Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
88
1
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHẠM TRUNG HIẾU QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 9 - NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 8380104 Người hướng dẫn khoa học Họ và tên học viên Mã số học viên Lớp : Tiến sĩ VÕ THỊ KIM OANH : PHẠM TRUNG HIẾU : 18300410103 : CAO HỌC LUẬT, KHÓA 30 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 9 - NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn được trình bày sau đây là kết quả của quá trình học tập và đây là công trình nghiên cứu của bản thân, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Mọi lý luận, kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn, những nguồn tư liệu tham khảo, các số liệu đều được trích dẫn đầy đủ, chính xác, có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy và khách quan. Người cam đoan Phạm Trung Hiếu DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN STT TỪ VIẾT TẮT NGHĨA LÀ 1 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự 2 CNXH Chủ nghĩa xã hội 3 CQĐT Cơ quan điều tra 4 CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng 5 HĐXX Hội đồng xét xử 6 NBC Người bào chữa 7 NTGTT Người tham gia tố tụng 8 NTHTT Người tiến hành tố tụng 9 Nxb Nhà xuất bản 10 QHPL Quan hệ pháp luật 11 QHXH Quan hệ xã hội 12 TAND Tòa án nhân dân 13 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 14 THTT Tiến hành tố tụng 15 TNHS Trách nhiệm hình sự 16 TTHS Tố tụng hình sự 17 VAHS Vụ án hình sự 18 VKS Viện kiểm sát 19 VKSND Viện kiểm sát nhân dân 20 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 21 XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ........................................................................................6 1.1. Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ...............................................6 1.1.1. Khái niệm về người bào chữa và quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa .............................................................................................................................6 1.1.1.1. Khái niệm người bào chữa .............................................................................6 1.1.1.2. Khái niệm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ..............................9 1.1.2. Đặc điểm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ...............................16 1.1.3. Ý nghĩa quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ..................................18 1.2. Cơ sở quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự ......................................................................................................................20 1.3. Quy định pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa .................................................................25 1.3.1. Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa liên bang Đức ....................................................................................25 1.3.2. Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của liên bang Nga .....................................................................................................27 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................28 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................................29 2.1. Quy định pháp luật về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa .......29 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 2015 ..................................................29 2.1.2. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay ......................................................................31 2.2. Thực tiễn áp dụng quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ..............41 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong hoạt động bào chữa thời gian qua ....................................................................................41 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ......................................46 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................52 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ....................................................53 3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ...................................................................................................................53 3.1.1. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội ............................................53 3.1.2. Đảm bảo tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự .............................54 3.1.3. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ...................................................................................................55 3.2. Giải pháp đảm bảo quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa ............58 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật ..........................................58 3.2.2. Các giải pháp khác..........................................................................................64 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................68 KẾT LUẬN ...............................................................................................................70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lúc BLTTHS năm 2015 lấy ý kiến thông qua, từng có Đại biểu Quốc hội phát biểu trước nghị trường Quốc hội là không nên quy định NBC có quyền thu thập chứng cứ trong VAHS, nếu cho họ quyền này thì đi ngược lại mô hình tố tụng của nước ta 1. Hiện nay, trên cổng thông tin điện tử của Bộ Công an2, VKSND3 có đăng bài viết của Tạ Diễn với tiêu đề “Có nên quy định NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong TTHS?”, theo bài viết này, Tạ Diễn không đồng tình BLTTHS năm 2015 quy định việc NBC có quyền: “Thu thập chứng cứ”, vì: “Thứ nhất, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT; Thứ hai, nếu quy định NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, thì NBC trở thành NTHTT mà theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 67 dự thảo Bộ luật này thì: “NTHTT trong vụ án không được bào chữa”; Thứ ba, nếu quy định NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, thì để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ NBC phải tiến hành các biện pháp theo quy định của luật TTHS, mà điều này chưa phù hợp với điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta”. Tác giả không đồng ý hoàn toàn với quan điểm trên của Tạ Diễn, vì theo tác giả thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các CQTHTT có quyền thu thập chứng cứ nhưng thường là các chứng cứ “buộc tội”, khi tham gia tố tụng với tư cách là NBC nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, NBC cùng với thân chủ của mình trở thành một bên đối trọng trong tố tụng, NBC phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình nhằm bác lại những quan điểm buộc tội, để tìm ra sự thật khách quan của VAHS, muốn vậy NBC phải thu thập được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có cơ sở, mục đích thu thập chứng cứ của NBC khác với các CQTHTT, NTHTT, bởi vì NBC trước hết là người bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa còn góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án nên thông thường những chứng cứ mà NBC thu thập thường mang giá trị “gỡ tội” làm đối trọng một phần hoặc toàn bộ với chứng cứ “buộc tội” của CQTHTT, 1 https://www.quangninh.gov.vn/pInChiTiet.aspx?nid=61711. http://bocongan.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=227. 3 https://vksndtc.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=227. 2 2 do đó NBC “có vị trí đối trọng” với CQTHTT. Chính vì vậy, có thể nói NBC phải có quyền thu thập chứng cứ. Vì thế những lập luận của Tạ Diễn nêu trên vô hình trung cho thấy NBC không được coi trọng trong quá trình giải quyết VAHS, nếu không quy định cho NBC có quyền thu thập chứng cứ, nghĩa là NBC phải dựa trên hồ sơ thu thập bởi CQTHTT là bên “buộc tội” để tìm ra chứng cứ “gỡ tội” bảo vệ cho người bị buộc tội là điều không tưởng, không thể làm được và cũng không khách quan. BLTTHS năm 2015 là bộ luật đầu tiên thừa nhận NBC có quyền thu thập chứng cứ, đây là quy định hoàn toàn mới, đã phá bỏ được sự độc quyền của các CQTHTT trong việc thu thập chứng cứ, đồng thời quy định cách thức thu thập chứng cứ của NBC cũng như trách nhiệm của các CQTHTT trong việc xem xét chứng cứ do NBC cung cấp đã thể hiện được tính dân chủ, văn minh và đảm bảo quyền con người, phù hợp với luật pháp quốc tế. Với mong muốn được hiểu sâu hơn về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn thực hiện quyền này, tác giả chọn đề tài: “Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, là bộ luật đầu tiên ghi nhận NBC có quyền thu thập chứng cứ và sau đó Bộ Công an ban hành Thông tư số 46/2019/TT-BCA4 quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc bảo đảm thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC. NBC có quyền thu thập chứng cứ là một trong những chế định quan trọng, cơ bản và đặc biệt trong TTHS Việt Nam, chính vì thế mà chế định này luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau từ pháp luật thực định cho đến thực trạng áp dụng pháp luật để làm cơ sở cho việc đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vị thế của NBC trong TTHS. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền trong đó có quyền thu thập chứng cứ của NBC, nhưng các bài viết đều chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể quyền thu thập chứng cứ của NBC. Có thể chia các công trình nghiên cứu về quyền của NBC thành các nhóm cụ thể như sau: Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có hiệu lực từ ngày 02/12/2019. 4 3 - Nhóm luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh: Trong các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này có Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Võ Thị Kim Yến, năm 2016; “Thu thập chứng cứ của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Huyền Trang, năm 2020 và đề tài: “Quyền của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thành Công, năm 2020. Nhìn chung các công trình trên có đề cập đến quyền thu thập chứng cứ của NBC, tuy nhiên, luận văn thạc sĩ của Võ Thị Kim Yến và Nguyễn Thị Huyền Trang thì nghiên cứu dưới khía cạnh hoạt động thu thập chứng cứ của NBC, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thành Công thì tập trung nghiên cứu, phân tích một số quyền cơ bản của NBC như là: Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và có đề cập quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, nhưng nhìn chung có đề cập đến quyền thu thập chứng cứ của NBC, tuy nhiên việc nghiên cứu về quyền này không có chuyên sâu, viết chung chung. - Nhóm sách, giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này có những đầu sách liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Giáo trình của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản, có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức, xuất bản năm 2018; Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản lần thứ 14 có sửa đổi, bổ sung), Nxb Công an Nhân dân, xuất bản năm 2018; sách chuyên khảo của tác giả Phan Trung Hoài, “Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2016; sách của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài, “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2018; sách của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, “Cẩm nang Tranh tụng của Luật sư bào chữa”, Nxb Hồng Đức, xuất bản năm 2019. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên có bình luận, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền thu thập chứng cứ của NBC nhưng cũng chưa giải quyết các vấn đề mang tính lý luận về quyền thu thập chứng cứ của NBC, cũng như chưa đề cập đến thực tiễn quyền thu thập chứng cứ của NBC trong quá trình tham gia tố tụng. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này có những bài viết như: “Người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 10/2004; “Bàn về vai trò của người bào chữa 4 trong việc thu thập và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự” của tác giả Lê Minh Long đăng trên Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02/2014; “Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng” của tác giả Lê Nguyên Thanh, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8/2015; “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01/2017; “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thu thập, sử dụng chứng cứ của luật sư bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Hoàng Văn Hướng đăng trên Tạp chí Nghề Luật, số 05/2017; “Bàn về tính hợp pháp của chứng cứ được thu thập bởi người bào chữa” của tác giả Võ Minh Kỳ, Nguyễn Phương Anh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (330)/2019; “Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Thanh Mai đăng trên Tạp chí Nghề luật, số 3/2019. Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này phần lớn có liên quan đến nội dung quyền thu thập chứng cứ của NBC, tuy nhiên các bài viết chủ yếu đề cập về hoạt động thu thập chứng cứ của NBC như là bàn về tính hợp pháp của chứng cứ được thu thập bởi NBC, bàn về vai trò của người bào chữa trong việc thu thập và sử dụng chứng cứ trong TTHS, qua đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của NBC trong TTHS, chứ rất ít bài viết phân tích chuyên sâu về quyền thu thập chứng cứ của NBC. Nhìn chung, mỗi nhóm bài viết nêu trên đây đề cập đến một khía cạnh cụ thể trong hoạt động tố tụng có liên quan đến quyền thu thập chứng cứ của NBC. Tuy nhiên, vẫn chưa có một bài viết nào viết một cách tổng quát, chuyên sâu về quyền thu thập chứng cứ của NBC trong quá trình giải quyết VAHS. 3. Mục đích, đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng đến việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC theo quy định của BLTTHS năm 2015. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá, rút ra những thiếu sót, hạn chế của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng, từ đó tác giả đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS, đồng thời kiến nghị những biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC. 3.2. Đối tượng nghiên cứu 5 Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quyền thu thập chứng cứ của NBC theo quy định của pháp luật TTHS cũng như việc áp dụng quyền này trong quá trình tham gia giải quyết VAHS, chủ yếu tập trung nghiên cứu NBC là Luật sư. 3.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích chỉ một quyền thu thập chứng cứ của NBC (điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015). 4. Phương pháp nghiên cứu Tác giả vận dụng các quan điểm, học thuyết của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận nhận thức của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người; quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp thống kê, lịch sử, so sánh, tổng hợp, đánh giá để phân tích những quan điểm khác nhau về vấn đề cần nghiên cứu, phương pháp phân tích và tổng hợp được xem là hai phương pháp chủ đạo mà tác giả sử dụng để hoàn thành luận văn này. 5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài Công trình này góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền thu thập chứng cứ của NBC trong TTHS. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và học tập đối với những ai quan tâm đến quyền thu thập chứng cứ của NBC theo luật TTHS Việt Nam. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn chia thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Chương 2: Quy định của pháp luật thực định về quyền thu thập chứng cứ của NBC và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA 1.1. Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa 1.1.1. Khái niệm về người bào chữa và quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa 1.1.1.1. Khái niệm người bào chữa NBC tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Sự tham gia của NBC trong TTHS là một đòi hỏi tất yếu khách quan, tạo nên thế cân bằng trong TTHS 5, với tư cách là NTGTT, có vị trí độc lập với những NTHTT, sự hiện diện của họ trong các giai đoạn của quá trình tố tụng góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, phòng ngừa, đấu tranh với những hành vi lạm quyền, tiêu cực có thể có từ phía các CQTHTT và NTHTT. Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động bào chữa với sứ mệnh là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ công lý, công bằng xã hội được xem là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động pháp lý6. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, NBC có thể là Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân và Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý7. Luật sư: là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư8 Người đại diện của người bị buộc tội: là một khái niệm tương đối mới chưa được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ dân sự thì người đại diện là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các Điều 134 (Đại diện), 135 (Căn cứ xác lập quyền đại diện) và 136 (Đại diện theo pháp luật của cá Trần Văn Bảy (2000), Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Tp.HCM, tr.19. 6 Nguyễn Thành Công (2020), Quyền của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Tp.HCM, tr. 8. 7 Xem khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015. 8 Xem Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012. 5 7 nhân) của Bộ luật Dân sự năm 2015, khác với luật sư, người đại diện chủ động thực hiện chức năng bào chữa mà không cần có đề nghị hoặc yêu cầu từ người bị buộc tội hoặc họ cũng có thể chủ động lựa chọn NBC9. Bào chữa viên nhân dân: là NBC được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử ra để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức này10. Trong thực tế, hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống nên chức danh này tuy vẫn được ghi nhận trong BLTTHS nhưng thực tế bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng rất hiếm hoi, vai trò của bào chữa viên nhân dân đang dần bị lãng quên và hiện nay khi nói đến NBC thì người ta thường nghĩ ngay đến luật sư11 Trợ giúp viên pháp lý: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật12. Trợ giúp viên pháp lý là một trong những chủ thể tham gia TTHS bắt đầu ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc việc xét xử với tư cách là NBC13, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự14. Hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong TTHS mang tính đặc thù bởi đây là chủ thể đại diện để thực thi trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước đối với nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.15 Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về NBC: Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở thì khái niệm “NBC hay bào chữa viên là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt người bị buộc tội tham gia tố tụng trong VAHS để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc tố cáo, giúp làm giảm TNHS cho thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý VAHS”16. Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr.10. Khoản 3 Điều 72 BLTTHS năm 2015. 11 Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr.10. 12 Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. 13 Xem Điều 72 BLTTHS năm 2015. 14 Xem Điều 83 và Điều 84 BLTTHS năm 2015. 15 Nhóm người được trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. 16 Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/trang_chính/Người_bào_chữa. 9 10 8 Trường Đại học Luật Hà Nội thì khái niệm “NBC là NTGTT với trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, họ được phép sử dụng mọi phương tiện do luật định để bào chữa cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ”17. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì khái niệm NBC theo quy định tại khoản 1 Điều 72 BLTTHS năm 2015 theo đó “NBC là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”18. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “NBC là NTGTT với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS của người bị tạm giam, bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết”19. Nguyễn Mạnh Hùng giải thích thuật ngữ pháp lý “NBC là người được bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mời hoặc do VKS , Toà án chỉ định để bào chữa và có những giúp đỡ cần thiết cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý”20. Từ các quan điểm về NBC của các học giả, tác giả nhận thấy có điểm chung đó là NBC chỉ là NTGTT. Thuật ngữ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của NBC, họ tham gia dù dưới hình thức nào (được mời hay được cử) thì vẫn nhằm mục đích chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội và giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, NBC chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình trong hoạt động tố tụng, họ không có quyền và lợi ích liên quan trong vụ án21. Từ những nhận định, phân tích về NBC cũng như quy định của BLTTHS năm 2015, tác giả đưa ra khái niệm NBC trong TTHS như sau: “NBC là những người mà pháp luật quy định được làm NBC, được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội và giúp đỡ cần thiết cho người bị buộc tội về mặt pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, tr. 69. 18 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức. 19 Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an Nhân dân, tr. 128-129. 20 Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Thuật ngữ pháp lý – tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 55. 21 Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr. 9. 17 9 1.1.1.2. Khái niệm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa - Khái niệm quyền của người bào chữa Trong QHXH, giữa các chủ thể tham gia cũng hình thành quyền và nghĩa vụ, mặc dù không cụ thể, rõ ràng. Việc các chủ thể trong QHXH thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức, điều kiện và môi trường sống của họ. Khác với QHXH, khi tham gia vào QHPL, chủ thể phải đáp ứng những điều kiện theo quy định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ đều mang tính pháp lý dù các quyền, nghĩa vụ được các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với pháp luật. Việc các quyền và nghĩa vụ trong QHPL được xác định cụ thể, rõ ràng trên cơ sở pháp luật sẽ tránh được sự tùy tiện, lạm dụng quyền hoặc bỏ mặc nghĩa vụ, nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia QHPL và tăng cường khả năng giám sát của nhà nước đối với xã hội22. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý chính là nội dung của QHPL, vì vậy, đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa QHPL và các QHXH khác23. Bằng xử sự thực tế, các bên tham gia QHPL đã hiện thực hóa các xử sự mà quy phạm pháp luật đã nêu nhưng phải phù hợp với các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã quy định. Trong đó, quyền của chủ thể là một phạm trù pháp lý có giới hạn, trong một QHPL, chủ thể có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện quyền. Việc thực hiện quyền luôn mang lại cho chủ thể những lợi ích vật chất hoặc tinh thần nhất định24. Khi tham gia vào QHPL TTHS, những NTHTT và NTGTT có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Như vậy, quy định về quyền của NBC trong pháp luật TTHS tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tham gia của NBC trong hoạt động TTHS để họ thực hiện tốt vai trò bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị buộc tội, bảo vệ công lý và tăng cường tính dân chủ tiến bộ trong hoạt động tư pháp. Theo từ điển Tiếng Việt thì “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận, cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi25. Theo giải thích này có thể hiểu “quyền” là khả năng thực hiện ý chí của cá nhân được pháp luật, xã hội hoặc lẽ phải chấp nhận. Mở rộng hơn “quyền lợi” là điều mà pháp luật và xã hội cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành, có thể đòi hỏi nếu thiếu hoặc bị tước đoạt26. Lê Vương Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, Nxb Tư pháp, tr. 34. Đại học Luật TP.HCM (2009), Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Lưu hành nội bộ, tr. 102. 24 Phan Đỗ Hạnh Phương (2015), Quyền của người bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn cử nhân, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1. 25 Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, tr. 1045. 26 Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr. 11. 22 23 10 Theo từ điển Luật học thì “quyền” là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Phân loại quyền gồm có: Quyền đương nhiên như quyền làm người, quyền được sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc; Quyền do luật pháp cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (quyền pháp lý); Quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng cho phép hội viên được làm; Quyền do người khác ủy quyền,…27. Đây là một khái niệm khá rộng và khái quát về quyền nói chung, nhưng chưa thấy được cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền trên thực tế, theo khái niệm này thì quyền là những gì mà chủ thể có được quyền được phép tự do ý hiện hành. Một khái niệm khác về “quyền chủ thể trong QHPL” là khả năng của cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ đó được quy phạm pháp luật quy định trước và được nhà nước bảo vệ bằng sự cưỡng chế28. Trong khái niệm này đã xác định phạm vi được phép thực hiện quyền là trong một QHPL cụ thể đồng thời nêu lên sự đảm bảo thực hiện quyền trên thực tế bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Theo từ điển Luật học – Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì “quyền” là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Dấu hiệu đặc trưng thứ nhất của quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các QHXH cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền của cá nhân được phát sinh, tăng hay giảm tùy theo từng thời điểm của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội…29. Khái niệm này có phần rõ ràng hơn các khái niệm nêu trên, theo đó cá nhân, tổ chức được tự do, không ràng buộc hưởng các quyền do pháp luật quy định đồng thời với sự công nhận của xã hội, cũng theo khái niệm này thì quyền của một chủ thể là có căn cứ hơn, xác thực hơn, không chỉ trên mặt lý thuyết mà còn phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Dựa trên khái niệm về quyền trong khoa học pháp lý thì quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao, trong TTHS quyền bào chữa thuộc về người bị buộc tội, pháp luật cho phép họ sử dụng các biện pháp hợp pháp để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội 1999. Lê Minh Toàn (2010), Pháp luật đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 152. 29 Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 27 28 11 pháp của họ, quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực hiện dưới hai hình thức “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”. Pháp luật TTHS nước ta cũng quy định và ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ 30. Trên thực tế, hầu hết người bị buộc tội đều bị sức ép tâm lý từ phía bị hại và gia đình của bị hại, từ dư luận xã hội, từ NTHTT, họ luôn trong trạng thái bất an, ít hiểu biết về pháp luật đồng thời khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng thì người bị buộc tội khó có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa. Do đó, việc người bị buộc tội nhờ người có kiến thức pháp lý, có thể thay mặt mình tham gia vào quá trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là nhu cầu thiết yếu. Tuy nhiên cần khẳng định rằng nhiệm vụ chính của NBC là gỡ tội, là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, nhưng nhiệm vụ của NBC đối với người bị buộc tội là nhiệm vụ có giới hạn, có điều kiện đó là phải tuân thủ theo quy định pháp luật, điều này có nghĩa NBC tham gia tố tụng tương đối độc lập với ý muốn chủ quan của người bị buộc tội, NBC chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, NBC không có nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu cầu của người bị buộc tội nếu những yêu cầu đó không có căn cứ, trái pháp luật. Mặc khác có một số công trình nghiên cứu cho rằng: “Quyền của NBC là những việc mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với NBC, theo đó NBC được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế họ thực hiện các quyền đó nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội”31. hoặc: “Quyền của NBC là những quyền mà pháp luật cho phép và đảm bảo thực hiện đối với NBC, theo đó NBC được hưởng, được làm và được thực hiện các quyền đó trong hoạt động gỡ tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XNCH”32. Dù thế nào đi nữa, để NBC có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XHCN, pháp luật TTHS đã quy định cho NBC có các quyền pháp lý nhất định, các quyền này được thực hiện phụ thuộc vào ý chí của NBC, không bắt buộc và được đảm bảo thực hiện mà không bị ngăn cản hay hạn chế bởi các chủ thể khác trong quá trình tố tụng33. Hoàng Thị Sơn (2000), “Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học, số 05. 31 Phan Đỗ Hạnh Phương, tlđd (chú thích số 24), tr. 4. 32 Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr. 13. 33 Nguyễn Thành Công, tlđd (chú thích số 6), tr. 12. 30 12 Từ các khái niệm, quan điểm về quyền nêu trên, tác giả nhận thấy có điểm chung về quyền của NBC đó là được pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với NBC. Thuật ngữ “công nhận và đảm bảo thực hiện” nói lên bản chất về quyền của NBC. Từ những phân tích nêu tác giả đưa ra khái niệm quyền của NBC như sau: “Quyền của NBC là tất cả các quyền năng tố tụng (tổng hòa các hành vi tố tụng) mà pháp luật cho phép và đảm bảo thực hiện cho NBC trong quá trình họ tham gia tố tụng có thể sử dụng để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội hoặc giúp đỡ cần thiết cho người bị buộc tội về mặt pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội”. - Khái niệm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa Thu thập chứng cứ là một bước quan trọng của quá trình chứng minh vì chứng cứ là cơ sở, căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn VAHS. Vì vậy, có thể nói thu thập chứng cứ là khâu đầu tiên của quá trình chứng minh VAHS. Thu thập chứng cứ được hiểu là tổng hợp các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ. Để thu thập được chứng cứ trước hết phải phát hiện được chứng cứ, tức là phải tìm ra được những sự vật, hiện tượng, tài liệu chứa đựng những thông tin có giá trị chứng minh những sự kiện, tình tiết của vụ án. Để phát hiện chứng cứ cần thiết phải đánh giá những thông tin có giá trị chứng minh những sự kiện, tình tiết của vụ án, sự đánh giá này chỉ mang tính chất sơ bộ còn việc kết luận nó có phải là chứng cứ hay không phải do HĐXX quyết định34. BLTTHS năm 2015 có quy định về việc thu thập chứng cứ của NBC trong TTHS35, theo đó hoạt động thu thập chứng cứ có thể được tiến hành bằng hai hình thức. Hình thức chủ động: NBC có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Hình thức bị động: NTGTT, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Người có quyền thu thập chứng cứ thu thập những chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và Nguyễn Trúc Thiện (2019), Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, tr.55. 35 Theo Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định về “Thu thập chứng cứ”. 34 13 thông tin do NTGTT, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra. Dù theo hình thức nào thì các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ án cũng phải được thu giữ đưa vào hồ sơ vụ án bằng hình thức tố tụng xác định. Thông thường các hoạt động thu thập chứng cứ được ghi nhận bằng biên bản hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS36, CQTHTT áp dụng các biện pháp, phương tiện và phương pháp do BLTTHS quy định để xác định, tìm ra, thu giữ những chứng cứ và nguồn chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án còn NBC hiện nay luật chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ37. Do vậy, xét về nội dung thì thu thập chứng cứ bao gồm các hoạt động phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ. Đối tượng của hoạt động phát hiện chứng cứ chính là những nguồn thực tế mang thông tin chứng cứ bao gồm: những dấu vết, đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án và những người biết về sự kiện phạm tội như người làm chứng, bị hại. Các dấu vết, đồ vật liên quan đến vụ án thường rất đa dạng do đặc điểm hình sự của từng loại tội phạm khác nhau và hoàn cảnh cụ thể xảy ra đối với từng vụ án cũng khác nhau, những đối tượng này có thể mang thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp về các tình tiết cần chứng minh của vụ án, nên quá trình phát hiện chứng cứ đòi hỏi phải có trình độ pháp lý, nghiệp vụ sâu sắc, nhất là tư duy lôgích, tổng hợp và phân tích. Thu giữ chứng cứ nhằm mục đích sử dụng chúng vào việc chứng minh trong VAHS và được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo quản chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Ghi nhận chứng cứ là việc ghi lại, mô tả chuyển tải những thông tin về các chứng cứ được phát hiện vào những văn bản tố tụng do pháp luật TTHS quy định như lập biên bản, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường... ghi nhận chứng cứ không những đem lại cho chứng cứ hiệu lực chứng minh mà còn có mục đích miêu tả nội dung chứng cứ và những dấu hiệu của nó (đối với vật chứng) và ở một mức độ nhất định có thể được coi là một trong những biện pháp bảo quản chứng cứ. Bảo quản chứng cứ là giữ cho chứng cứ được nguyên vẹn như tình trạng khi bị thu giữ, không bị mất mát, biến dạng, bảo đảm có thể sử dụng nó được vào bất cứ thời điểm nào khi có yêu cầu. Bảo quản chứng cứ ngoài mục đích bảo vệ giá trị Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhan dân, tr. 219-221. 37 Cao Thị Ngọc Hà (2015), “Bàn về quyền thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghề luật, số 5, tr. 30. 36 14 chứng minh còn nhằm bảo vệ giá trị vật chất và giá trị kinh tế, văn hóa của nó. Vì giá trị chứng minh, giá trị vật chất, giá trị kinh tế, văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh, có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh tội phạm, kết quả thu thập chứng cứ ảnh hưởng lớn đến chất lượng của công tác giải quyết VAHS. Số lượng, chất lượng của các chứng cứ được thu thập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc ngược lại gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, quá trình thu thập chứng cứ luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, từ đó có thể dẫn đến không thu thập được hoặc thu thập không đủ chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Việc thu thập chứng cứ phải được tiến hành bằng các biện pháp và theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Để bảo đảm tính khách quan, đầy đủ, hợp pháp của chứng cứ cần phải quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau: Thu thập chứng cứ phải được tiến hành nhanh chóng kịp thời: Nếu không kịp thời sẽ có thể mất chứng cứ và không còn điều kiện để thu thập. Đồng thời với việc thu thập chứng cứ cần tránh việc thu thập chứng cứ một cách tràn lan, thu giữ cả những đồ vật không phải là vật chứng liên quan đến vụ án. Thu thập chứng cứ phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện và đầy đủ: Thu thập chứng cứ luôn xuất phát từ thực tế của chính những dấu vết của tội phạm để thu thập đầy đủ những thông tin về vụ phạm tội. Đối với những tình tiết của vụ án còn chưa được rõ ràng, còn có nhiều cách hiểu khác nhau thì cần phải đặt các giả thuyết điều tra và tiến hành thu thập chứng cứ theo từng nội dung của các giả thuyết đó để giữ lại những chứng cứ xác thực và loại bỏ những gì không xác thực. Phải làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những chứng cứ chứng minh tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS. Muốn giải quyết vụ án chính xác cần phải xem xét toàn diện các tình tiết của vụ án để thu thập đầy đủ chứng cứ, tuyệt đối không được có định kiến, chủ quan chỉ tập trung thu thập chứng cứ buộc tội hay chứng cứ gỡ tội. Đặc biệt phải coi trọng và bảo đảm quyền đưa ra chứng cứ của bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng và những NTGTT khác. Chỉ được thu thập chứng cứ từ những nguồn và bằng những phương pháp do pháp luật quy định. Thu thập chứng cứ phải được tiến hành trong khuôn khổ quy định của pháp luật, nghiêm cấm việc thu thập chứng cứ bằng các biện pháp trái pháp luật: Khi tiến hành các biện pháp và áp dụng các phương tiện để thu thập, củng cố chứng cứ phải phù hợp với trình tự, thủ tục pháp luật và phải được thể hiện bằng các hình thức do pháp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan