Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyết định hình phạt theo quy định tại điều 102, điều 103 bộ luật hình sự năm 20...

Tài liệu Quyết định hình phạt theo quy định tại điều 102, điều 103 bộ luật hình sự năm 2015

.PDF
206
1
142

Mô tả:

BÙI THỊ MINH THU BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ BÙI THỊ MINH THU QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU KHÓA 29 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Tuệ Phương Học viên: Bùi Thị Minh Thu Lớp: Cao học Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Khóa: 29 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuệ Phương – giảng viên Khoa Luật Hình sự, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Các ý kiến, khái niệm khoa học và mọi tham khảo từ các tài liệu, công trình nghiên cứu khác được sử dụng trong luận văn đều được chú thích trích dẫn đầy đủ theo quy định của Nhà trường. Tác giả luận văn Bùi Thị Minh Thu DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt BLHS BLHS 2015 BLHS 1999 BLTTHS 2015 CTTP TNHS Nội dung viết tắt Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Cấu thành tội phạm Trách nhiệm hình sự MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................................ 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.............................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................... 4 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................................... 5 6. Kết cấu của đề tài: ..................................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỚI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT KHI PHẠM NHIỀU TỘI ................ 7 1.1 Khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” ..................................................................... 7 1.2 Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội ......... 8 1.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội........................ 8 1.2.2 Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội .............................................................................................................. 10 1.2.2.1 Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt..................................................................... 10 1.2.2.2 Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ............................................. 12 1.2.3 Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .......................... 13 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................................................. 20 CHƯƠNG 2 - CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 ...................... 21 2.1 2015 Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm ........................................................................................................................................ 21 2.2 Quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Điều 102, Điều 103 của Bộ luật hình sự năm 2015 .......................................................... 28 2.2.1 Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015 .............................................. 28 2.2.2 Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp phạm nhiều tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 ................................................................................. 45 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................................................. 51 CHƯƠNG 3 - THỰC TIỄN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............................................................................................ 53 3.1 Thực trạng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................... 53 3.1.1 Tình hình phạm tội của người dưới 18 tuổi ............................................................. 53 3.1.2 Tình hình áp dụng Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015 khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi. ...................................................................................... 55 3.2 Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. .................................................................................................... 61 3.2.1 Kiến nghị bổ sung điều luật về căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. .......................................................................................................................... 61 3.2.2 Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. ..................................................................................................................... 62 3.2.3 Kiến nghị hoàn thiện quy định chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của người dưới 18 tuổi phạm tội. ............................................................................................................. 63 3.2.4 Kiến nghị hoàn thiện quy định tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội của người dưới 18 tuổi phạm tội. ............................................................................................................. 65 3.2.5 Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ............................. 68 KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có vai trò quyết định sự đúng đắn, chính xác của một bản án hình sự. Theo đó, quyết định hình phạt có căn cứ, đúng pháp luật, công bằng là tiền đề và điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt - giáo dục, cải tạo, răn đe giúp người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, quyết định hình phạt đúng còn góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ và tăng cường pháp chế, trật tự xã hội. Người dưới 18 tuổi là thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước nên nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ nói chung, giáo dục thanh thiếu niên nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta hiện nay. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế thị trường phát triển tăng vọt kéo theo tình hình xã hội ngày càng phức tạp, số lượng tội phạm ngày càng gia tăng, đặc biệt là tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương tăng cường quan tâm chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, đề ra các biện pháp chú trọng hiệu quả phòng ngừa ngăn chặn người dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính nhân đạo trong chính sách xử lý của nhà nước đối với nhóm đối tượng đặc biệt này. Trên cơ sở kế thừa và phát triển BLHS 1999 về vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên, BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã quy định một chương riêng dành cho nhóm đối tượng này tại Chương XII – “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Trong đó, Chương XII quy định cụ thể, chi tiết và hoàn thiện hơn về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định về trách nhiệm hình sự của họ bao gồm cả vấn đề quyết định hình phạt khi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội tại Điều 102, Điều 103 BLHS 2015. Tuy nhiên, các quy định của BLHS 2015 về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp trên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa đảm bảo mục đích hình phạt vừa phải đảm bảo lợi ích tốt nhất cho các em trên tinh thần nhân đạo, sự khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội là 2 người dưới 18 tuổi, cụ thể như chưa có quy định riêng về căn cứ quyết định hình phạt cho người dưới 18 tuổi phạm tội; các quy định nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi vẫn còn mang tính tuỳ nghi, chưa được áp dụng triệt để trên thực tiễn theo đúng tinh thần chính sách hình sự nhân đạo hơn của nhà nước ta dành riêng cho nhóm đối tượng này; quy định về quyết định hình phạt khi phạm tội chưa đạt tại Khoản 2 Điều 102 BLHS 2015 gây ra nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau về quy trình tính mức hình phạt. Thêm vào đó, các quy định tại Điều 103 BLHS 2015 chưa thể hiện rõ sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong hình phạt cải tạo không giam giữ và còn một số vướng mắc khi áp dụng luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định mới của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với ngưới dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành là một điều cần thiết, vừa có ý nghĩa về lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công cuộc đấu tranh phòng, chống người dưới 18 tuổi phạm tội. Với nhận thức trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài Quyết định hình phạt đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, có thể kể đến một số công trình về đề tài này như sau: - Về giáo trình, sách chuyên khảo có các công trình sau: Dương Tuyết Miên: “Định tội danh và quyết định hình phạt”; Đinh Văn Quế: “Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong luật HSVN”… - Về Luận án tiến sĩ Luật học tiêu biểu có các công trình nghiên cứu của các tác giả: Dương Tuyết Miên với công trình “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”… - Về Luận văn thạc sĩ Luật học tiêu biểu có các công trình nghiên cứu của các tác giả: Lê Duy Ninh: “Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh”; Nguyễn Đức Minh: “Quyết định 3 hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”; Ngô Thị Hoàng Điệp: “Căn cứ quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam lý luận và thực tiễn”; Nguyễn Thanh Trúc: “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”; Lê Tường Vy: “Căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”… - Về Luận văn cử nhân có các đề tài của tác giả: Đặng Thị Thanh Thủy, “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”; Trần Thị Bích Thoa, “Quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt”; Hồ Thị Thuỳ Trang, “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015”… - Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu của các tác giả được đăng trên tạp chí chuyên nghành: Hoàng Thị Kim Anh, Phan Thị Phương Hiền, Trần Ngọc Lan Trang, “Một số điểm mới về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03/2016; Trần Văn Dũng, “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, số 10/2003; Hoàng Minh Đức, “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tại TP.HCM”, Tạp chí Nghề luật, số 4/ 2015; Mai Thị Thuỷ, “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo BLHS 2015”, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2016… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của các quy định của pháp luật về quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, nội dung quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 102, Điều 103 lại chưa được đề cập chi tiết, cụ thể và chuyên sâu. Vì vậy, tác giả muốn tập trung nghiên cứu, phân tích sâu hơn và toàn diện hơn các quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp đặc biệt như: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội để từng bước hoàn thiện quy định tư pháp hình sự Việt Nam để bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho người phạm tội dưới 18 tuổi. 4 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Mục tiêu: Phân tích, nghiên cứu có hệ thống và toàn diện những quy định của pháp luật hiện hành về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm nhiều tội trên cơ sở so sánh với BLHS 1999 và đánh giá việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử. Từ đó xác định những thiếu sót, đưa ra ý kiến đóng góp và phương hướng nhằm hoàn thiện những quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Nhiệm vụ: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc áp dụng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội. Làm rõ những vấn đề chung về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phân tích, đánh giá nội dung các quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó đưa ra kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở của BLHS 2015 so sánh với BLHS 1999 để tìm ra phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về các vấn đề nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, so sánh, tổng hợp, bình luận án, thống kê số liệu và khảo sát bằng bảng hỏi. Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 của luận văn. Cụ thể: - Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích, lý giải nội dung các quy phạm pháp luật thực định nhằm hệ thống các quy định pháp luật một cách khoa học và dự báo sự phát triển của các quy định trong tương lai. Phương pháp này 5 không chỉ được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 mà còn được sử dụng xuyên suốt luận văn giúp cho người đọc có cái nhìn chi tiết, rõ ràng đối với từng vấn đề. - Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để hỗ trợ phương pháp phân tích nhằm tìm ra vấn đề chung, khái quát nhất những vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: được sử dụng nhằm tìm ra những điểm tiến bộ, hạn chế giữa các quy định pháp luật của BLHS 2015 so với BLHS 1999. Ưu điểm của phương pháp này là giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quan, khái quát và rõ ràng về nội dung đang nghiên cứu, chỉ ra những điểm tiến bộ và những điểm chưa phù hợp, chưa thống nhất của các quy định pháp luật, qua đó làm tiền đề để đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phương pháp bình luận án, phương pháp thống kê số liệu và phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi được sử dụng chủ yếu ở Chương 2, Chương 3 của luận văn. Cụ thể: - Phương pháp bình luận án: phương pháp này được sử dụng để tìm ra những điểm chưa phù hợp, thống nhất giữa quy định của pháp luật thực định và thực tiễn xét xử (thông qua các bản án, quyết định của Tòa án), qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. - Phương pháp thống kê số liệu: dùng để tổng hợp các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội làm cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề pháp lý và thực tiễn. - Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: được sử dụng để thu thập dữ liệu về quan điểm, cách thức áp dụng pháp luật trên thực tiễn từ các chủ thể tiến hành tố tụng về vấn đề đang nghiên cứu, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra những nhận xét, đánh giá, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ những khía cạnh pháp lý về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội, đồng thời góp phần hoàn thiện các 6 lý luận cơ bản về quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hình sự và tạo cơ sở nhận thức đúng đắn trong công tác phòng, chống người dưới 18 tuổi phạm tội. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu khoa học về các vấn đề liên quan tới quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Kết quả của quá trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có góc nhìn đánh giá chính xác, toàn diện hơn trong việc giải quyết vụ án hình sự và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 102, Điều 103 BLHS 2015 được đúng đắn, công bằng, đúng tinh thần của pháp luật. 6. Kết cấu của đề tài: Luận văn được chia thành ba chương với nội dung như sau: Chương 1 – Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với ngưới dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội Chương 2 – Các quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015. Chương 3 – Thực tiễn về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 7 CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỚI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT KHI PHẠM NHIỀU TỘI 1.1 Khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” BLHS 2015 đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội” thay cho thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” trong BLHS 1999 nhằm cụ thể hóa và thống nhất cách hiểu về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội. Bởi lẽ theo Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990 quy định: “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi”, trong khi đó Luật trẻ em năm 2014 của Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Như vậy, có một khoảng trống độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được gọi tên như thế nào? Và nhiều người gọi độ tuổi đủ 16 đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Tuy nhiên, nếu quan niệm như vậy lại không phù hợp với quy định của Điều 68 BLHS 1999 quy định: “người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu TNHS theo quy định của chương này...” và có thể thấy sự thiếu thống nhất trong cách gọi tên đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội. Vì vậy, BLHS 2015 đã thống nhất tên gọi là “người dưới 18 tuổi phạm tội” và quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS 2015 như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Tóm lại, khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” theo BLHS 2015 không có gì khác so với khái niệm người chưa thành niên phạm tội theo Điều 69 BLHS năm 1999, theo đó người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi vào thời điểm thực hiện một tội phạm được quy định trong BLHS. 8 Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội 1.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.2 Để có thể hiểu khái niệm quyết định hình phạt, chúng ta cần phải đi từ khái niệm áp dụng pháp luật và khái niệm hình phạt. “Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”1. “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”2. Từ hai khái niệm trên, có thể suy ra rằng quyết định hình phạt là một giai đoạn cơ bản của quá trình áp dụng pháp luật hình sự để pháp luật hình sự phát huy hiệu lực trong đời sống xã hội và chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất được quyền quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Quyết định hình phạt còn là một hoạt động quan trọng của tố tụng hình sự và giữ vai trò tiền đề để đạt được các mục đích của hình phạt: Trừng trị, giáo dục, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quyết định hình phạt đúng, chính xác, công bằng không những đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đạt được mục đích hàng đầu là giáo dục người phạm tội có ý thức tôn trọng pháp luật, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội mà còn tác động đến ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội để họ nhận thức được tính nghiêm minh của pháp luật, từ đó đóng vai trò tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và góp phần bảo đảm tính pháp chế trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài những ý nghĩa trên thì quyết Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.188 2 Điều 30 BLHS 2015. 1 9 định hình phạt đúng còn ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách và tái hòa nhập cộng đồng của họ sau này. Hiện nay, trong BLHS 2015, BLTTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành hai bộ luật trên vẫn chưa có quy định riêng về khái niệm quyết định hình phạt. Khái niệm quyết định hình phạt chỉ tồn tại về mặt lý luận và được đưa ra bởi nhiều tác giả trong một số công trình khoa học luật hình sự dưới đây: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”3. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS”4. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh thì: “Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”5. Theo tác giả Dương Tuyết Miên định nghĩa: “Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện”6. Như vậy, về cơ bản khái niệm quyết định hình phạt của các tác giả đều thể hiện thống nhất quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn những hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội và quyết định loại, mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Dựa trên các định nghĩa về quyết định hình phạt nêu trên, tác giả cho rằng định nghĩa của quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi có thể được hiểu Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, tr.317. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, tr. 315 5 Trường ĐH Luật TP.HCM (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trần Thị Quang Vinh, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 310. 6 Dương Tuyết Miên, “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb. Lao động – Xã hội, tr.63 3 4 10 như sau: Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là một khâu của quá trình áp dụng pháp luật thể hiện ở việc Tòa án tiến hành lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định, theo một trình tự nhất định để áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội. 1.2.2 Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội 1.2.2.1 Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm mà chưa thực hiện tội phạm vì nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Theo đó, người phạm tội mới chỉ có hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và có các đặc điểm sau: - Thứ nhất, về mặt khách quan, hành vi chuẩn bị phạm tội thể hiện ở việc tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm. - Thứ hai, chuẩn bị phạm tội tồn tại dưới dạng hành vi vào thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do vậy, để xác định chính xác giai đoạn chuẩn bị phạm tội, cần xác định thời điểm sớm nhất và thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội. • Thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là thời điểm mà người • phạm tội bắt đầu có những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần nhằm làm cho việc thực hiện tội phạm ở những bước tiếp theo được thuận lợi và dễ dàng hơn (như bắt đầu tìm kiếm công cụ, phương tiện phạm tội, rủ rê, lôi kéo đồng bọn…); Thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là thời điểm trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP hoặc thời điểm trước khi người phạm tội thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan của tội. Ví dụ, tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015) có hành vi khách quan là lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị 11 phạm tội trộm cắp tài sản là trước khi người đó thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. - Thứ ba, về mặt chủ quan, người chuẩn bị phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp, họ mong muốn thực hiện được hành vi phạm tội của mình và mong muốn hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, họ không thực hiện tội phạm được đến cùng là do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ. - Thứ tư, về mức độ chịu TNHS, do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội hạn chế hơn so với phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành nên trách nhiệm của người chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn so với hai giai đoạn phạm tội trên. Phạm tội chưa đạt là trường hợp hành vi phạm tội đã thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP vì nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Theo đó, hành vi của người phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của CTTP và có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt: - Thứ nhất, người phạm tội đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, tức là họ đã thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của CTTP hoặc thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan của tội phạm; - Thứ hai, người phạm tội chưa thực hiện tội phạm đến cùng (về mặt pháp lý), tức là trong hành vi phạm tội của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP mà họ có ý định thực hiện: • • Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, được coi là phạm tội chưa đạt khi chủ thể đã thực hiện tội phạm nhưng hậu quả luật định chưa xảy ra hoặc hậu quả đã xảy ra không có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội; Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, được coi là phạm tội chưa đạt khi mặt khách quan của CTTP bao gồm hai hành vi nhưng người phạm tội mới thực hiện được hành vi thứ nhất, chưa kịp thực hiện hành vi thứ hai thì tội phạm đã bị dừng lại; hoặc người phạm tội mới thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan thì bị dừng lại. 12 - Thứ ba, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng nhưng trên thực tế, họ không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ. - Thứ tư, về mức độ chịu TNHS, do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chưa đạt hạn chế hơn so với tội phạm hoàn thành nên mức độ TNHS nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành. Nhìn chung, giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều là những trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu khách quan của CTTP và mức độ thực hiện tội phạm còn hạn chế. Theo quy định của BLHS, hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của BLHS về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Khi quyết định hình phạt trong hai trường hợp này, ngoài việc tuân thủ các quy định chung về căn cứ quyết định hình phạt, Tòa án còn cần tuân thủ các quy định áp dụng riêng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, bởi vì tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hạn chế hơn so với phạm tội hoàn thành nên mức độ TNHS cũng thấp hơn. Do vậy, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là quyết định hình phạt trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt so với quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội hoàn thành. 1.2.2.2 Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội Phạm nhiều tội là trường hợp người đã phạm nhiều tội khác nhau được quy định trong luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị kết án lần nào, nay bị tòa án đưa ra xét xử cùng một lần với các tội phạm đó7. Trong khoa học pháp lý hình sự, có ba trường hợp phạm nhiều tội như sau: - Trường hợp thứ nhất: Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi cấu thành một tội phạm. Các hành vi phạm tội này không liên quan đến nhau (được thực hiện nhằm các mục đích khác nhau) hoặc có thể có liên quan với nhau (được thực hiện để đạt cùng mục đích). Trường ĐH Luật TP.HCM (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trần Thị Quang Vinh, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 355 7 13 Ví dụ: Một người có hành vi cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS 2015, sau đó lại có hành vi giết người theo Điều 123 BLHS 2015. - Trường hợp thứ hai: Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau, mỗi hành vi cấu thành một tội khác nhau nhưng chúng có liên quan với nhau và cùng nhằm một mục đích phạm tội. Ví dụ: Giết người để thực hiện hành vi cướp tài sản thì phạm hai tội là tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 và tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS 2015. - Trường hợp thứ ba: Người phạm tội có một hành vi phạm tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội phạm khác nhau. Ví dụ: Dùng súng để giết người thì phạm hai tội là tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo Điều 304 BLHS 2015. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là việc Tòa án quyết định hình phạt đối với bị cáo phạm từ hai tội trở lên, những tội đó chưa bị đưa ra xét xử, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần. Đây là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt, bởi vì Tòa án không chỉ quyết định hình phạt đối với một tội mà Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với nhiều tội. Khi đó, Tòa án phải quyết định cho mỗi tội phạm một hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có, sau đó phải quyết định hình phạt chung đối với các tội đó bằng cách tổng hợp các hình phạt theo phương pháp thu hút hình phạt hoặc phương pháp cộng hình phạt. Như vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, Tòa án ngoài việc phải tuân theo các quy định chung về quyết định hình phạt khi quyết định hình phạt đối với từng tội, mà còn phải tuân thủ các quy định đặc thù áp dụng riêng cho trường hợp phạm nhiều tội theo quy định BLHS. 1.2.3 Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Khi quyết định hình phạt, Tòa án có quyền lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng với người phạm tội. Tuy nhiên, việc lựa chọn này không thể thực hiện một cách tùy tiện mà phải trên những cơ sở, căn cứ để lựa chọn nhằm bảo đảm tính công bằng, minh bạch của pháp luật, bảo đảm áp dụng hình phạt tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Không thể quyết định hình phạt quá 14 nặng hoặc quá nhẹ, nếu quyết định hình phạt quá nhẹ thì sẽ không đạt được mục đích phòng ngừa của hình phạt, trong đó có mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, còn nếu quyết định hình phạt quá nặng thì sẽ không công bằng, tạo tâm lý không tin tưởng vào pháp luật. Do đó, Điều 50 BLHS 2015 đã quy định các căn cứ quyết định hình phạt mà Toà án buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt cho người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng nhằm đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích hình phạt. Cụ thể như sau: Căn cứ “các quy định của BLHS” Các quy định của BLHS là căn cứ đầu tiên, tiền đề của quyết định hình phạt, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Tòa án định tội danh đúng người, đúng tội và xác định khung hình phạt phù hợp, đúng pháp luật. Những quy định của BLHS ở đây được hiểu là tất cả các quy định về hình phạt trong phần chung và phần tội phạm cụ thể của BLHS. - Căn cứ vào các quy định ở Phần chung của BLHS khi quyết định hình phạt nhằm xác định các vấn đề mang tính nguyên tắc về tội phạm và hình phạt. Chẳng hạn như những quy định về cơ sở của TNHS (Khoản 1 Điều 2 BLHS 2015); về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội (Khoản 1 Điều 3 BLHS 2015); những quy định về hình phạt đối với người phạm tội (Điều 30 đến Điều 45 BLHS 2015); về biện pháp tư pháp đối với người phạm tội (Điều 46 đến Điều 49 BLHS 2015); về căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội (Điều 50 BLHS 2015), về các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 51 BLHS 2015), về các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 52 BLHS 2015), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS 2015); những quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (Điều 54 đến Điều 59 BLHS 2015); về án treo (Điều 65 BLHS 2015)… - Căn cứ vào các quy định ở phần các tội phạm của BLHS khi quyết định hình phạt là quy định về khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho từng loại tội, hay nói cách khác, đó chính là chế tài đối với một tội phạm cụ thể được quy định trong điều luật ở phần các tội phạm. Ngoài các quy định của BLHS nêu trên, trường hợp quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Toà án cần căn cứ vào các quy định riêng sau đây áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội tại Chương XII BLHS 2015:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan