo thứ tự (từ trái qua phải) các đơn vị lớn hơn mét rồi đến các đơn vị nhỏ hơn mét để cuối cùng lập thành một bảng hoàn thiện như sau: 4 Lớn hơn mét km hm Mét dam m Nhỏ hơn mét dm cm mm Bước 2: Phân tích bảng Học sinh so sánh giá trị hai đơn vị liền nhau để rút ra nhận xét “Hai đơn vị đo độ dài liên tiếp hơn, kém nhau 10 lần”. Về sự liên quan giữa các đơn vị đo khác nhau trong bảng chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những mối quan hệ thường gặp như: 1km = 1000m; 1m = 100cm = 1000mm. Chưa yêu cầu học sinh suy luận gián tiếp (ví dụ: 1dm = 10cm, 1cm = 10mm, thế thì 1dm = 10 x 10mm = 100mm vì lúc này học sinh mới học đến bảng nhân 7). Bước 3: Vận dụng bảng Học sinh tính luyện tập đọc bảng, đổi đơn vị đo, làm bài tập về các phép tính với số đo độ dài. Ví dụ: 8dm + 3dm 96cm : 3 Giải pháp 2: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi suy luận. Ví dụ: Học sinh cho rằng: Sắt nặng hơn bông nên 1kg sắt phải nặng hơn 1kg bông. Cách suy luận như vậy không phải là cá biệt. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chưa hiểu bản chất khái niệm đại lượng và phép đo đại lượng. Nhận thức còn mang nặng cảm tính. Để khắc phục những sai lầm như trên tôi đã đưa ra nhũng ví dụ và yêu cầu học sinh thực hành đo trực tiếp. Chẳng hạn: tôi cho học sinh trực tiếp cân bằng cân đĩa để thấy rằng 1kg sắt không nặng hơn 1kg bông,… Giải pháp 3: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng. Ví dụ: 5m < 50cm. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chỉ quan sát số đo mà không quan sát đơn vị đo. Học sinh chưa hiểu bản chất phép đo 5 nên không phân biệt được giá trị đại lượng và số đo đại lượng. Số lớn hay số nhỏ của cùng một giá trị đại lượng phụ thuộc vào giá trị của đại lượng đó lớn hay nhỏ. Để khắc phục sai lầm này, bên cạnh việc giúp học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó, tôi đã cho học sinh làm nhiều bài tập dạng so sánh số đo đại lượng và lưu ý học sinh khi so sánh 2 giá trị của một đại lượng phải quy về cùng một đơn vị đo. Ví dụ > 6m3cm … 7m 5m6cm …. 5m < 6m3cm…. 6m 5m6cm … 6cm = 6m3cm… 630cm 5m6cm……506cm Giải pháp 4: Giúp học sinh khắc phục nhầm lẫn giữa các đơn vị đo như km và kg, hm và hg… Để khắc phục sai lầm này, khi giới thiệu đơn vị đo đại lượng mới, tôi lưu ý cho học sinh quy ước viết tắt và có sự so sánh về kí hiệu giữa đơn vị đo độ dài và đơn vị đo khối lượng, giúp học sinh nắm chắc hơn các kí hiệu này. VD: Ki –lô- mét (viết tắt là km) Ki- lô-gam (viết tắt là kg) Giải pháp 5: Giúp học sinh phân biệt được sự khác nhau giữa đại lượng độ dài và đại lượng diện tích. Để khắc phục sai lầm này, ngay từ đầu, giáo viên cần cho học sinh nắm chắc biểu tượng đơn vị đo diện tích đầu tiên được học ở lớp 3- đó là xăng-ti-mét vuông. Chính vì vậy, khi dạy học về hình thành biểu tượng đơn vị đo diện tích là xăng-ti-mét vuông tôi đã tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Giới thiệu đại lượng mới. Cho học sinh so sánh trực tiếp 2 sự vật theo một thuộc tính đặc trưng cho các đại lượng cần học. Chẳng hạn: 6 Yêu cầu học sinh phủ kín mặt bàn bằng những tờ giấy vở học sinh và cho biết: Cần bao nhiêu tờ giấy đó để phủ kín được mặt bàn. Bước 2: Nêu sự cần thiết phải có đơn vị đo. Giáo viên nêu vấn đề: Không phải lúc nào cũng có sự so sánh trực tiếp như vậy. Chẳng hạn không thể đặt một mảnh ruộng lên trên cánh rừng được hoặc không thể đặt cái sân nọ lên cái sân kia để so sánh. Do đó cần có cách so sánh gián tiếp qua một vật trung gian thứ ba. Chẳng hạn: Muốn so sánh diện tích hai cái sân, ta dùng vật trung gian là viên gạch. Cái sân thứ nhất lát hết 200 viên gạch. Cái sân thứ hai lát hết 250 viên gạch. Vậy diện tích cái sân thứ nhất bé hơn cái sân thứ hai (vì 200 bé hơn 250). Có nhiều cách chọn vật trung gian nói trên. Chẳng hạn: Tờ giấy, viên gạch… Tuy nhiên, nếu mỗi người lại chọn một loại vật trung gian to nhỏ khác nhau như vật thì rất khó so sánh các kết quả đo. Do đó cần có đơn vị “chuẩn” để đo diện tích. Một trong các đơn vị đo diện tích đó là xăng-ti-mét vuông. Bước 3: Giới thiệu đơn vị đo. - Giáo viên cho học sinh quan sát hình vuông cạnh 1cm và giới thiệu: Để thuận lợi, người ta chọn diện tích của hình vuông có cạnh bằng một đơn vị đo độ dài là xăng-ti-mét làm đơn vị đo diện tích. Hình vuông đó gọi là “Hình vuông đơn vị diện tích”. Sau đó giáo viên cho học sinh vẽ trên vở ôli hình vuông có cạnh 1cm rồi tô màu hình vuông đó và nêu “một xăng-ti-mét vuông”; - Tiếp theo giáo viên giới thiệu kí hiệu của đơn vị đo. Chẳng hạn: “Viết đầy đủ là xăng-ti-mét vuông thì quá dài, do đó ta viết tắt theo quy ước quốc tế là cm 2 và khi viết số đo diện tích cần viết số kèm theo đơn vị đo”. Giáo viên ghi rõ lên bảng kí hiệu 1cm2 rồi gọi học sinh đọc cá nhân, đồng thanh vài lần; - Mặt khác, khi phân tích sai lầm này, tôi đã chỉ rõ: chu vi là đại lượng độ dài, đơn vị đo là mét, đề-xi-mét,….còn diện tích là đại lượng diện tích, được đo 7 bằng xăng-ti-mét vuông…. hai đại lượng này không thể so sánh được với nhau. Chẳng hạn: Để đo chu vi hình vuông cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo độ dài 1cm (đoạn thẳng cạnh 1cm) và đặt dọc theo một cạnh, được 4 đơn vị đo độ dài, vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên tổng độ dài của 4 cạnh được xác định bằng phép tính: 4 x 4 = 16 và chu vi của hình vuông là 16cm. Để đo diện tích hình vuông cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo diện tích 1cm2 (hình vuông có cạnh 1cm) và đặt dọc theo một cạnh được 4 đơn vị đo diện tích. Vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên đặt được 4 hàng như thế, tổng diện tích của hình vuông được xác định bằng phép tính: 4 x 4 = 16 và diện tích của hình vuông là 16cm 2. Vì vậy không thể nói hình vuông cạnh 4cm có chu vi bằng diện tích. Giải pháp 6: Hướng dẫn học sinh thực hiện một số dạng bài tập khó về đại lượng và đo đại lượng. Bài 1b (trang 46) Viết số thích hợp vào chỗ chấm (theo mẫu). Mẫu 3m2dm = 32dm 3m2cm = ………. cm 9m3cm = ………… cm 4m7dm = ………. dm 9m3dm = ………… dm 4m7cm = ………. cm Với bài tập này, các em học sinh rất lúng túng và hay nhầm lẫn. Vậy giáo viên cần hướng dẫn các em sử dụng mối liên hệ giữa các đơn vị đo độ dài để có: 3m2cm = 3m + 2cm = 300cm + 2cm = 302cm. Vậy 3m2cm = 302cm. 4m7dm = 4m + 7dm = 400cm + 70cm = 470cm. Vậy: 4m7dm = 470cm. Hoặc có thể sử dụng bảng: 8 m dm cm 3 0 2 4 7 0 Hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh viết và nhẩm: 3(m) 0 (dm) 2 (cm) để được 3m2cm = 302cm. Và 4(m) 7(dm) 0 (cm) để được 470cm. Các câu khác học sinh có thể làm tương tự. Bài 3 (trang 46) 6m3cm ………….. 7m 5m6cm …………. 5m > 6m3cm ………….. 6m 5m6cm …………. 6m < 6m3cm ………….. 630cm 5m6cm…………. 506cm = 6m3cm ………….. 630cm 5m6cm…………. 506cm 6m3cm ………….. 603cm 5m6cm…………. 560cm Với dạng bài tập này có thể hướng dẫn học sinh tìm cách giải bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn với câu thứ nhất 6m3cm ……… 7m thì 6m3cm gồm 6m và thêm 3cm nữa chứ không đủ để thành 7m. Vậy 6m3cm < 7m Học sinh cũng có nêu cách làm như sau: Đổi 6m3cm = 603cm 7m = 700cm Từ đó suy ra ta được 6m3cm < 7m Các câu khác học sinh làm tương tự Bài 3 (trang 67) Cô Lan có 1kg đường, cô đã bán hết 400g. Sau đó cô chia đều số đường còn lại vào 3 túi nhỏ. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu gam đường? 9 Với bài tập này giáo viên cần hệ thống câu hỏi gợi mở để các em tự tìm ra cách giải. Bài toán cho biết gì? (Cô có 1kg đường, làm bánh hết 400g. Số còn lại chia đều vào 3 túi nhỏ). Bài toán yêu cầu tính gì? (Mỗi túi có bao nhiêu gam đường). Muốn biết mỗi túi có bao nhiêu gam đường ta cần biết gì? (Số đường còn lại nặng bao nhiêu gam?). Muốn tìm số đường còn lại ta phải làm gì? (Lấy 1kg – 400g). Khi thực hiện phép tính 1kg – 400g thì ta phải làm thế nào? (phải đổi 1kg = 1000g rồi mới làm phép tính trừ). Sau đó học sinh giải: 1kg = 1000g Số đường còn lại cân nặng là: 1000 – 400 = 600 (g) Mỗi túi đường nhỏ cân nặng là: 600 : 3 = 200 (g) Đáp số: 200 gam đường. Bài 4 (trang 104) Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm rồi xác định trung điểm O của đoạn thẳng đó? Với bài này giáo viên cần giúp các em hiểu trung điểm cũng chính là điểm ở chính giữa và hướng dẫn các em nêu cách làm bài: Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm. Chia nhẩm 8cm : 2 = 4cm. Đặt vạch 0cm của thước trùng với điểm A, mép thước trùng với đoạn thẳng AB, chấm điểm O trên đoạn thẳng AB sao cho ứng với vạch 4cm của thước. A O B 10 Bài 4 (trang 109) Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng: Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật thì ngày 2 tháng 9 cùng năm đó là: A. Thứ hai B. Thứ ba C. Thứ tư D. Thứ năm Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau: Xác định tháng 8 có bao nhiêu ngày? (31 ngày). Tính dần từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9: Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật. Ngày 31 tháng 8 là thứ hai. Ngày 1 tháng 9 là thứ ba. Ngày 2 tháng 9 là thứ tư. Vậy phải khoanh vào chữ C. Bài 7 (trang 166) Ngày 8 tháng 3 là ngày chủ nhật. Hỏi những ngày chủ nhật trong tháng đó là những ngày nào? Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau: Mỗi tuần có bao nhiêu ngày? Ngày 8 tháng 3 là chủ nhật. Vậy ngày chủ nhật liền trước là ngày mấy? Ngày liền sau là ngày bao nhiêu? Hướng dẫn học sinh minh họa bằng sơ đồ: Chủ nhật Chủ nhật Chủ nhật Chủ nhật Chủ nhật 11 1 8 15 22 29 Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải: Chủ nhật đầu tiên của tháng 3 là ngày 01 (vì 8 – 7 = 1). Chủ nhật thứ hai của tháng 3 là ngày 08. Chủ nhật thứ ba của tháng 3 là ngày 15 (vì 8 + 7 = 15). Chủ nhật thứ tư của tháng 3 là ngày 22 (vì 15 + 7 = 22). Chủ nhật cuối cùng của tháng 3 là ngày 29 (vì 22 + 7 = 29). Bài 7 (trang 155) Đoạn đường AB dài 2350m và đoạn đường CD dài 3km. Hai đoạn đường này có chung nhau một chiếc cầu từ C đến B dài 350m. Tính độ dài đoạn đường từ A đến D? Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? Mối liên quan các số đo độ dài của bài. Hướng dẫn học sinh cách giải: Muốn tính độ dài đoạn đường AD thì ta phải biết độ dài đoạn đường AD bằng tổng độ dài những đoạn nào? Muốn tính độ dài đoạn đường AC ta làm như thế nào? Hoặc muốn tính độ dài đoạn đường BD ta làm như thế nào? Vậy bài toán có thể giải bằng mấy cách? Cho học sinh trình bày bài giải: Cách 1: Cách 2: Độ dài đoạn đường AC là: 2350 – 350 = 2000 (m) 2000m = 2km 3km = 3000m Độ dài đoạn đường BD là: 3000 – 350 = 2650 (m) 12 Độ dài đoạn đường AD là: Độ dài đoạn đường AD là: 2 + 3 = 5 (km) 2350 + 2650 = 5000 (m) Đáp số: 5 km 5000m= 5km Đáp số: 5 km Bài 4 (trang 159) Viết số thích hợp vào ô trống (theo mẫu) Tổng số tiền Số các tờ giấy bạc 10 000 đồng 80 000 đồng 20 000 đồng 1 1 50 000 đồng 1 90 000 đồng 100 000 đồng 70 000 đồng Hướng dẫn học sinh lựa chọn các tờ giấy bạc sao cho đúng bằng số tiền cần lấy. Ví dụ: 80 000 = 10 000 + 20 000 + 50 000 Vậy ta phải lấy mỗi loại 1 tờ. Bài 4 (trang 173) Bình có 2 tờ giấy bạc loại 2000 đồng. Bình mua bút chì hết 2700 đồng. Hỏi Bình còn lại bao nhiêu tiền? Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? Mối liên quan các số liệu của bài. Hướng dẫn học sinh cách giải: Muốn biết còn lại bao nhiêu tiền ta phải biết gì? Muốn biết số tiền Bình có ta làm như thế nào? 13 Cho học sinh trình bày bài giải: Bài giải Số tiền Bình có là: 2000 x 2 = 4000 (đồng) Số tiền Bình còn lại là: 4000 – 2700 = 1300 (đồng) Đáp số: 1300 đồng. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp Nắm chắc (thuộc) bảng hệ thống đơn vị đo, hiểu được mối quan hệ giữa các đơn vị đo cho học sinh lớp 3 hiện tại, có thể triển khai sâu rộng trong GV dạy lớp 3 và cả sau này. Giải pháp mang lại hiệu quả trong việc giảng dạy học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 3.4. Hiê u quả, lợi ích thu được hoă c dự kiến có thể thu được do áp dụng ê ê giải pháp Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy: Nếu giáo viên tiểu học nắm vững được bản chất toán học của các mạch kiến thức nói chung, của đo đại lượng nói riêng. Nắm được sự thể hiện các nội dung cơ bản trong kiến thức đó trong SGK thì chắc chắn rằng việc dạy và học sẽ tốt hơn. Lựa chọn phương pháp giảng dạy thích hợp để khắc sâu kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm. Khi lựa chọn phương pháp giảng dạy Toán giáo viên cần lưu ý: Phải phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học phù hợp với đối tượng lớp mình phụ trách. Vì vậy có hiểu đúng, xác định đúng trọng tâm kiến thức của từng loại bài thì chúng ta mới truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách chắc chắn nhất. KẾT QUẢ KHẢO SÁT SỐ Điểm 14 HS 10 9 8 7 6 5 Điểm<5 TL % S L TL % S L TL % S L TL % S L TL % S L TL% S L TL% 7 26 S L 26.9 5 19.2 3 11.5 4 15.5 2 7.7 2 7.7 3 11.5 Qua quá trình áp dụng giải pháp, bản thân tôi nhận thấy chất lượng đại trà cũng như mũi nhọn từng bước được cải thiện và nâng cao, góp phần kích thích ý thức học tập của học sinh. Về việc hình thành các biểu tượng về đại lượng và xây dựng các bảng đơn vị đo đại lượng theo cách trình bày trên đã giúp học sinh chủ động sáng tạo trong việc nắm bắt kiến thức, đồng thời giúp học sinh phát triển khả năng tư duy, khả năng suy luận và óc sáng tạo, hình thành ở các em phương pháp học tập và làm việc tích cực, sáng tạo, các em áp dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Từ đó kích thích lòng say mê môn toán nói riêng và ý thức học tập nói chung cho học sinh. 3.5. Tài liệu kèm theo: (không có)./. , ngày 12 tháng 3 năm 2016 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng