Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn luyện một số kĩ năng sống cho học sinh thpt trong dạy học bài “nghị luận về ...

Tài liệu Rèn luyện một số kĩ năng sống cho học sinh thpt trong dạy học bài “nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” – sgk ngữ văn 12 (2016)

.PDF
70
302
130

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== BÙI THỊ HÀ RÈN LUYỆN MỘT SỐ KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT TRONG DẠY HỌC BÀI “NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ” – SGK NGỮ VĂN 12 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn Người hướng dẫn khoa học TS. PHẠM KIỀU ANH HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là TS. Phạm Kiều Anh – người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2016 Tác giả Bùi Thị Hà LỜI CAM ĐOAN Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Phạm Kiều Anh. Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2016 Tác giả Bùi Thị Hà DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CH Câu hỏi GV Giáo viên HS Học sinh HTĐS Hiện tượng đời sống KNS Kĩ năng sống NLXH Nghị luận xã hội SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên TLXH Tâm lí xã hội TTĐL Tư tưởng đạo lí THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc UNESCO Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá quốc tế WHO Tổ chức Y tế thế giới MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4 6. Đóng góp của khóa luận ......................................................................................... 4 7. Bố cục của khóa luận .............................................................................................. 4 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................... 5 1.1 Kĩ năng sống và các loại kĩ năng sống trong giáo dục ......................................... 5 1.1.1 Khái niệm kĩ năng sống ..................................................................................... 5 1.1.2. Các loại kĩ năng sống ........................................................................................ 6 1.1.3. Ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong giáo dục ........... 7 1.2. “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” trong chương trình Ngữ văn THPT .......... 8 1.2.1 Khái niệm nghị luận xã hội................................................................................ 8 1.2.2. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí .................................................................... 9 1.2.3. Các cơ sở khoa học của việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” ............................................................ 10 1.3. Các kĩ năng sống có thể hình thành cho học sinh THPT khi học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” ............................................................................................ 12 1.3.1. Kĩ năng giải quyết vấn đề ............................................................................... 12 1.3.2. Kĩ năng xác định giá trị .................................................................................. 13 1.3.3. Kĩ năng cảm thông và chia sẻ ......................................................................... 13 1.3.4. Kĩ năng giao tiếp hiệu quả .............................................................................. 13 1.4. Cơ sở thực tiễn của việc hình thành, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh THPT trong giờ học Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí ........................................... 15 1.4.1. Thực trạng dạy ................................................................................................ 15 1.4.2. Thực trạng học ................................................................................................ 15 1.4.3. Thực trạng vận dụng kĩ năng sống của học sinh THPT trong cuộc sống hàng ngày ........................................................................................................................... 16 1.4.4. Đánh giá chung ............................................................................................... 18 Chương 2. DẠY HỌC BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÝ CÓ KẾT HỢP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT ............................ 20 2.1 Mục đích của việc dạy học bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.................... 20 2.2. Cấu trúc bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý ................................................ 20 2.3. Nguyên tắc phối hợp rèn luyện kỹ năng sống cho HS khi học bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí................................................................................................... 21 2.3.1. Nguyên tắc tích hợp ........................................................................................ 21 2.3.2. Nguyên tắc phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh ........................... 22 2.3.3. Nguyên tắc trực quan ...................................................................................... 23 2.4. Rèn luyện một số kĩ năng sống cho học sinh THPT trong giờ học Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí................................................................................................... 24 2.4.1. Rèn luyện kỹ năng sống khi hướng dẫn HS phân tích ngữ liệu ..................... 24 2.4.2. Rèn luyện kỹ năng sống khi hướng dẫn HS hình thành các kỹ năng tạo lập văn bản ...................................................................................................................... 26 2.4.3. Rèn luyện kỹ năng sống khi hướng dẫn HS liên hệ thực tế khi rút ra bài học nhận thức ................................................................................................................... 28 2.4.4. Rèn luyện kỹ năng sống khi hướng dẫn HS luyện tập thực hành .................. 29 2.5. Quy trình dạy học bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý có phối hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ......................................................................................... 31 CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................................. 37 3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................... 37 3.2. Đối tượng thực nghiệm ...................................................................................... 37 3.3. Địa bàn thực nghiệm .......................................................................................... 37 3.4. Nội dung thực nghiệm ....................................................................................... 38 3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ........................................................................... 55 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong vài năm gần đây, cùng với sự thay đổi về kinh tế, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, xã hội có những biến động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh (HS) THPT. Vấn đề cơ bản tác động tới việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ được chia sẻ là: thế hệ trẻ ngày nay thường phải đương đầu với những rủi ro đe dọa sức khỏe và hạn chế cơ hội học tập. Do đó, nếu chỉ có thông tin không đủ để bảo vệ họ tránh được những rủi ro này. Theo đó, giáo dục KNS được triển khai nhằm cung cấp cho các em các kĩ năng thiết yếu để giải quyết được các vấn đề nảy sinh từ cuộc sống. Thực tế xã hội hiện nay cho thấy ứng xử, giao tiếp, chia sẻ, nhận thức, cảm thông, thể hiện thái độ... là những yếu tố quan trọng thể hiện trình độ, giá trị và nhân cách của mỗi cá nhân. Vì thế, KNS trở thành mục tiêu và là một nhiệm vụ trong giáo dục toàn diện con người HS. 1.2. Trong nhiều năm trở lại đây, thế giới cũng có những thay đổi trong nhận thức và quan niệm về giáo dục. Bám sát với xu thế thời đại, Việt Nam đã và đang từng bước thực hiện đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục nước nhà; đổi mới mục tiêu giáo dục từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho người học sang trang bị những năng lực cần thiết với tinh thần: “năng lực hợp tác, có khả năng giao tiếp, năng lực chuyển đổi nghề nghiệp theo yêu cầu mới của thị trường lao động, năng lực quản lý, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; tôn trọng và nghiêm túc tuân theo pháp luật; quan tâm và giải quyết các vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu; có tư duy phê phán, có khả năng thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống”. Theo tinh thần đó, việc triển khai các hoạt động giáo dục theo định hướng tiếp cận KNS đã trở thành một trong những nhiệm vụ của đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông. Về bản chất, đó cũng là những hoạt động giáo dục gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI mà tổ chức UNESCO đưa ra. Tuy nhiên, nhận thức về KNS, cũng như việc thể chế hóa giáo dục KNS trong giáo dục phổ thông 1 đặc biệt là những hướng dẫn về cách tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho HS ở các cấp học, bậc học còn hạn chế. 1.3. Ngữ văn là một trong những môn học có thể hình thành và giáo dục cho HS nhiều KNS, bởi đây là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Thông qua môn học này, HS không chỉ được trang bị những tri thức về xã hội, văn hóa, lịch sử, đời sống nội tâm của con người mà các em còn được hình thành và rèn luyện năng lực giao tiếp, nhận thức về xã hội, con người, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ, hoàn thiện nhân cách. Làm văn là phân môn có nhiệm vụ trang bị những tri thức khoa học về các kiểu văn bản, hình thành và rèn luyện các kĩ năng thiết yếu để tạo lập văn bản, từ đó giúp cho các em biết vận dụng để tạo ra những văn bản cụ thể theo yêu cầu của cuộc sống. Từ mục đích cơ bản của việc dạy học Làm văn như trên, trong các giờ học, GV có thể hình thành và rèn luyện cho HS một số KNS. Bởi lẽ, xét cho đến cùng, khi học làm văn, các em không chỉ học để biết mà còn học để làm việc; học để thể hiện thái độ, hòa nhập và chung sống với cộng đồng. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện một số kĩ năng sống cho học sinh THPT trong dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” – SGK Ngữ văn 12”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thuật ngữ “Kĩ năng sống” bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những năm 1995 - 1996, thông qua dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do UNICEF phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Khi triển khai dự án này, những nội dung của KNS và giáo dục KNS ngày càng được mở rộng. Trong giai đoạn đầu tiên, khái niệm KNS được giới thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm những KNS cốt lõi như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng kiên định và kĩ năng đạt mục tiêu. Cũng bởi thế, chương trình chỉ tập trung vào các chủ đề giáo dục sức khỏe cho thanh thiếu niên. Giai đoạn 2 của chương trình mang tên “Giáo dục sống khỏe mạnh và KNS”. Trong giai đoạn này nội dung của khái niệm 2 KNS và giáo dục KNS đã được phát triển sâu sắc hơn. Từ thực tế trên, việc KNS và giáo dục KNS cho HS dần thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Ở giai đoạn này, KNS được mở rộng, xem xét ở các lĩnh vực hoạt động mà thanh thiếu niên tham gia và đề xuất các biện pháp để hình thành những kĩ năng này cho các em (trong đó có HS THPT). Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là: Cẩm nang tổng hợp kĩ năng hoạt động thanh thiếu niên của tác giả Phạm Văn Nhân (2002); Kĩ năng thanh niên tình nguyện của tác giả Trần Thời (1998)… Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình. Với một loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và giáo trình, tài liệu tham khảo, tác giả Nguyễn Thanh Bình đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra những hướng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam. Có thể nói những kết quả khoa học trong các công trình trên chính là những gợi dẫn cho chúng tôi triển khai đề tài này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài này chính là: Xác định những KNS cơ bản phù hợp với văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Đồng thời tìm hiểu và đề xuất cách thức phối hợp rèn luyện một số KNS cho HS THPT trong quá trình dạy học bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí nhằm hướng tới yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học làm văn NLXH nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để triển khai nghiên cứu đề tài này, chúng tôi xác định các nhiệm vụ sau: - Trình bày cơ sở lý luận về KNS, về văn NLXH. - Xác định các KNS có thể hình thành và rèn luyện cho HS THPT trong quá trình dạy học bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. - Bước đầu đề ra những định hướng hình thành và rèn luyện KNS cho HS THPT khi học bài Nghị luận nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. - Thực nghiệm cho những đề xuất được nêu trước đó. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu KNS và các loại KNS trong giáo dục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một khóa luận, chúng tôi tập trung vào bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí trong SGK Ngữ văn 12. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong khóa luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp hệ thống hóa Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hóa các tri thức lý thuyết về KNS, về văn NLXH. 5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp Sử dụng phương pháp này để phân tích, chứng minh rằng trong giờ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có thể tích hợp rèn luyện cho HS THPT những KNS phù hợp. 5.3. Phương pháp thực nghiệm Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực nghiệm để chứng minh tính khả thi của việc rèn KNS cho HS THPT trong giờ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, từ đó tạo cơ sở cho việc rút ra kết luận chung. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận đóng góp một phần nhỏ bé vào việc giáo dục KNS cho HS THPT, từ đó nâng cao chất lượng dạy học Làm văn nói riêng và Ngữ văn nói chung. 7. Bố cục của khóa luận Khóa luận của chúng tôi được triển khai thành ba chương. - Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn - Chương 2: Dạy học bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có tích hợp rèn luyện KNS cho HS - Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 4 NỘI DUNG Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Kĩ năng sống và các loại kĩ năng sống trong giáo dục 1.1.1 Khái niệm kĩ năng sống Ngay những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức như WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ), UNESCO (Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của LHQ) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục KNS cho thanh thiếu niên. Theo đó, KNS (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi cho mọi lứa tuổi, ở mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, các nhà khoa học và các tổ chức trên thế giới vẫn chưa có một tiếng nói chung nhất về khái niệm này. Theo WHO (1993) cho rằng: KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Còn theo UNICEF thì: KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cũng bàn về KNS sống, UNESCO lại quan niệm: KNS gắn với bốn trụ cột giáo dục, đó là: học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề... Học làm người (Learning to be) gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin...; Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông...; Học để làm (Learning to do) gồm kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm... Với quan niệm của UNESCO, KNS là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Từ các quan niệm trên, có thể nhận thấy, tuy cùng bàn về KNS nhưng có thể nhận thấy khái niệm này được hiểu theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Hiểu theo 5 nghĩa hẹp, KNS được nhìn nhận trên cơ sở hệ thống năng lực tâm lý xã hội (TLXH). Còn hiểu theo nghĩa rộng, nó không chỉ bao gồm năng lực TLXH mà còn bao gồm cả những “kĩ năng tâm vận động”. Tuy nhiên, dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì các quan niệm trên đều có điểm thống nhất về KNS ở việc: khẳng định nó thuộc về phạm trù năng lực chứ không thuộc phạm trù kĩ thuật của hành động, hành vi. Cũng bởi vậy, khi xác lập hệ thống các KNS có thể giáo dục cho HS, nhiều quốc gia trên thế giới đã chọn và sử dụng khái niệm KNS của UNESCO (sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt động phát triển KNS cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên. Trong khóa luận này, chúng tôi xác định KNS có thể hiểu: là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. 1.1.2. Các loại kĩ năng sống Do có nhiều cách tiếp cận về KNS cho nên cũng có nhiều cách phân loại về nó. Có thể kể tới một số cách phân loại KNS dưới đây: 1.1.2.1. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và UNICEF, cho rằng KNS bao gồm - Kĩ năng giải quyết vấn đề (problem solving); - Kĩ năng suy nghĩ / tư duy phê phán (critical thinking); - Kĩ năng giao tiếp hiệu quả (effective communication skills); - Kĩ năng ra quyết định (decision – making); - Kĩ năng tư duy sáng tạo (creative thinking); - Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân (interpersonal relationship skills); - Kĩ năng tự nhận thức/ tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị (selfawareness building skills, incl.self- awareness, self- esteem and selfconfidence, and values analysis); - Kĩ năng thể hiện sự cảm thông (empathy). 1.1.2.2. Trong giáo dục ở Vương quốc Anh, KNS được chia thành 6 nhóm chính là: 6 - Hợp tác nhóm; - Tự quản; - Tham gia hiệu quả; - Suy nghĩ/ Tư duy bình luận, phê phán; - Suy nghĩ sáng tạo; - Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. 1.1.2.3. Trong giáo dục chính quy ở nước ta những năm vừa qua, KNS thường được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau: - Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS cụ thể như: Tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin… - Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các KNS cụ thể như: Giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác… - Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm các KNS cụ thể như: Tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề… Trên đây chỉ là một số trong các cách phân loại KNS. Tuy nhiên, mọi cách phân loại đều chỉ là tương đối. Trên thực tế, các KNS thường không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ đến nhau. Ví dụ: Khi cần ra quyết định một cách phù hợp thì các kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, kĩ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kĩ năng xác định giá trị… thường được vận dụng. Hay để có thể giao tiếp một cách có hiệu quả cần phối hợp những kĩ năng như: Kĩ năng nhận thức, kĩ năng thương lượng, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng cảm thông, chia sẻ, kĩ năng kiềm chế, đương đầu với cảm xúc… Hoặc để đạt được mục tiêu mỗi cá nhân cần phối hợp các kĩ năng như: Kĩ năng nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ… 1.1.3. Ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong giáo dục Những KNS cơ bản là căn cứ thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Có thể nói đó chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực. Người có KNS sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử và giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; làm chủ cuộc 7 sống của chính mình. Ngược lại người không có KNS thường bị vấp ngã, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Không chỉ vậy, KNS còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề về xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc thiếu KNS của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: nghiện rượu, nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc… Vì thế, giáo dục KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội, tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội. Giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là vô cùng cần thiết. Nó giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người; sống tích cực, chủ động, an toàn, lành mạnh; đồng thời cũng rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc cho mỗi cá nhân HS. Cũng vì thế, giáo dục KNS cho HS trong nhà trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. 1.2. “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” trong chương trình Ngữ văn THPT 1.2.1 Khái niệm nghị luận xã hội Khi nghiên cứu về văn nghị luận, các nhà khoa học đều khẳng định: Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) sử dụng lập luận, bao gồm lí lẽ, dẫn chứng, để bàn luận và đưa ra những ý kiến của mình nhằm làm rõ một vấn đề nào đó, qua đó thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo những ý kiến đó. Văn nghị luận bao gồm nghị luận văn học và NLXH. Nhắc tới NLXH là người ta nhắc tới một dạng của kiểu văn bản nghị luận. Đó là dạng văn bản mà ở đó, người nói, người viết tập trung bàn luận và làm sáng tỏ các vấn đề thuộc về đời sống xã hội, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số… Với đối tượng được bàn luận trong văn bản luôn gắn liền với đời sống, với xã hội, nên mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội; tạo điều kiện để khẳng định bản thân mình và hòa nhập với cộng đồng, với xã hội. Cũng vì thế, NLXH là những bài văn bàn về những vấn đề xã hội - nhân sinh như: một tư tưởng, đạo lí; một lối sống cao đẹp; một hiện tượng 8 tích cực hoặc tiêu của đời sống; một vấn đề thiên nhiên, môi trường. Hiện nay, dựa vào đối tượng được nghị luận, các nhà khoa học đã phân NLXH được chia làm 2 dạng là nghị luận về một tư tưởng đạo lý (nghị luận về một TTĐL) và nghị luận về một hiện tượng đời sống (nghị luận về một HTĐS). 1.2.2. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí Nghị luận về một TTĐL là dạng văn NLXH mà ở đó, người nghị luận sử dụng phương thức bàn luận, đánh giá nhằm thể hiện suy nghĩ, bộc lộ quan điểm của mình về cuộc sống, về các phạm trù đạo đức và qua đó giúp mỗi cá nhân có thái độ ứng xử đúng đắn với chính bản thân mình và với mọi người trong xã hội. Được sử dụng nhằm bàn luận một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực quan điểm, tư tưởng, đạo lí, lối sống... của con người, nên có thể nhận thấy phạm vi đề tài của nghị luận về một TTĐL vô cùng phong phú, có tính khái quát cao. Đó có thể là bàn luận về các quan niệm, suy nghĩ, những tư tưởng, về các phạm trù đạo đức, về văn hóa sống và ứng xử theo chuẩn mực xã hội. Chẳng hạn, các đề bài như: Suy nghĩ về câu ca dao “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay đề bài: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu tình thương?”... thuộc dạng nghị luận này. Xét về cấu trúc, cũng giống như kết cấu của một bài văn nghị luận thông thường, một bài văn nghị luận về một TTĐL gồm ba phần: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề. Cụ thể hơn khi tiến hành thực hiện lập luận trong kiểu bài này, người tạo lập cần đảm bảo các bước sau: Bước 1: Giải thích khái niệm các nội dung được luận bàn. Bước 2: Phân tích, lí giải, chứng minh những khía cạnh của vấn đề nhằm giúp cho người đọc hiểu và tin theo những điều được bàn luận. Bước 3: Bình luận, đánh giá nhằm thể hiện thái độ, khơi gợi và tác động tới hành động của người tiếp nhận. Để thực hiện tốt các bước trên, khi tạo lập văn bản này, HS phải đọc và hiểu được yêu cầu của đề. Trong đề, việc trích dẫn các câu nói, những câu châm ngôn chỉ là cơ sở để yêu cầu HS bàn luận đến một vấn đề có liên quan. Vì thế, khi biểu đạt nội dung nghị luận, việc dùng lí lẽ và dẫn chứng ở dạng bài này phải gắn liền 9 thực tế cuộc sống xung quanh để tác động đến cả nhận thức và tình cảm của người tiếp nhận. 1.2.3. Các cơ sở khoa học của việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” 1.2.3.1. Xuất phát từ bản chất của dạng bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý Về mặt nội dung, nghị luận về một TTĐL là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo lí, lối sống... của con người. Đó là các vấn đề liên quan đến quan niệm, lẽ sống, đạo đức, tình cảm… theo những chuẩn mực xã hội trong từng giai đoạn lịch sử phát triển. Như vậy, có thể thấy phạm vi đề tài rộng, mang tính khái quát cao, lại gần gũi gắn bó mật thiết với cuộc sống của HS. Chẳng hạn như đề bài: “Lí tưởng sống là ngọn đèn chỉ đường” rất gần gũi với thế hệ trẻ trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Ai cũng có những ước mơ, khát vọng và có lí tưởng của riêng mình. Chính lí tưởng là niềm tin, là ngọn đèn để chỉ đường cho chúng ta bước vào tương lai. HS có thể vận dụng những hiểu biết thực tế của mình để giải quyết các vấn đề đặt ra trong bài tập cũng như những vấn đề khác trong thực tế cuộc sống. Như vậy, với nội dung gắn liền với thực tế cuộc sống nên trong quá trình dạy học, GV có thể kết hợp hình thành và rèn luyện một số KNS cơ bản cho HS. Khi tạo lập loại văn bản này, các em có thể liên hệ, vận dụng kiến thức thực tế để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài học cũng như trong thực tế cuộc sống, tức là có kĩ năng giải quyết vấn đề, đưa ra những quyết định phù hợp… 1.2.3.2. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS THPT Đối với HS THPT, đặc biệt là HS lớp 12, hoạt động tư duy phát triển mạnh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát, thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu… Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức 10 chân lý một cách sâu sắc hơn. Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cần tích hợp rèn luyện cho HS các kĩ năng tư duy khoa học để các em có thể tư duy một cách tích cực, độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Tự ý thức cũng là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhận thức của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống, bắt đầu hình thành những định hướng nghề nghiệp… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình… Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý HS THPT vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí tức là bàn luận nhằm thể hiện suy nghĩ, bộc lộ quan điểm của các em về quan niệm sống, các phạm trù đạo đức theo các chuẩn mực xã hội nhất định. Vấn đề đạo lí trong nội dung nghị luận cũng sẽ giúp HS có thái độ ứng xử đúng đắn với chính bản thân mình và với mọi người xung quanh. Với một vài đặc điểm tâm lí HS 11 THPT như trên, trong quá trình dạy học, GV cần nắm bắt đặc điểm, sự phát triển tâm lí của HS ở lứa tuổi này. Thông qua đó, GV có thể hiểu được vị trí của giai đoạn lứa tuổi HS THPT, bối cảnh xã hội, các yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến tâm lí ở lứa tuổi này để từ đó có những định hướng hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho bản thân các em 1.3. Các kĩ năng sống có thể hình thành cho học sinh THPT khi học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” Từ những loại KNS đã được nêu trên và từ bản chất của dạng bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, chúng tôi nhận thấy, trong quá trình hướng dẫn HS học tập, GV có thể tích hợp hình thành, rèn luyện một số KNS sau: 1.3.1. Kĩ năng giải quyết vấn đề Kĩ năng này được thể hiện ở khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề, tình huống gặp phải trong cuộc sống. Để tạo lập được một bài nghị luận về một nghị luận về một TTĐL, kĩ năng giải quyết vấn đề là cần thiết. Bởi muốn tạo lập được một văn bản nghị luận nói chung, nghị luận về một tư tưởng, đạo lí nói riêng, HS phải xác định đúng nội dung cần bàn luận để tìm ra những cách lập luận thuyết phục người tiếp nhận. Việc làm đó thể hiện khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề. Vì vậy, khi hướng dẫn HS xác định đối tượng cần bàn luận, GV có thể lồng ghép KNS cho HS: Trong cuộc sống các em sẽ gặp không ít những vấn đề, những tình huống khó khăn. Khi đó, các em cần bình tĩnh và có những kỹ năng ứng phó thích hợp và hiệu quả. Như vậy, cung cấp cho HS kĩ năng này sẽ giúp các em linh hoạt trong mọi tình huống, có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống. Khi trang bị những hiểu biết về kỹ năng này, GV cần lưu ý HS: xác định rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải (kể cả tìm kiếm thêm thông tin cần thiết); liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có; hình dung đầy đủ về kết quả xảy ra nếu ta lựa chọn phương án giải quyết nào đó; xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương án giải quyết đó; so sánh các phương án để đưa ra quyết định cuối cùng; hành động theo quyết định đã lựa chọn; kiểm 12 định lại kết quả để rút kinh nghiệm cho những lần ra quyết định và giải quyết vấn đề sau. Trong thực tế, kỹ năng giải quyết vấn đề thường gắn với một số KNS khác như: giao tiếp, xác định giá trị, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định… 1.3.2. Kĩ năng xác định giá trị Kĩ năng xác định giá trị là khả năng xác định được những giá trị của bản thân mình để sống và hành động theo những giá trị đó. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ biết tôn trọng và biết chấp nhận rằng người khác cũng có những giá trị riêng biệt. Khi làm bài nghị luận về một TTĐL, các em phải nhận dạng chính xác kiểu bài, xác định được nội dung cần nghị bàn để từ đó phân tích, đánh giá và thể hiện thái độ, chính kiến của bản thân. Muốn xác định được vấn đề cần bàn luận, GV yêu cầu HS phải đọc kỹ đề, phân tích để hiểu được nội dung đề cần bàn định và phải đặt câu hỏi tại sao lại nói như vậy, nói như vậy có ý nghĩa gì? Có thể nói, kĩ năng này sẽ giúp HS biết nhìn nhận và đánh giá tính đúng sai, từ đó tìm ra những biện pháp cụ thể để xử lí các tình huống đầy thử thách của cuộc sống. Nếu không xác định giá trị đúng đắn cho bản thân, có thể các em sẽ đưa ra những quyết định sai lầm và thậm chí là hối tiếc về sau. 1.3.3. Kĩ năng cảm thông và chia sẻ Cảm thông có nghĩa là đặt mình vào vị trí của người khác, nhận biết và hiểu được cảm xúc của người đó và từ đó, mỗi cá nhân không thể tỏ ra thờ ơ hay ích kỷ với những người xung quanh được. Thông qua bài nghị luận về một TTĐL, HS sẽ hiểu và nhận ra sự cảm thông giữa con người với con người. Theo đó, các em sẽ nhận thấy rằng, cảm thông là một cách tuyệt vời để có thể học tập, làm việc vui vẻ, có ích với nhau. Điều đó giúp cho các em không chỉ tự hào về bản thân mình vì làm được những điều lớn lao so với lứa tuổi của các em và còn có thể hình thành những cách ứng xử tốt đẹp của các em đối với mọi người xung quanh. Hiểu mình và biết chấp nhận người khác không chỉ là một KNS đối với HS THPT mà còn là KNS đối với tất cả mọi người trên toàn thế giới. 1.3.4. Kĩ năng giao tiếp hiệu quả 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan