Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận về kiểu bài nghị luận về một tác phẩm truyện...

Tài liệu Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận về kiểu bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

.PDF
19
151
145

Mô tả:

MỤC LỤC Phần Nội dung 1. Lí do chọn đề tài I. MỞ ĐẦU II. NỘI DUNG III. KẾT LUẬN 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 1. Cơ sở lí luận của vấn đề 2. Thực trạng của vấn đề 3. Các giải pháp thực hiện 3.1 Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận. 3.2 Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về kiểu bài. 3.3 Kỹ năng tích lũy kiến thức. 3.3.1 Kĩ năng tích lũy kiến thức thông qua việc đọc tác phẩm. 3.3.2 Kĩ năng ghi chép. 3.4 Rèn kĩ năng nhận thức đề. 3.4.1 Xác định đúng vấn đề nghị luận thông qua việc tìm ra sự giống và khác nhau giữa các đề. 3.4.2 Rèn kĩ năng nhận biết đúng yêu cầu lập luận. 3.4.2 Rèn kĩ năng nhận biết đúng yêu cầu phạm vi dẫn chứng. 3.5 Rèn kĩ năng lập dàn ý và trình bày ý, viết đoạn văn 4. Hiệu quả của sáng kiến Kết luận và đề xuất. Trang 1 2 2 2 3 4-5-6 7 7 7 8 8 9 9 10 10 11 12 - 16 17 18-19 1 I/ MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Cách đây hơn ba mươi năm khi nói về việc dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định tầm quan trọng trong việc dạy và học nói chung là: “Rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt bộ óc của mình”. (Phạm Văn Đồng - Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện). Rõ ràng càng ngày chúng ta càng thấy được tính đúng đắn của lời dạy trên. Và để làm được điều đó trong quá trình dạy - học môn Ngữ văn người giáo viên không chỉ là người cung cấp kiến thức đơn thuần mà quan trọng hơn còn rèn luyện cho sinh kỹ năng tư duy, kỹ năng vận dung, làm bài. Phân môn Tập làm văn trong nhà trường THCS nhằm cung cấp cho học sinh kiến thức của sáu kiểu văn bản được giảng dạy theo trục đồng tâm: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản hành chính - công vụ. Vì thế, người giáo viên dạy Văn cấp THCS không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của sáu kiểu văn bản trên mà là rèn cho học sinh kỹ năng nhận biết và kỹ năng làm bài của từng đơn vị kiến thức đó. Như chúng ta đã biết, trong các kiểu văn bản được học ở cấp THCS có ba kiểu văn bản quan trọng và cũng là kiểu văn bản mới và khó đối với học sinh: Tự sự; Thuyết minh; Nghị luận. Qua thực tế giảng dạy thì việc dạy kiểu Văn nghị luận ở giáo viên, việc học và làm bài văn nghị luận ở học sinh được xem là khó nhất bởi văn nghị luận không chỉ đòi hỏi giáo viên nắm vững kiến thức của kiểu bài, kiến thức của vấn đề nghị luận mà còn đòi hỏi người dạy cũng như người học phải có được tư duy mạch lạc, logíc. Trong đó việc dạy tiết “ Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” được xem là một trong những tiết học “ trọng tâm ” trong việc dạy và học phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ văn 9 bởi việc nắm vững kiến thức về tiết học này không chỉ giúp cho học sinh phân biệt với các kiểu bài nghị luận khác mà còn có được cái nhìn toàn diện về các tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), học sinh biết cách nhận xét, đánh giá về nó và cũng tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập môn Ngữ văn ở các cấp cao hơn. Trong thực tế viêc dạy vấn đề này ở trường THCS Đông Minh, học sinh lớp 9 khi gặp kiểu bài này cũng thường khó khăn lúng túng. Kinh nghiệm của giáo viên trong tổ chưa nhiều, cần được trao đổi, rút kinh nghiệm. Trước tình hình đó, tôi mạnh dạn đưa ra 2 đề tài “ Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9, trường THCS Đông Minh - Đông Sơn” 2/ Mục đích nghiên cứu: Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là một dạng bài trọng điểm trong chương trình Ngữ văn 9. Để viết tốt được kiểu bài này học sinh cần vận dụng nhiều kĩ năng, nhiều thao tác và ngược lại kiểu bài này cũng tác động nhiều đến sự phát triển tâm hồn, tình cảm cũng như năng khiếu văn chương cho học sinh. Tuy nhiên đây là dạng bài khó, khi viết bài học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Bản thân người dạy nếu không có sự tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn thì việc hướng dẫn học sinh làm bài cũng gặp nhiều hạn chế. Vì thế, mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là để trau dồi kiến thức, tương tác với đồng nghiệp và từ đó giúp học sinh lớp 9 trường Trung học cơ sở Đông Minh hiểu và viết tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). 3/ Đối tượng nghiên cứu: Ở sáng kiến này, tôi tập trung tìm hiểu, nghiên cứu nhằm rèn cho học sinh kĩ năng nắm vững kiến thức về văn nghị luận cũng như kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích); kỹ năng tích lũy kiến thức, nhận thức đề và kỹ năng lập dàn ý và trình bày ý. 4/ Phương pháp nghiên cứu: Để sáng kiến kinh nghiệm đạt hiệu quả, tôi sử dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp thống kê, xử lý số liệu; phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. II/ NỘI DUNG 1/ Cơ sở lí luận: Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói riêng là một kiểu bài nghị luận văn học có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp chín. Thông qua việc đọc và học một tác phẩm văn học học sinh cũng từng bước được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giảng về tác phẩm..., đó là một thuận lợi. Nhưng mặt khác cũng cần nắm vững yêu cầu và mức độ cần đạt của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc doạn trích) để không đồng nhất yêu cầu và mức độ phân tích tác phẩm trong chương 3 trình THCS nói chung và khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc doạn trích) lớp 9 nói riêng. Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩmđược người viết phát hiện và khái quát. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm. ( SGK – NV 9 – Tập 2). Giáo sư Lê Trí Viễn cũng có lời nhắn nhủ: “ Dạy văn lấy cảm làm đầu”. Người giáo viên dạy cho học sinh phương pháp làm một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) không thể nghèo nàn về cảm xúc. Bởi những trang truyện, những số phận của các nhân vật trong truyện đều có cuộc đời riêng, có tư tưởng, tình cảm, nội tâm...phong phú và đa dạng. Vì vậy trong quá trình hướng dẫn học sinh trình bày cảm nhận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề trong tác phẩm truyện cần phải xuất phát từ những rung cảm chân thật, thẩm mĩ. Đồng thời học sinh cũng phải biết kết hợp các phép lập luận đã học. Ngoài ra giáo viên cần chú ý phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh, kích thích, nuôi dưỡng, phát triển ở học sinh những nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng nhân vật văn học, ngôn ngữ đối thọai, độc thoại....Muốn vậy, giáo viên cần phải rèn luyện cho học sinh kĩ năng nắm vững kiến thức về văn nghị luận cũng như kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích); kỹ năng tích lũy kiến thức, nhận thức đề và kỹ năng lập dàn ý và trình bày ý. Trước những yêu cầu trên tôi quyết định chọn sáng kiến kinh nghiệm này. 2/ Thực trạng của vấn đề: Trong Ngữ văn 9 học sinh chỉ được học 3 tiết (tiết 118, 119,120 - theo Phân phối chương trình) về kiểu bài “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích)”, mặc dù số tiết ít nhưng cùng với kiểu bài Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiến thức trọng tâm nhất trong phân môn Tập làm văn 9. Hơn nữa, để học và nắm vững kiến thức về kiểu bài này học sinh phải chắc kiến thức về nghị luận từ học kì II năm lớp 7. 4 Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn THCS của bản thân, đặc biệt là trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 9 tôi nhận thấy việc dạy và học tiết “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích”) thường gặp một số vướng mắc sau: *Về phía giáo viên: - Qua nhiều năm theo dõi phong trào thi đua dạy giỏi các cấp và dạy tốt ở trường, ta thấy giáo viên thường chỉ đăng kí dạy phân môn Giảng văn và Tiếng Việt. Bởi dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích)” đòi hỏi người giáo viên không chỉ nắm vững kiến thức lí thuyết của tiết học, tức là nắm vững “bản chất” của kiểu bài, mà còn phải vững kiến thức về các tác phẩm truyện. Không ít giờ dạy sa vào phân tích các văn bản mẫu trong sách giáo khoa mà không rút ra cách nhận biết và cách làm kiểu bài này như thế nào. - Nhiều tiết dạy còn mang tính chất áp đặt về lí thuyết, chưa thực sự hướng dẫn học sinh luyện tập, rèn kỹ năng làm bài. Nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc cung cấp dàn bài chi tiết, học sinh chỉ việc dựa sẵn vào dàn ý đó mà viết bài, như vậy giáo viên không phát huy được tính tư duy của học sinh, các bài viết giống nhau và không có cảm xúc chân thực, thiết tha với vấn đề nghị luận. *Về phía học sinh: - Học sinh không xác định được dạng bài, kiểu bài làm văn nghị luận văn học. Trong những năm gần đây, học sinh khối lớp 9 viết bài Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng. Rất ít học sinh yếu, kém, trung bình phân biệt được sự khác nhau giữa văn nghị luận với các kiểu văn bản khác .Vì thế khi có những yêu cầu khác nhau về kiểu bài nhưng lại cùng một tác phẩm cụ thể thì đa số học sinh làm…giống nhau. Học sinh viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy không cần biết có đúng yêu cầu hay không. Có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà không hiểu được học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì. - Ví dụ: Đề bài: Tình cảm cha con qua tryện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Em Lê Lệnh Đạt lớp 9B (Năm học 2016 - 2017) viết: “ Tình cảm gia đình là tình cảm quan trọng nhất đối với mọi người. Em cũng có một gia đình hạnh phúc. Bố mẹ em rất yêu thương em như ông Sáu yêu thương bé Thu. Vì thế em rất yêu quý gia đình.” - Có nhiều học sinh khi phân biệt được sự khác nhau giữa các kiểu bài nhưng lại chưa xác định đúng, đầy đủ vấn đề nghị luận. Khi nghị luận về tác phẩm truyện học sinh thường sa vào kể lể, tóm tắt tác phẩm. 5 - Việc xây dựng hệ thống luận điểm, sắp xếp hệ thống luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận cũng là một khâu quan trọng nhưng không ít học sinh vướng mắc. - Ví dụ: Cũng với đề bài: Tình cảm cha con qua tryện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ở lớp 9B (Năm học 2016 - 2017) với 30 bài làm thì có tới 20 bài viết chỉ tập trung phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu, 10 bài viết còn lại hiểu được vấn đề nghị luận: phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu và ngược lại nhưng lại vấp phải việc sử dụng trùng dẫn chứng, ý lộn xộn. Trong thực tế giảng dạy và chấm bài của học sinh khi viết bài tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, các em thường kể lại tóm tắt nội dung của tác phẩm, không thật sự rung động trước tác phẩm dẫn đến cảm xúc khô cứng, sáo rỗng, phương pháp nghị luận thì lúng túng và máy móc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc,… Do đó điểm của phần văn nghị luận thường thấp hơn các kiểu văn bản: Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh ...mà các em đã được học. Thực tế, do thời lượng ít (chỉ có 03 tiết) cho kiểu bài này nên không có nhiều thời gian rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh, dẫn đến kỹ năng làm bài của học sinh hạn chế. Vì vậy khi làm bài, cũng như các kiểu bài khác, đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình, nên thường lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Do đó việc nâng cao, mở rộng, luyện tập rèn luyện cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) cho các em là thực sự cần thiết. Kết quả chấm bài Tập làm văn số 6 ở lớp 9A, 9B tại Trường THCS Đông Minh trong năm học 2016 - 2017 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau: Lớp Tổng số học sinh 9A 9B 30 30 Giỏi TS % 3 10 0 0 KẾT QUẢ XẾP LOẠI Khá Trung bình TS % TS % 7 24 21 70 2 6.7 18 60 Yếu TS % 0 0 10 33.3 Những bài viết có điểm yếu các em thường mắc các lỗi sau: - Không xác định đúng vấn đề nghị luận. - Bài viết lan man, không đủ luận điểm. - Ngôn ngữ vụng về, sa vào kể lể. 6 Trên đây là những lí do thôi thúc tôi tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm trong việc dạy văn nghị luận nói chung, kiểu bài Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) nói riêng. Trong nhiều năm giảng dạy tôi đã tìm ra những giải pháp, biện pháp và đã mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận về kiểu bài: “ Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9, trường THCS Đông Minh. 3/ Giải pháp thực hiện: 3.1. Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận: - Thực ra kiến thức về văn nghị luận các em đã được học từ năm lớp 7 nhưng để học sinh nắm vững kiến thức của kiểu văn bản là khâu quan trọng trong việc học và viết kiểu bài nghị luận văn học. Người dạy học sinh lớp 9 cần hướng dẫn các em sẽ phải nắm vững những đặc điểm sau: a. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức văn nghị luận: Mỗi đề bài sẽ đưa ra một vấn đề nghị luận, việc của học sinh là đưa ra các ý lớn (luận điểm) và cá ý nhỏ (luận cứ) để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Các luận điểm, luận cứ phải do học sinh tìm tòi, phát hiện nhưng nó phải xuất phát từ các tác phẩm văn học. b. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm văn nghị luận: - Tính thuyết phục cao: Khi học sinh đưa ra được hệ thống luận điểm, luận cứ, dẫn chứng phù hợp, ngôn ngữ sắc sảo thì người đọc sẽ bị thuyết phục hoàn toàn trước vấn đề nghị luận. - Tính logic: Để người đọc bị thuyết phục người viết rõ ràng phải có tư duy logic, rõ ràng, mạch lạc. Mặc dù các kiểu văn bản khác cũng đòi hỏi điều này nhưng sự rõ ràng, liên kết ý trong văn nghị luận đòi hỏi cao nhất. Sự tư duy hời hợt không có tính thống nhất, biện minh sẽ không phù hợp trong khi làm văn nghị luận. 3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về kiểu bài: Khi nắm vững kiến thức về văn nghị luận giáo viên tiếp tục hướng dẫn các em nắm vững kiến thức về kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Thực tế trong chương trình học các em học sinh đã được học tiết lí thuyết về kiểu bài này ở tiết 118 ( Ngữ văn 9 - Tập 2) nhưng muốn học sinh có kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện tốt giáo viên phải khắc sâu hai vấn đề sau: - Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận một tác phẩm truyện là trình bày 7 những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật …của một tác phẩm cụ thể. - Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. 3.3. Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức: 3.3.1. Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức thông qua việc đọc tác phẩm: Nghị luận văn học là kiểu bài văn hướng tới các vấn đề đặt ra trong các tác phẩm văn học: nội dung, nghệ thuật, hoặc các khía cạnh khác như tình huống, diễn biến tâm lí của nhân vật...trong bài viết thể hiện rõ năng lực cảm thụ văn học của người viết. Cho nên người viết phải hiểu biết kĩ về tác phẩm văn học đó: từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác đến nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. a/ Đối với các tác phẩm văn học được học trong chương trình: Giáo viên cần hướng dẫn các em cách đọc hiểu văn bản. Hình thành kĩ năng đọc cho học sinh, tạo cho các em có thói quen đọc sách, hướng dẫn các em đọc theo quy trình: Đọc thông suốt toàn văn bản → đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả → đọc hiểu để thưởng thức văn học. - Đọc thông suốt toàn văn bản: Để có ấn tượng toàn vẹn về văn bản. Phải đọc tiểu dẫn để biết được những tri thức thiết yếu về tác giả, tác phẩm. Đối với tác phẩm văn xuôi phải nhớ được cốt truyện ( học sinh phải tóm tắt được), hệ thống các chi tiết có liên quan đến nhân vật chính. Cần chú ý đến mạch văn, chất văn của văn bản, phát hiện những điểm đặc sắc, thú vị...... - Đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả: Nhà văn sáng tác tác phẩm văn học bao giờ cũng thể hiện tư tưởng, bộc lộ tình cảm không chỉ của cá nhân họ về cuộc ðời, con ngýời mà cũng là của tầng lớp, giai cấp, thời ðại mà các nhà vãn nhý là một ðại diện. Ví dụ: Khi đọc tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa đã thể hiện cái nhìn, cách đánh giá của cả thế hệ nhà văn với những đóng góp thầm lặng nhưng không kém phần sôi nổi nhiệt huyết của người dân miền Bắc trong công cuộc xây dựng xã hội mới. - Đọc hiểu để thưởng thức văn học: Người đọc tiếp nhận tư tưởng, tình cảm của người viết gửi gắm vào ngôn từ, hình tượng đó, tìm ra tầng hàm nghĩa, nhận ra tín hiệu mà người viết muốn nói, quan niệm về nhân sinh, hoài bão, ước mơ... giúp cho người đọc hiểu mình, hiểu đời, chia sẻ với sự xúc động, niềm say mê.... của tác giả. 8 Ví dụ: Khi đọc truyện ngắn “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu giúp người đọc nhận ra triết lí mà tác giả muốn gửi gắm đó là: Ở đời có rất nhiều sự “vòng vèo” và “chùng chình” điều quan trọng đối với mỗi con người là làm sao tránh được sự “ vòng vèo” và “chùng chình” đó; hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc ở ngay xung quanh chúng ta... b/ Đối với các tác phẩm không dạy trong chương trình: Cần khuyến khích các em đọc và nắm được nội dung của tác phẩm. Giới thiệu, kể cho các em một số tác phẩm được giải thưởng, các truyện ngắn hay qua các năm để các em tìm đọc. 3.3.2.Hướng dẫn, khuyến khích học sinh khi phải có thói quen ghi chép: Ví dụ: Sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, học sinh có thể ghi chép: - Tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. - Tóm tắt tác phẩm. - Nội dung chính. - Những biện phấp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm (đoạn trích). - Ghi lại những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của bản thân sau khi đọc về tác phẩm, về nhân vật hoặc một chi tiết mà bản thân tâm đắc nhất trong tác phẩm. Giáo viên yêu cầu học sinh chép riêng ra một quyển sổ nhỏ và kiểm tra việc nghi chép và nghi nhớ thường xuyên để tạo thành thói quen ở học sinh. 3.4. Rèn kỹ năng nhận thức đề: Một đề bài Tập làm văn cũng được xem là một bài toán nghệ thuật ngôn từ. Bởi bao giờ trong một đề bài Tập làm văn cũng có những yêu cầu bắt buộc mà người thực hiện đề bài phải tìm ra phương pháp giải. Vì thế, bước phân tích đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “ dẫn đường, chỉ lối” cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, không làm sáng tỏ vấn đề nghị luận mà còn bị lệch đề, lạc đề. Chính vì thế mà người giáo viên hướng dẫn học sinh phải biết phân tích kĩ đề. Một đề bài văn nghị luận về tác phẩm truyện không bao giờ chỉ có một dạng đề đơn điệu. Để học sinh xác định đúng vấn đề nghi luận và hình thức lập luận người dạy rèn cho học sinh các kỹ năng sau: 3.4.1. Xác định đúng vấn đề nghị luận thông qua việc tìm sự giống và khác nhau giữa các đề: Ví dụ: Tôi cho các đề có liên quan đến tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ: 9 Đề 1: Suy nghĩ của em về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 2: Giá trị nhân đạo là giá trị lớn nhất trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Hãy phân tích để làm sáng tỏ. Đề 3: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 4: Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 5: Có nhiều ý kiến cho rằng chi tiết cái bóng là chi tiết quan trọng trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Qua việc phân tích các đề bài trên học sinh đều dễ dàng nhận ra sự giống và khác nhau giữa các đề bài : Giống: Các vấn đề nghị luận đều xoay quanh tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Khác: Điểm khác nhau là ở vấn đề nghị luận: Đề 1: Nghị luận về toàn bộ tác phẩm: nội dung và nghệ thuật. Đề2: Nghị luận về một phần của nội dung. Đề3: Nghị luận về một nhân vật. Đề4: Nghị luận về chủ đề của tác phẩm. Đề5: Nghị luận về một chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Việc học sinh xác định đúng vấn đề nghi luận sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả làm bài. 3.4.2. Rèn kỹ năng nhận biết đúng yêu cầu lập luận: Trong một bài văn nghị luận người viết thường vận dụng nhiều thao tác nghị luận, kỹ năng giải thích, chứng minh, phân tích, cảm nhận...và khó có thể tách bạch một cách rạch ròi các thao tác kỹ năng lập luận đó. Trong hình thức lập luận này đó có sử dụng hình thức lập luận kia và ngược lại. Nhưng với yêu cầu cụ thể giới hạn của một đề bài cụ thể, giáo viên yêu cầu các em cần xác định chính xác hình thức lập luận nào là chủ yếu. Từ đó các em có định hướng làm bài đúng với yêu cầu của đề ra và làm nổi bật đặc trưng của từng hình thức lập luận. Cũng từ việc phân tích 5 đề bài trên học sinh dễ dàng nhận thấy đề văn nghị luận, xét về yêu cầu lập luận, có 2 dạng: Dạng 1: Không có mệnh lệnh mà chỉ có vấn đề nghị luận. ( Đề 4+ Đề 5) 10 Dạng 2: Có mệnh lệnh và vấn đề nghị luận (Đề 1+ Đề 2 + Đề 3). Mệnh lệnh của đề văn nghị luận chủ yếu là: Suy nghĩ (Đề 1); Phân tích (Đề 2); Cảm nhận (Đề 3) Vậy điều khác biệt cơ bản của các yêu cầu lập luận trên là gì? Để học sinh xác định được điều đó giáo viên phải giúp học sinh nắm vững cách viết bài theo từng yêu cầu lập luận khác nhau. 3.4.3.Kỹ năng nhận biết yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: - Dẫn chứng trong một tác phẩm văn học. - Dẫn chứng trong các tác phẩm văn học. Ví dụ: Khi học sinh gặp các đề bài sau: Đề 1: Cảm nhận của em về số phận người phụ nữ xưa qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. (Ngữ văn 9- Tập 1) Đề 2: Cảm nhận của em về số phận người phụ nữ xưa qua tác phẩm văn học trung đại mà em đã được học. Trong hai đề trên phạm vi dẫn chứng là khác nhau: Đề 1 yêu cầu dẫn chứng chủ yếu nằm trong một tác phẩm văn học cụ thể, còn ở đề hai phạm vi dẫn chứng nằm trong nhiều tác phẩm văn học cùng thời kì. 3.5. Rèn kỹ năng lập dàn ý và trình bày ý: 3.5.1.Rèn kĩ năng lập dàn ý: Lập dàn ý là một khâu quan trọng. Dàn ý giúp người viết không bỏ sót những ý cơ bản, trọng tâm, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết. Lập dàn ý tốt, có thể sẽ viết dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn. Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý từng kiểu bài, tôi đưa ra mô hình tổng quát của một bài văn nghị luận cho học sinh tham khảo: 11 Mô hình tổng quát một bài văn nghị luận: Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề): Dẫn dắt từ vấn đề rộng hơn thu hẹp dần đến việc giới thiệu luận đề. Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn đề): Bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn văn là một luận điểm. Các luận điểm đều tập trung làm nổi bật luận đề ở phần ở bài. bài Mở bài Luận điểm 1 Luận điểm 2 Thân Luận điểm 3 Kết bài (còn gọi là kết thúc vấn đề): Tổng hợp lại từ các luận điểm đã trình bày, đánh giá và gợi mở. Kết bài Từ mô hình tổng quát đó, tôi hướng dẫn các em lập dàn ý của từng kiểu bài. Ví dụ: Kiểu bài : Phân tích tình huống truyện. Mở bài: Giới thiệu tình huống truyện. Thân bài: - Luận điểm 1: Giải thích: Tình huống truyện là gì? - Luận điểm 2: Phân tích tình huống truyện: + Đó là tình huống nào? + Phân tích những biểu hiện của tình huống truyện. - Luận điểm 3: Ý nghĩa của tình huống truyện. Kết bài: Khẳng định xây dựng tình huống truyện là sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Vậy làm sao để tìm được hệ thống luận điểm phù hợp với yêu cầu giải quyết vấn đề ? Trong quá trình giảng dạy tôi đã cho học sinh làm các dạng bài tập sau: 3.5.1.1. Dạng bài tập 1: Chọn luận điểm trong hệ thống luận điểm đã có sẵn cho phù hợp với vấn đề nghị luận và sau đó sắp xếp các luận điểm theo trình tự hợp lý. Ví dụ1: Đề bài : Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” của Kim Lân. Tôi sẽ cho học sinh tham khảo hệ thống luận điểm như sau: 12 Luận điểm 1 : Tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai là tình cảm nổi bật xuyên suốt toàn tác phẩm: - Chi tiết đi tản cư nhớ làng. - Theo dõi tin tức kháng chiến. - Niềm vui tin đồn được cải chính. - Tâm trạng đau khổ, day dứt khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây. Luận điểm 2: Nhận xét, đánh giá về nhân vật: - Nhân vật ông Hai đó có những chuyển biến mới trong tình cảm của ngýời nông dân (những nhận thức mới, những tình cảm mới mẻ: sự nhiệt tình, hăng hái, tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh tụ …) - Là nhân vật để lại nhiều tình cảm đẹp trong lòng người đọc: sự yêu mến, trân trọng và cảm phục… - Tình yêu làng đó được nâng lên thành tình yêu nước, sẵn sàng hy sinh tình cảm riêng, của cải riêng. Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật: + Chọn tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước của nhân vật. + Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế. + Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại …) Em có nhất trí dùng tất cả các dự kiến mà bạn đã nêu ra không? Nếu không em chọn ra và sắp xếp lại cho phù hợp? Vì sao em sắp xếp như thế? Qua quá trình thảo luận học sinh đã sắp xếp lại hệ thống luận điểm trên và bổ sung các luận điểm mang tính chất quan trọng (VD: Cuộc đấu tranh nội tâm của ông Hai giữa tình yêu làng và yêu nước) để có được hệ thống luận điểm phù hợp. Mục đích của dạng bài tập này là bước đầu nhận biết cách nêu luận điểm và sắp xếp luận điểm phù hợp với vấn đề nghị luận. 3.5.1.2.Dạng bài tập 2: Xây dựng hệ thống luận điểm, sắp xếp luận điểm: Ví dụ: Đề bài: Tình cảm cha con qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Với dạng bài tập này, tôi yêu cầu học sinh tự xây dựng hệ thống luận điểm. Tôi hướng dẫn các em làm bài tập này theo từng bước: + Bước thứ nhất: Học sinh tìm và xây dựng hệ thống luận điểm. + Bước thứ hai: Học sinh trình bày hệ thống luận điểm trước lớp. 13 + Bước thứ ba: Lớp nhận xét đúng, sai và bổ sung thêm ý kiến để các luận điểm vừa đủ, chính xác phù hợp với vấn đề nghị luận. + Bước thứ tư: Sau khi học sinh đó xây dựng được hệ thống luận điểm, tôi cho học sinh sắp xếp các luận điểm theo trình tự hợp lý. Luận điểm trước làm cơ sở cho luận điểm sau, luận điểm sau mở rộng hơn các luận điểm trước. Mục đích của dạy bài tập này là rèn luyện cho học sinh thói quen thực hiện những thao tác cần thiết xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ khi làm văn nghị luận. Các em thực hiện tốt những thao tác này thì bài viết của các em trước hết là đã đủ ý , đúng yêu cầu nội dung của đề bài ra. Khi đã có dàn ý, bước kế tiếp, giáo viên hướng dẫn học sinh chuyển sang phần luyện viết văn với mục đích để rèn kĩ năng diễn đạt của các em, tránh tình trạng diễn đạt lan man, không thoát ý. 3.5.2. Rèn kỹ năng viết đoạn văn: Từ dàn ý đã có sẵn, các em có thể viết thành đoạn, thành bài. Giáo viên hướng dẫn viết từng đoạn tiêu biểu: đoạn mở bài, các đoạn phần thân bài và đoạn kết bài. 3.5.2.1. Kỹ năng viết Mở bài: Giáo viên luôn dạy và rèn cho học sinh kỹ năng viết mở bài đúng và đi vào lòng người. * Nguyên tắc mở bài: Tôi yêu cầu học sinh: - Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài - Chỉ được nêu những ý khái quát ( không được lấn sang phần thân bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài ). *Cách mở bài: Có rất nhiều cách mở bài (mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp) người viết có thể chọn lựa tùy vào dụng ý của mình. Trong việc rèn kỹ năng này tôi yêu cầu học sinh nắm vững yêu cầu mở bài đối với từng vấn đề nghị luận. Ví dụ đối với đề nghị luận về chủ đề của tác phẩm thì phần mở bài phải theo quy trình sau: (1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác phẩm -> (3) Thời điểm, hoàn cảnh sáng tác -> (4) Chủ đề của tác phẩm -> (5) Nêu ý kiến, đánh giá chung của mình về chủ đề đó. Cho dù học sinh có chọn cách mở bài theo cách trực tiếp hay gián tiếp thì nội dung bắt buộc phải có là (2) và (5). 3.5.2.2. Kỹ năng viết các đoạn trong phần Thân bài: Trước hết, giáo viên cần xác định cho học sinh nhận thức đầy vai trò của phần Thân bài trong một bài văn. Phần Thân bài sẽ lần lượt trình bày, giải thích, 14 nhận xét, đánh giá … các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong đề bài ( thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa các nhiệm vụ đó đề ra ở phần Mở bài ). Trong các bài viết của các em thông thường kỹ năng trình bày từng luận điểm trong phần thân bài còn hạn chế - đặc biệt là đối với học sinh có học lực trung bình, yếu. Giáo viên phải hướng dẫn và yêu cầu học sinh mỗi đoạn văn chỉ được tình bày một ý và ngược lại. Giáo viên hướng cho học sinh viết đoạn theo cách trình bày nội dung đoạn văn theo lối diễn dịch hoặc quy nạp. Khi viết đoạn văn theo cách quy nạp đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề luận điểm -> (2) Dẫn chứng lấy từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> (3) phân tích, nhận xét, đánh giá từ dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành đoạn văn. Ví dụ: (1) Qua lời kể của anh thanh niên ta còn bắt gặp ở vùng đất Sa Pa những con người làm việc âm thầm, lặng lẽ cống hiến sức mình cho đất nước. (2) Ông kỹ sư vườn rau ngày này qua ngày khác ngồi trong vườn, chăm chú rình xem cách lấy mật của ong để rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn, để xu hào trên toàn miền Bắc ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước.(3) Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét suốt “11 năm không một ngày xa cơ quan” luôn “trong tư thế sẵn sàng, suốt ngày chờ sét” để lập bản đồ tìm ra tài nguyên trong lòng đất.(4) Nhân vật anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu sét giúp ta hiểu thêm ý nghĩa của những công việc thầm lặng.(5) Sống cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân, sống có ý nghĩa sẽ mang đến cho con người niềm vui và hạnh phúc. Như vậy: Câu (1) là câu nêu luận điểm. Câu (2), (3) là câu làm sáng tỏ luận điểm bằng các dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm. Câu (4) và (5) là những câu mang tính đánh giá, nhận xét mang tính tổng kết. Ở từng luận điểm, cần sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm. Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển chuyển. 3.5.2.3. Rèn kỹ năng viết đoạn Kết bài: Đoạn kết bài chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, tiếp nối nhưng không lặp lại ý ở phần thân bài. Học sinh phải nhận thức được kết bài không chỉ 15 hoàn chỉnh bài văn mà còn là sự thể hiện chiều sâu trong nhận thức của người viết. Khi nêu nhận xét, đánh giá cần: + Nêu những nhận định đánh giá chung về: nghệ thuật, ảnh hưởng của nhân vật, tác phẩm, chủ đề...( tùy vấn đề nghị luận ) đối với người đọc. + Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với vấn đề nghị luận. + Cần nói đến vai trò, vị trí của vấn đề nghị luận trong tác phẩm, và tùy trường hợp, có thể nói rõ tác giả đó đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật trong quá trình phát triển của văn học một thời kì (ý này dành cho học sinh khá, giỏi). Ví dụ: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Bản thân tôi đã hướng dẫn học sinh phải đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật còn bày tỏ ý kiến, cảm xúc của mình với nhân vật: Truyện Những ngôi sao xa xôi đã thành công về cách kể chuyện, đặc biệt là nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Truyện đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp về những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Những “ngôi sao” ấy luôn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, biết ơn. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Từ khi triển khai sáng kiến, chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân đã được nâng cao rõ rệt, điều này được thể hiện rõ nhất ở tiến bộ của học sinh so với thời điểm đầu năm học. * Kết quả học tập của học sinh cuối năm học (2016 - 2017) sau khi triển khai áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Lớp Tổng số học sinh 9A 9B 30 30 Giỏi TS % 5 16.5 1 3.3 KẾT QUẢ XẾP LOẠI Khá Trung bình TS % TS % 11 36.5 14 47.0 6 20.0 19 63.4 Yếu TS % 0 0 4 13.3 16 III/ KẾT LUẬN 1/ Kết luận: Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy kết quả qua các bài làm của học sinh đã có nhiều tiến bộ. Đa số các em đã xác định đúng các vấn đề nghị luận, biết triển khai, sắp xếp các luận điểm phù hợp. Muốn đạt được kết quả đó mỗi giáo viên cần: - Phải thực sự tâm huyết với nghề, luôn học hỏi tìm tòi bởi kiểu bài nghị luận bao giờ cũng là một trong những kiểu bài ðòi hỏi ở người dạy vốn kiến thức sâu rộng, khả năng tư duy. - Trong quá trình giảng dạy phải dứt khoát, yêu cầu học sinh học tập nghiêm túc, vận dụng nhiều kiểu bài thực hành để mọi đối tượng học sinh có thể tham gia. - Đối với học sinh có học lực trung bình và dưới trung bình thông thường học sinh mơ hồ về văn nghị luận đặc biệt lại là nghị luận văn chương. Đối với những đối tượng học sinh này giáo viên phải kiên trì, trước hết phải yêu cầu học sinh nắm vững các tác phẩm truyện sau đó mới cung cấp kiến thức về kiểu bài và không nên yêu cầu quá cao ngay từ những bài viết đầu tiên. 2/ Đề xuất: - Với nhà trường: Cần bổ sung thêm tài liệu tham khảo để giáo viên có thêm nhiều nguồn tư liệu phục vụ cho bài dạy. - Với phòng giáo dục: Tăng cường buổi sinh hoạt chuyên môn chuyên sâu để bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ giáo viên. Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, tuy có nghiên cứu kĩ lưỡng trước khi trình bày. Song do trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian dành cho việc nghiên cứu còn ít cho nên trong khuôn khổ đề tài này không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được góp ý, phê bình và xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục để kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! 17 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 15/3/2017 Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là do tôi viết, không sao chép của người khác. Người viết 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. S ách giáo khoa Ngữ v ăn 9 tập 1,2 NXB Giáo dục S ách giáo viên Ngữ v ăn 9 tập 1,2 NXB Giáo dục Chuẩn kiến thức kĩ năng 9 tập 1,2 - NXB Giáo dục Tuyển chọn đề thi vào lớp 10 chuyên môn Ngữ văn (Lã Minh Luận, NXB Đại học Sư phạm) Tuyển tập 36 đề ôn luyện thi vào 10 môn Ngữ văn (Lã Minh Luận – Lã Phương Thảo, N XB Đại học Sư phạm) 199 bài và đoạn văn hay (Thái Quang Vinh, NXB Đại học Sư phạm) Sổ tay kiến thức Ngữ văn 9 ( Nguyễn Xuân Lạc - NXB Giáo dục) Phát triển kĩ năng làm bài văn nghị luận 9 ( Nguyễn Phước Lợi – NXB Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh ) 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan