Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù một số vấn đề lí luận và thực...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù một số vấn đề lí luận và thực tiễn luận văn ths. luật

.PDF
106
373
148

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN ĐIỀU QuyÒn vµ nghÜa vô cña ng-êi chÊp hµnh h×nh ph¹t tï: mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bô hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI - 2014 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng rôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Điều MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Những chữ viết tắt trong luận văn Danh các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 5 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ........................................................................... 5 1.1.1. Khái niệm trại giam .............................................................................. 5 1.1.2. Khái niệm phạm nhân .......................................................................... 9 1.1.3. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của phạm nhân ................................... 11 1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN ..................................... 27 1.2.1. Đảng lãnh đạo để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của phạm nhân .. 27 1.2.2. Quan điểm quản lý chặt chẽ kết hợp giáo dục và thực hiện chế độ chính sách nhằm bảo đảm phạm nhân đƣợc hƣởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ .............................................................................. 29 1.2.3. Quan điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm và thực hiện quyền, nghĩa vụ của phạm nhân ......................................................... 30 1.2.4. Quan điểm nhân đạo xã hội chủ nghĩa để bảo đảm và thực hiện quyền, nghĩa vụ của phạm nhân ......................................................... 31 1.2.5. Một số quy định luật pháp quốc tế có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án phạt tù ........................................... 33 1.2.6. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc và chính sách, pháp luật của Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của phạm nhân ................................... 38 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 41 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................... 43 2.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ PHẠM NHÂN CHẤP HÀNH ÁN Ở CÁC TRẠI GIAM ........................................................................................ 43 2.1.1. Số liệu phạm nhân .............................................................................. 43 2.1.2. Cơ cấu, thành phần, tính chất phạm tội của phạm nhân trong các trại giam .............................................................................................. 44 2.1.3. Đặc điểm nhân khẩu học của phạm nhân ở trại giam ........................ 47 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ .................................................. 51 2.2.1. Chế độ ăn của phạm nhân .................................................................. 51 2.2.2. Chế độ mặc của phạm nhân ............................................................... 54 2.2.3. Chế độ ở của phạm nhân .................................................................... 56 2.2.4. Tổ chức lao động sản xuất, dạy nghề cho phạm nhân ....................... 58 2.2.5. Chế độ bảo hộ lao động ...................................................................... 62 2.2.6. Tổ chức cho phạm nhân học tập pháp luật, thời sự, chính trị ............ 63 2.2.7. Tổ chức cho phạm nhân chƣa biết chữ học văn hoá .......................... 67 2.2.8. Tổ chức gặp thân nhân, gửi, nhận thƣ, nhận tiền, quà, bƣu phẩm, bƣu kiện, trao đổi thông tin bằng điện thoại và mua hàng tại căng tin của phạm nhân .............................................................................. 68 2.2.9. Tạm đình chỉ thi hành án phạt tù ........................................................ 69 2.2.10. Xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù ......................................... 70 2.2.11. Đặc xá tha tù trƣớc thời hạn cho phạm nhân ..................................... 72 2.2.12. Khiếu nại, tố cáo................................................................................. 72 2.3. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ...................................... 74 Kết luận chƣơng 2 ........................................................................................... 76 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN TẠI TRẠI GIAM Ở VIỆT NAM .................................................................................78 3.1. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ ...................................................................................... 79 3.1.1. Vấn đề cho phép Luật sƣ tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phạm nhân trong giai đoạn thi hành án .............................................. 79 3.1.2. Vấn đề bổ sung tội danh “Chống lại việc thực hiện Nội quy trại giam” ... 81 3.1.3. Đổi mới cơ chế pháp lý để giải quyết các khiếu nại, tố cáo của phạm nhân .......................................................................................... 82 3.2. THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI PHẠM NHÂN, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, ĐOÀN THỂ XÃ HỘI TRONG VIỆC XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, GIÁO DỤC, CẢI TẠO PHẠM NHÂN ............................................................ 84 3.3. XÁC LẬP CƠ CHẾ THANH TRA, KIỂM TRA GIÁM SÁT ĐỂ PHÁT HIỆN KỊP THỜI, XỬ LÝ NGHIÊM MINH CÁC SAI PHẠM VI PHẠM QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN ........................................ 87 3.4. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT, PHƢƠNG TIỆN, TRANG THIẾT BỊ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CÁN BỘ PHỤC VỤ CHO CÔNG TÁC GIAM GIỮ, QUẢN LÝ, GIÁO DỤC CŨNG NHƢ BẢO ĐẢM CÁC QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở TRẠI GIAM ............................ 87 KẾT LUẬN .................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ANQG An ninh quốc gia CAND Công an nhân dân CBCS Cán bộ chiến sỹ CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam TTATXH Trật tự an toàn xã hội Tổng cục VIII Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tƣ pháp - Bộ Công an VNDCCH Việt Nam Dân chủ Cộng hoà XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Phân loại tội danh của phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ 45 Trang Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ phạm nhân vào chấp hành án tại các trại giam từ năm 2010 đến năm 2013 43 Biểu đồ 2.2: Trình độ học vấn của phạm nhân 49 Biểu đồ 2.3: Khảo sát 1000 phạm nhân về chế độ mặc của phạm nhân 54 Biểu đồ 2.4: Khảo sát 1000 phạm nhân về chế độ ở của phạm nhân 56 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề quyền con ngƣời, giải phóng con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó, họ có quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc”[55]. Đây là bản Tuyên ngôn Độc lập của Nƣớc VNDCCH, không chỉ nhằm công bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia độc lập, có chủ quyền mà còn là một bản tuyên ngôn về quyền con ngƣời của Việt Nam. Hiến pháp của Nƣớc VNDCCH các năm 1946, 1959 và CHXHCN Việt Nam năm 1980, 1992, 2013 đều ghi nhận các nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân, công dân bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Phẩm giá con ngƣời, tài sản, bí mật đời tƣ của công dân đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ. Dựa trên Hiến pháp, pháp luật, tất cả các cơ quan hợp thành hệ thống chính trị bao gồm ĐCSVN, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tƣ pháp, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội đều phải có trách nhiệm đảm bảo quyền con ngƣời. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tổ chức thi hành hình phạt tù, vấn đề quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù chƣa đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống. Trên thực tế, để đạt đƣợc mục đích quản lý, giam giữ, giáo dục cải tạo ngƣời chấp hành hình phạt tù, trả lại cho xã hội những con ngƣời hoàn lƣơng tái hòa nhập cộng đồng, có rất nhiều vấn đề phải làm, nhƣng trƣớc mắt phải quy định rõ ngƣời đang chấp hành hình phạt tù là ai, quyền và nghĩa vụ của họ ra sao? Trên cơ sở đó, các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, Mặt trận Tổ quốc, đặc biệt là cơ quan thi hành án phạt tù áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù; 1 đồng thời để họ điều chỉnh hành vi của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù một cách toàn diện và có hệ thống là cần thiết, hƣớng tới hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý, giam giữ, giáo dục trong các trại giam, phát huy sức mạnh tổng hợp của gia đình, các lực lƣợng xã hội tham gia vào công tác giam giữ, giáo dục, cải tạo. Từ nhận thức đó, cho thấy vấn đề: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn là vấn đề cần nghiên cứu sâu sắc và có hệ thống. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số công trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phƣơng diện khác nhau về quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù. Sau khi Luật Thi hành án hình sự chính thức có hiệu lực (một văn bản pháp lý chính thống, điều chỉnh toàn diện về tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011) thì đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu cơ bản nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quyền, nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù và thực trạng áp dụng các quyền, nghĩa vụ này trong thực tiễn ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ. Từ thực tiễn tình hình nghiên cứu trên đây, một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù trong trại giam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác quản lý, giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân, đồng thời góp phần hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự nói chung, pháp luật thi hành hình phạt tù nói riêng. - Luận văn đặt ra và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: 2 a. Nghiên cứu cơ sở lý luận quyền và nghĩa vụ của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an. b. Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là quyền và nghĩa vụ của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Phạm vi không gian: Thực hiện quyền và nghĩa vụ của phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an. Phạm vi thời gian: Thực hiện quyền và nghĩa vụ của phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an từ năm 2010 đến 2013. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện theo cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, các vấn đề cải cách tƣ pháp trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng các khoá gần đây, các Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê;... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu của luận văn. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên, có hệ thống ở 3 cấp độ luận văn Thạc sĩ luật học về quyền, nghĩa vụ của ngƣời chấp hành hình phạt tù; đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình thực hiện các quyền, nghĩa vụ này trong thực tế; những tồn tại, khó khăn, vƣớng mắc xung quanh việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ này trong các trại giam thuộc Bộ Công an; đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quyền này trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới. Luận văn có thể sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết, bổ ích cho những ngƣời nghiên cứu và cho cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan thi hành án hình sự trong phạm vi cả nƣớc. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn đƣợc cấu trúc gồm: Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền, nghĩa vụ của phạm nhân tại các trại giam ở Việt Nam hiện nay. Chương 2. Thực trạng thực hiện quyền, nghĩa vụ của phạm nhân tại các trại giam ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Một số giải pháp tiếp tục bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của phạm nhân tại trại giam ở Việt Nam. 4 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.1.1. Khái niệm trại giam Thi hành án phạt tù là buộc ngƣời bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân chấp hành hình phạt tại trại giam nhằm giáo dục họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tại khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự nêu rõ: “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành có ích cho xã hội”[45, Khoản 1 Điều 16]. Luật Thi hành án hình sự: “Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù”.[45] Trại giam là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ chế độ và chính quyền cách mạng, bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH, trại giam Việt Nam có lịch sử ra đời và phát triển gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc, với những thành tích to lớn trên lĩnh vực phòng chống tội phạm. Cùng với việc xuất hiện của Nhà nƣớc VNDCCH, trại giam Việt Nam ra đời và đã thể hiện rõ vị trí và bản chất của mình là một công cụ quan trọng để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội. Trại giam Việt Nam luôn thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nƣớc mới, của chế độ xã hội mới. Điểm mốc lịch sử quan trọng trong sự hình thành và phát triển của hệ thống trại giam Việt Nam là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 150/SL ngày 07/11/1950 quy định về tổ chức trại giam. Sắc lệnh nêu rõ: “Phạm nhân phải giam giữ trong trại giam để trừng trị và giáo hoá. Bộ Nội vụ có nhiệm vụ tổ chức và kiểm soát các trại giam trong phạm vi toàn quốc” [20]. Ngày 12 5 tháng 6 năm 1951 chiểu theo Sắc lệnh 150/SL, liên Bộ Nội vụ - Tƣ pháp ban hành Nghị định 181/NV6 ấn định những chi tiết về thiết lập, tổ chức và hoạt động kiểm soát trại giam. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, trên lĩnh vực thi hành án phạt tù Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm chỉ đạo việc quản lý, giáo dục phạm nhân có hiệu quả. Ngày 08 tháng 3 năm 1993, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án phạt tù; Ngày 16 tháng 9 năm 1993, Chính phủ ra Nghị định số 60/CP ban hành Quy chế trại giam; Ngày 19/10/2007 Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 01/2007/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù; ngày 28 tháng 10 năm 2008 Chính phủ ban hành Nghị định 113/2008/NĐ-CP về quy chế trại giam. Đặc biệt ngày 17 tháng 6 năm 2010 Quốc hội ban hành Luật thi hành án hình sự. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng vừa điều chỉnh việc tổ chức quản lý thi hành án phạt tù đƣợc chặt chẽ vừa đảm bảo tính nhân đạo, tính nghiêm minh của pháp luật. Trại giam tổ chức việc giam giữ, quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ phạm tội và các yếu tố nhân thân khác. Dù là loại trại nào và quản lý đối tƣợng loại gì thì trại giam vẫn phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, trong đó chức năng quản lý chặt chẽ, không để phạm nhân có điều kiện, cơ hội phạm tội mới, trốn khỏi nơi giam giữ là quan trọng và cần thiết nhằm mục đích giáo dục cải tạo và trả về cho xã hội những con ngƣời hoàn lƣơng. Việc phân trại giam làm 3 loại đã có tác dụng phân hoá tội phạm triệt để, từ đó áp dụng các biện pháp quản lý, giam giữ, giáo dục phù hợp. Tuy nhiên qua 14 năm thi hành Pháp lệnh thấy việc phân trại giam làm 3 loại không phù hợp với điều kiện địa lý trải dài của nƣớc ta và việc phân bố trại giam không đều giữa các vùng lãnh thổ đã dẫn đến nhiều bất cập cho cơ quan thi hành án, trong việc điều chuyển, 6 trích xuất phạm nhân, việc thăm gặp của thân nhân phạm nhân gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém do chi phí đi lại. Để giải quyết vấn đề trên, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thi hành án phạt tù đã sửa đổi xoá bỏ không còn trại giam loại I, trại giam loại II, trại giam loại III mà chỉ còn một mô hình trại giam, đến Luật Thi hành án hình sự tiếp tục khẳng định trại giam có khu giam giữ đối với ngƣời bị kết án tù trên 15 năm, tù chung thân, ngƣời bị kết án tù thuộc loại tái phạm nguy hiểm và khu giam giữ đối với ngƣời bị kết án tù từ 15 năm trở xuống. Với mô hình trại giam nhƣ trên đã giải quyết đƣợc nhiều vấn đề bấp cập đối với công tác tổ chức thi hành án phạt tù hiện nay và đảm bảo tốt quyền của phạm nhân, đặc biệt là tạo thuận lợi thăm gặp thân nhân. Trong công tác tổ chức thi hành án phạt tù ở trại giam việc giáo dục, cải tạo phạm nhân phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục văn hoá, pháp luật, phổ biến thời sự chính sách, giáo dục công dân, dạy nghề kết hợp với việc giáo dục cải tạo bằng lao động để tạo điều kiện thuận lợi cho phạm nhân mau chóng hoà nhập với cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Việc giáo dục cải tạo phạm nhân của các trại giam mang tính xã hội và nhân văn cao nhƣng đồng thời là việc làm vô cùng khó khăn và phức tạp. Vai trò của trại giam thể hiện tính hai mặt không thể tách rời, đó là cƣỡng bức pháp lý và giáo dục cải tạo. Nếu chúng ta chỉ chú trọng biện pháp trừng trị, quản chế, giam giữ mà không chú ý đến việc thực hiện chính sách pháp luật về giáo dục cải tạo, không cảm hoá thuyết phục đƣợc phạm nhân thì kết quả thi hành án phạt tù chẳng những không xoá bỏ đƣợc tƣ tƣởng chống đối chế độ, coi thƣờng pháp luật ở họ… mà còn làm họ ngày càng trở nên liều lĩnh, hận thù chế độ… Nếu chỉ coi trọng khâu giáo dục, lơi lỏng biện pháp trừng trị, quản chế thi hành án phạt tù, không giữ vững đƣợc kỷ luật trại giam thì chẳng những làm cho phạm nhân có thái độ coi thƣờng pháp luật... mà họ sẽ 7 lợi dụng cơ hội, sơ hở để chống phá và trốn trại giam ra ngoài tiếp tục hoạt động phạm tội. Trong hoạt động giam giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân, trại giam phải tuân thủ các quy định của pháp luật, không đƣợc dùng nhục hình, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của họ, đồng thời phải chú trọng rèn luyện, xây dựng cho họ nhân cách con ngƣời, giúp họ có nhận thức đúng đắn về lao động và hình thành thói quen lao động, nâng cao ý thức tập thể, ý thức kỷ luật và trách nhiệm đối với xã hội. Thông qua hoạt động giam giữ, quản chế, giáo dục cải tạo phạm nhân phải tiếp tục khai thác, nghiên cứu, sử dụng các thông tin do phạm nhân cung cấp phục vụ yêu cầu giữ gìn trật tự an ninh trong và ngoài trại giam đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trên phạm vi cả nƣớc. Từ những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy: a. Trại giam là nơi quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân để họ trở thành ngƣời lƣơng thiện; b.Trại giam không chỉ là nơi thể hiện quyền lực của Nhà nƣớc, của nhân dân, nơi đảm bảo hiệu lực và công bằng của pháp luật, mà còn là nơi trực tiếp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, trấn áp tội phạm. Trại giam Việt Nam luôn gắn liền và phản ánh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH. Chức năng, nhiệm vụ của trại giam đƣợc hình thành, củng cố và phát triển và ngày một hoàn thiện. Trong những giai đoạn đặc biệt của cách mạng, của đất nƣớc, trại giam còn giam giữ, giáo dục hàng vạn đối tƣợng bị bắt tập trung giáo dục, cải tạo. Thực hiện chức năng của mình, trại giam không những chỉ trừng trị và giáo hoá phạm nhân mà còn tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời tội phạm, góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ ANQG và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. 8 Trại giam Việt Nam có quá trình hình thành và tồn tại rất đặc thù. Nó gắn liền với lịch sử các giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam. Trại giam là cơ quan thi hành hình phạt tù không chỉ là công cụ thực hiện sự cƣỡng chế của Nhà nƣớc đối với những ngƣời bị Toà án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành ngƣời lƣơng thiện, mà trại giam còn phải là công cụ quan trọng của Nhà nƣớc, của xã hội để thiết lập bảo vệ, xây dựng trật tự xã hội mới, XHCN. 1.1.2. Khái niệm phạm nhân Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân (Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự). Một con ngƣời đƣợc coi là phạm nhân khi họ phạm tội bị kết án phạt tù và đƣợc đƣa đến trại giam để chấp hành bản án, đồng thời với việc trở thành phạm nhân họ có một địa vị pháp lý hoàn toàn khác với các công dân bình thƣờng ngoài xã hội. Phạm nhân bị tƣớc hoặc bị hạn chế một số quyền tự do cơ bản nhƣ: hội họp, biểu tình, tự do cƣ trú, đi lại, bầu cử, ứng cử. v.v... nhƣng không có nghĩa là đã mất quyền công dân. Họ còn các quyền và nghĩa vụ chủ yếu nhƣ: lao động, học tập, bảo vệ sức khoẻ, bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, khiếu nại, tố cáo v.v... Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng (khóa VII) tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (do đồng chí Tổng bí thƣ Đỗ Mƣời trình bày) có ghi: Trong đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, phải kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm; coi trọng các biện pháp phòng ngừa; xây dựng chương trình quốc gia về phòng ngừa tội phạm, có ngân sách dành cho chương trình đó. Thực hiện nghiêm các hình phạt do luật định đối với kẻ phạm tội; đồng thời tích cực giáo dục kết hợp với dạy nghề và tổ chức lao động sản xuất, cải thiện các điều kiện giam giữ để cải tạo, cảm hoá phạm 9 nhân, tạo điều kiện đưa họ trở lại làm ăn lương thiện. Ngăn chặn và nghiêm trị các hành vi ngược đãi, ức hiếp người bị giam.[5] Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới nêu: Tăng cường và đổi mới công tác cảm hoá, giáo dục giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng với những hình thức phù hợp. Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng.[12] Tại Điều 27 Bộ luật Hình sự nêu rõ mục đích của hình phạt: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.[36] Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo quy định buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành có ích cho xã hội. Từ những quan điểm trên cho thấy: Phạm nhân là các công dân có vị trí pháp lý đặc biệt. Chính vị trí này là cơ sở để các cơ quan thi hành án phạt tù áp dụng các biện pháp cƣỡng chế và giáo dục đặc thù đối với họ, nhằm mục đích giáo dục họ trở thành ngƣời lƣơng thiện. Việc họ bị giam giữ trong trại giam không có nghĩa chỉ là để trừng phạt, bảo đảm an toàn cho xã hội mà mục đích chủ yếu là giáo dục họ trở thành ngƣời lƣơng thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội. 10 1.1.3. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của phạm nhân Quyền là khả năng của mỗi công dân đƣợc tự do lựa chọn và hành động, khả năng đó đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nƣớc. Nghĩa vụ là sự tất yếu phải hành động của mỗi công dân bởi lợi ích của toàn thể Nhà nƣớc và xã hội. Sự tất yếu đó đƣợc quy định trong Hiến pháp, pháp luật và đƣợc bảo đảm bằng mọi biện pháp kể cả biện pháp cƣỡng chế. Khi nói đến quyền thƣờng gắn liền với nghĩa vụ. Chính điều đó tạo nên địa vị pháp lý của công dân trong một chế độ Nhà nƣớc. Trong thực tiễn công tác tổ chức thi hành hình phạt tù, việc hiểu rõ ngƣời đang chấp hành hình phạt tù có những quyền gì, những quyền gì của công dân họ bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế và nghĩa vụ thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cơ quan thi hành án. Điều quan trọng đƣợc thể hiện ở chỗ, nó không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức, mà còn thể hiện trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, giáo dục ngƣời phạm tội hƣớng tới mục đích trả về cho xã hội những con ngƣời hoàn lƣơng. Đồng thời trên cơ sở đó tiến hành các biện pháp quản lý, giáo dục, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Ở nƣớc ta cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới, không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định đầy đủ hết quyền và nghĩa vụ của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù, mà quyền và nghĩa vụ của họ đƣợc quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, trong các ngành luật khác nhau trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhƣ Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Dân sự, Luật Thi hành án hình sự,… Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam cho thấy, ngoài các quy định trong pháp luật thi hành hình phạt tù còn có các căn cứ khác xác định địa vị pháp lý của ngƣời đang chấp hành hình phạt tù, nhƣ: Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Hình sự: Đối với ngƣời bị phạt tù thì buộc họ 11 phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành ngƣời có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Điều 39 Bộ luật Hình sự quy định: Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm ANQG hoặc tội phạm khác trong những trƣờng hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tƣớc một hoặc một số quyền công dân sau đây: a. Quyền ứng cử, quyền bầu cử đại diện cơ quan quyền lực Nhà nước; b. Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân. Thời hạn tước một số quyền công dân từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.[36] 1.1.3.1. Các quyền của phạm nhân Phạm nhân là ngƣời bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trong thời gian chấp hành hình phạt tù họ bị tƣớc hoặc bị hạn chế một số quyền công dân, nhƣng họ vẫn đƣợc hƣởng các quyền sau: Quyền sống, quyền được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể Quyền sống, quyền đƣợc tôn trọng về nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm về thân thể của phạm nhân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam và đƣợc cụ thể trong nhiều văn bản luật, đặc biệt là trong Luật Thi hành án hình sự và Nghị định quy định về tổ chức quản lý phạm nhân… Hiến pháp Việt Nam quy định mọi ngƣời dân đầu có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân, trừ trƣờng hợp phạm tội quả tang. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan