Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền sống của thai nhi và vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật việt nam về phá...

Tài liệu Quyền sống của thai nhi và vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật việt nam về phá thai

.PDF
99
601
131

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LỖ THỊ THU HÀ QUYÒN SèNG CñA THAI NHI Vµ VÊN §Ò HOµN THIÖN KHU¤N KHæ PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ PH¸ THAI Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền Con Ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lỗ Thị Thu Hà MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC NỘI HÀM QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI ............................. 8 1.1. Khái quát về Quyền số ng của thai nhi ............................................. 8 1.1.1. Khái niệm Quyền sống của con ngƣời ................................................. 8 1.1.2. Vấn đề quyền sống của thai nhi ......................................................... 10 1.2. Các khía cạnh liên quan đến nội dung quyền sống của thai nhi ..... 12 1.2.1. Những nội dung cơ bản ...................................................................... 12 1.2.2. Nhƣ̃ng luồng quan điểm về vấn đề quyền sống của thai nhi ............. 16 Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 53 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HIỆN TƢỢNG NẠO PHÁ THAI VÀ CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI Ở VIỆT NAM................................................................ 55 2.1. Nội dung cơ bản về nạo phá thai..................................................... 55 2.1.1. Khái niệm nạo, phá thai và na ̣o phá thai không an toàn .................... 55 2.1.2. Biện pháp nạo phá thai, hậu quả ........................................................ 55 2.2. Thực trạng của hiện tƣợng nạo phá thai ....................................... 58 2.2.1. Thực trạng .......................................................................................... 58 2.2.2. Nguyên nhân....................................................................................... 64 2.3. Các giải pháp thực tế đang đƣợc sử dụng để bảo vệ quyền của thai nhi ở Viêṭ Nam. Những hạn chế còn tồn đọng ................ 67 2.3.1. Khuân khổ pháp luật Việt Nam về nạo phá thai và hệ quả của Điều chỉnh pháp luật .......................................................................... 67 2.3.2. Biện pháp khác ................................................................................... 80 2.4. Phƣơng hƣớng, giải pháp đối với vấn đề quyền sống của thai nhi và nạo phá thai ở Việt nam ....................................................... 82 2.4.1. Phƣơng hƣớng .................................................................................... 82 2.4.2. Nội dung hành động cụ thể ................................................................ 83 Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91 DANH MỤC CHƢ̃ VIẾT TẮT ACHR Công ƣớc Châu Mỹ về Nhân Quyề n - American Convention on Human Rights ADN Acid Deoxyribo Nucleic - Phân tƣ̉ mang thong tin di truyề n mã hóa BPTT Biê ̣n pháp tránh thai CAC Tổ chƣ́c Viê ̣t Nam phát triể n toàn diê ̣n Chăm sóc phá thai CEDAW Công ƣớc Liên hơ ̣p quố c về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biê ̣t đố i xƣ̉ chố ng la ̣i phu ̣ nƣ̃ CPPCG Công ƣớc quố c tế về ngăn ngƣ̀a và trƣ̀ng tri ̣tô ̣i diê ̣t chủng CRC Ủy ban về các quyền trẻ em CGFED Trung tâm nghiên cƣ́u giới, gia đình và Môi trƣờng phát triể n ICCPR Công ƣớc quố c tế về các quyề n dân sƣ̣ và chính tri ̣ ICDP Hô ̣i nghi ̣quố c tế dân số và phát triể n KHHGĐ Kế hoa ̣ch hóa gia điǹ h NPT Nạo phá thai SAVY Cuô ̣c điề u tra quố c gia vi tha ̣ ̀ nh niên và thanh niên Viê ̣t Nam về nhiề u vấ n đề . SKSS Sƣ́c khỏe sinh sản TNQTNQ Tuyên ngôn quố c tế nhân quyề n TTYT Trung tâm y tế UD Tuyên ngôn quố c tế nhân quyề n UNFPA Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc VTN,TN Vị thành niên, Thanh niên WHO Tổ chƣ́c Y tế thế giới - World Health Organization DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Bảng 1.1: Những mốc phát triển đáng chú ý của bào thai Bảng 1.2: Trang 17 Lý do phá thai của các phụ nữ đã phá thai ở các quốc gia khác nhau vào những giai đoạn khác nhau 45 Bảng 1.3: Tỷ lệ phụ nữ trích dẫn nhiều lý do để phá thai ở một số quốc gia vào các năm khác nhau Bảng 2.1: 47 Số liệu Bộ Y Tế tiến hành thống kê tại các bệnh viện phụ sản năm 2011 59 Bảng 2.2: Tỷ lệ (%) phá thai và hút điều hoà kinh nguyệt của phụ nữ 15-49 tuổi theo thành thị, nông thôn 60 Bảng 2.3: Tỷ lệ % có dấu hiệu bất thƣờng về sức khỏe sau lần nạo thai gần nhất 63 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xuất phát từ khái niệm trẻ em ghi nhận trong Điều 1 Công ƣớc quốc tế của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đƣợc ký ban hành ngày 20–11–1989 và có hiệu lực từ 2-9-1990 (CRC): “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn”.[7] Và trong phần mở đầu của Công ƣớc: “Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em, “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”.[7] Đã cho thấy sự bỏ trống trong việc xác định vấn đề : Bắt đầu từ khi nào thì đƣợc coi là trẻ em , đƣơ ̣c thƣ̀a nhâ ̣n là con ngƣời ? Thai nhi có đƣợc coi là con ngƣời và đƣợc hƣởng những quyền lợi giống nhƣ những đứa trẻ bình thƣờng không? Đây vẫn là một vấn đề còn đang gây tranh cãi gay gắt trong bản thân giới nghiên cứu và đặc biệt trong nhóm các nhà làm luật, bởi hệ quả của việc nhận thức vấn đề này sẽ có ảnh hƣởng không nhỏ đến những quy định pháp luật của một Nhà nƣớc về nạo phá thai – một nô ̣i dung đã, đang và sẽ đƣợc toàn xã hội quan tâm. Nhìn nhận từ cuộc tranh luận không ngừng trong việc cắt nghĩa hay biện minh cho hành động phá thai khi trả lời câu hỏi: Phá thai có phải là một hành động giết ngƣời hay không? Từ quá trình tìm hiểu nguyên nhân thực hiện hành vi này, đã tồn tại những quan điểm trái ngƣợc nhau (đặc biệt khi nó đƣợc đặt trong mối tƣơng quan so sánh vì phúc lợi của ngƣời mẹ hay nhấn mạnh quyền lợi của bào thai) và liệu những nghiên cứu của ngành sinh vật học về tiến trình hình thành, phát triển của bào thai có thể cho chúng ta biết 1 đích xác vào thời điểm nào bào thai phải đƣợc coi là một con ngƣời hay không? Theo đó, trong quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy nổi trội có ba quan điểm đi kèm với 3 lối giải quyết đối với vấn đề này: Thứ nhấ t . Trong những luận điểm của nền luân lý truyền thống hay cổ điển hay bảo thủ, việc phá thai là một hành động trái luân lý không bao giờ có thể chấp nhận đƣợc, đặc biệt trong tôn giáo: Sự sống một khi đã đƣợc hình thành cần phải đƣợc bảo vệ tối đa, nạo phá thai và tội giết trẻ sơ sinh là những tội ác ghê tởm. Thứ hai. Ngƣợc lại, một nhóm khác lại cho rằng việc phá thai có thể chấp nhận đƣợc vì bản thân bào thai không giữ một địa vị hay một ý nghĩa luân lý nào đáng kể hoặc nhìn nhận theo quyền cơ bản của ngƣời phụ nữ ngƣời mẹ có toàn quyền đối với thân thể của mình (và bào thai là một phần của thân thể ngƣời mẹ); Thứ ba. Theo quan điểm dung hoà giữa 2 nhóm trên, việc cho phép phá thai tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển của bào thai với những đặc điểm hình thành của cơ thể sống hay ở những lý do chính đáng của ngƣời phụ nữ. Trong nghiên cứu của mình, điều mà tôi hƣớng tới là việc tìm hiểu về vấn nạn phá thai với một cái nhìn tổng quát hơn bao gồm cả hai khía cạnh luân lý xã hội và luật pháp . Trên thế giới, đã có không ít quốc gia duy trì luật cấm phá thai triệt để , cũng có nhiều quốc gia cho phép na ̣o phá thai tự do , nhƣng cũng có quốc gia đứng ở vị trí trung lập khi căn cứ theo độ tuổi thai hay nguyên nhân để cho phép na ̣o phá thai . Ở mỗi cách lựa chọn đều có những điều đáng để bàn luận. Xuất phát điểm từ thực tế các quy định về vấn đề thai nhi ở Việt Nam, không chỉ dừng ở những quy định pháp luật, còn ở các số liệu đang ngày càng tăng một cách đáng báo động về tỉ lệ phá thai và thực trạng nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam. 2 Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Quyền sống của thai nhi và vấ n đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về phá thai” làm đề tài nghiên cƣ́u của mình , với mục đích tìm hiểu thêm về những quan điểm trên thế giới về vấn đề quyền sống của thai nhi và quy định pháp luật của các quốc gia trên thế giới về vấn đề này . Từ đó góp phần bổ sung , hoàn thiện và phát triển các quan điểm , chính sách, pháp luật đã có , khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu khoa học, đồng thời đề xuất giải pháp thực thi việc bảo đảm trong quy định, thực tiễn áp dụng luật về vấn đề nạo phá thai và biện pháp hạn chế tình trạng nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về quyền con ngƣời là một vấn đề mới, song đã có sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Trong hệ thống các quyền cơ bản của con ngƣời, quyền sống là quyền có vị trí quan trọng luôn đƣợc nhắc đến hàng đầu,. Tuy nhiên, quyền sống của con ngƣời đƣợc xác định kể từ thời điểm nào vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Trong quá trình tìm hiểu của mình, thực tế không có nhiều tài liệu học thuật nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc về vấn đề này. Đa số là các nghiên cứu chuyên ngành y - dƣợc về biện pháp và hậu quả của việc nạo phá thai về sức khỏe, các nghiên cứu về hệ quả xã hội của việc nạo phá thai... Còn đề cập trực tiếp đến vấn đề này dƣới góc độ nhìn nhận về quyền sống của thai nhi với tƣ cách là những công trình nghiên cứu lại đặc biệt rất ít ỏi. Trong hệ thống các bài nghiên cứu đã công bố, vấn đề đánh giá tác động pháp luật cũng hiếm khi đƣợc thể hiện nhƣ là một đề tài độc lập, mà nó thƣờng đƣợc đề cập đến trong các bài viết, tranh luận cá nhân. Đặc biệt khi vấn đề này đang ngày càng trở nên nóng hổi và dành đƣợc nhiều sự quan tâm từ phía dƣ luận, số bài báo và bài viết đƣợc đăng tải trên mạng lẫn sách báo tăng một cách đáng kể. Những cuộc tranh luận về vấn đề này thƣờng xuất phát từ các nguồn: 3 Các bài viết của các nhóm tôn giáo về quyền của thai nhi: - Các lý luận bảo vệ sự sống - Bản dịch của Anthony Le; - Thảm nạn phá thai khi nào kết thúc – Linh mục Phaolo Nguyễn Văn Trung;... (nguồn từ VietCatholic) - Tính luân lý của việc tạo sinh – Phó tế Nguyễn Văn Tâm,... Những bài viết của cộng đồng tôn giáo thƣờng bàn luận xoay quanh vấn đề bảo vệ sự sống của những bào thai, cũng có những bài viết nhấn mạnh đến quyền lợi của ngƣời phụ nữ song rất hạn chế. Các bài viết, sách tham khảo của một số các nhà nghiên cứu nhƣ: - Bạn nghĩ gì về việc phá thai và về các trẻ em sinh ra trong ống nghiệm? Jacques Lacourt. - Sách: Tôi là ai và nêu vậy thì bao nhiêu? Một chuyến du hành triết luận của tác giả Richard David Precht. - Bài viết: Does the Unborn Child Have a Right to Life? The Insufficient Answer of the European Court of Human Rights in the Judgment Vo v. France của Jakob Pichon; - Ấn phẩm: Whose right to life - Women’s rights and Prenatal Protections under Human Rights and Comparative Law của Center for Reproductive Rights; - Tác phẩm: Right to life-A guide to the implementation of Article 2 of the European Convention on Human Rights của Douwe Korff;... Những bài viết này nhắc đến vấn đề quyền sống của thai nhi là khía cạnh gây tranh cãi trong nội hàm quyền sống và nêu ra 1 số luồng quan điểm về vấn đề này trong xã hội , quy đinh ̣ luâ ̣t pháp quố c tế và của các quố c gia song chỉ ở mức sơ sài. Về mặt pháp lý, lịch sử hình thành và hệ thống quy định pháp luật của các quốc gia trên thế giới về phá thai, các quy định trong luật Việt nam liên quan đến thai nhi, pháp luật về na ̣o phá thai và các vấn đề về vấn nạn phá thai 4 đặc biệt là tình trạng na ̣o phá thai trái phép ở Việt Nam là những nguồn cơ bản cho những nghiên cứu của luận văn này. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu tổng quát về tình hình nghiên cứu quyền sống của thai nhi và các quan điểm trên thế giới khi trả lời câu hỏi : Thai nhi có đƣợc coi là con ngƣời?. Từ đó tìm hiểu về quy định pháp luật Quố c tế và các quốc gia về vấn đề nạo phá thai. Trên cơ sở quy định pháp luật của Việt Nam và thực trạng tồn tại trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về nạo phá thai và vấn đề nạo phá thai trái phép ở Việt Nam, đƣa ra đánh giá về hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề này, từ đó đề xuất các biê ̣n pháp giải quyết. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đƣợc mục đích nói trên, nội dung của luận văn xoay quanh phạm vi giải quyết các vấn đề sau: - Nghiên cứu, làm rõ về nhận thức lý luận , các quan điểm trái chiều về Quyền sống, về thai nhi, về quyền sống của thai nhi và mố i quan hê ̣ với vấ n đề nạo phá thai. - Nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế về quyền sống của thai nhi. - Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc na ̣o phá thai . Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về vấn đề này. - Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về nạo phá thai và thƣ̣c trạng nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam hiện nay ; từ đó đƣa ra nhận định về nguyên nhân của những bất cập trong việc Ban hành và thực hiện các q uy định pháp luật. - Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và đƣa vào thực hiện hiệu quả các quy định đó trong tình hình mới ở Việt Nam. 5 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận: Chủ nghĩa Mac-Lenin và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề quyền con ngƣời; quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền sống của thai nhi và vấn đề nạo phá thai; Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về quyền sống của thai nhi, vấn đề nạo phá thai và việc bảo đảm thực hiện quy định pháp luật trên thực tế; Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: * Phƣơng pháp biện chứng, phƣơng pháp lịch sử; * Phân tích – tổng hợp: Các bài báo, bài viết về vấn đề quyền sống của thai nhi, tình trạng phá thai và phá thai trái phép,... * Thống kê xã hội học: Dựa vào các số liệu từ các nguồn: Bộ y tế, website của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,... đánh giá mức độ đáng báo động của nạn phá thai và nạo phá thai trái phép hiện nay; * So sánh, đánh giá: Trên cơ sở tìm hiểu quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới , so sánh và đƣa ra đánh giá với hệ thống luật pháp Việt Nam về na ̣o phá thai. 5. Những nét mới của luận văn Đây là công trình nghiên cứu về vấn đề đặc biệt mới mẻ trong những nội dung liên quan đến Quyền con ngƣời. Trong đó: - Phân tích, so sánh những quan điểm trên thế giới về một khía cạnh trong nội hàm quyền sống để trả lời câu hỏi: Thai nhi đã đƣợc coi là con ngƣời chƣa? Từ đó đƣa ra nhận định của bản thân về vấn đề này. - So sánh, đánh giá quy định pháp luật đƣợc quy định trên thế giới về vấn đề nạo phá thai hiện nay, quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế cùng thực trạng đang gây tranh cãi của vấn đề này cùng đánh giá nguyên nhân của thực trạng đó. - Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng 6 đƣa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, cũng nhƣ đƣa ra những giải pháp thực hiện những quy định đó đạt hiệu quả lâu dài. 6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận về một khía cạnh đang gây tranh cãi trong nội hàm của quyền sống, giúp ngƣời đọc có đƣợc cái nhìn toàn diện, đầy đủ về quan điểm của các nhóm trên thế giới về vấn đề quyền sống của thai nhi và điểm khác trong các quy định về nạo phá thai trong hệ thống luật của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Luận văn cũng nêu lên những thực trạng vấn đề nạo phá thai, nạo phá thai trái phép, những bất cập trong việc quy định và thực thi các quy định về vấn đề này ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số giải pháp cơ bản hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi các quy định này một cách hiệu quả ở Việt Nam trong thời kỳ mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC NỘI HÀM QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HIỆN TƢỢNG NẠO PHÁ THAI VÀ CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI Ở VIỆT NAM55 – PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI QUYẾT 7 Chương 1 QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC NỘI HÀM QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI 1.1. Khái quát về Quyền số ng của thai nhi 1.1.1. Khái niệm Quyền sống của con người Quyền sống là quyền cơ bản và đặc biệt quan trọng của con ngƣời, đƣợc ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế, cụ thể: Điều 3 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948 lần đầu tiên đề cập đến quyền sống với nội dung: “Everyone has the right to life, liberty and security of person - Mọi người đều có quyền sống tự do và an toàn cá nhân”[8]. Với nội dung nhƣ trên, Điều 3 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế đã chỉ ra 3 nhóm quyền khác nhau: Quyền và khả năng tồn tại, hay còn hiểu quyền đƣợc sống theo nghĩa sinh học và mở rộng hơn là quyền có đƣợc điều kiện sống đảm bảo; Quyền tự do cá nhân; Và quyền đƣợc an toàn cá nhân. Nội dung trên tiếp tục đƣợc cụ thể hóa trong Điều 6 ICCPR Khoản 1: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. “Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện”[9]. Bên cạnh đó, một số điều ƣớc khác nhƣ CRC, CPPCG, ICSPCA, Bình luận chung số 6 của UNHRC thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, Bình luận chung số 14 (phiên họp lần thứ 23 năm 1984)… cũng đã nhấn mạnh nội dung của quyền sống với những điểm quan trọng sau:  Thứ nhất, quyền sống là một quyền cơ bản của con ngƣời mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị vi phạm....[3]  Thứ hai, Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm cả những 8 khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con ngƣời. Theo cách tiếp cận này, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia phải thực thi những biện pháp để làm giảm tỉ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của ngƣời dân, cụ thể nhƣ các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng suy dinh dƣỡng và các dịch bệnh... tức là bao gồm cả các biện pháp thụ động và chủ động.[3]  Thứ ba, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến tranh và các tội phạm nghiêm trọng nhƣ diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì vậy, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền sống trong Điều 6 có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh và kích động hận thù, bạo lực nêu ở Điều 20 ICCPR.[3]  Thứ tƣ, phòng chống những hành động tội phạm gây nguy hại hoặc tƣớc đoạt tính mạng con ngƣời cũng là biện pháp hết sức quan trọng để bảo đảm quyền sống. Các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tƣớc đoạt tính mạng con ngƣời do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả do các lực lƣợng an ninh của nhà nƣớc. Liên quan đến vấn đề này, việc bắt cóc ngƣời và đƣa đi mất tích cũng bị coi là một trong những hình thức tƣớc đoạt quyền sống, do đó, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đƣa ra những biện pháp và kế hoạch hiệu quả để phòng chống và điều tra các vụ việc dạng này.[3]  Thứ năm, về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền sống, mặc dù ICPPR không bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt này, tuy nhiên, các quốc gia có nghĩa vụ phải hạn chế sử dụng nó, cụ thể là chỉ đƣợc áp dụng hình phạt này với những 9 tội ác nghiêm trọng nhất, và việc giới hạn áp dụng hình phạt này cũng đƣợc coi là một hình thức bảo đảm quyền sống. Ngoài ra, các quốc gia thành viên mà hiện còn áp dụng hình phạt tử hình có nghĩa vụ bảo đảm những thủ tục tố tụng trong những vụ việc bị can, bị cáo bị xét xử với mức án tử hình phải đƣợc thực hiện một cách công bằng nhất, trong đó bao gồm những khía cạnh nhƣ không áp dụng hồi tố, xét xử công khai, đƣợc giả định vô tội, bảo đảm các quyền bào chữa, kháng cáo và xin ân giảm.....[3] Nhƣ vậy, quyền sống không phải đƣợc quốc gia trao cho mà đó là của bản thân đã có khi là một con ngƣời. Trong quá trình thảo luận soạn thảo Điều 3 TNQTNQ, vấn đề quyền sống đƣợc đƣa ra “với nhiều vấn đề trải dài theo chu trình sống của một con người, từ khi còn ở giai đoạn sản xuất tế bào tinh trùng cho đến khi chết đi, chỉ còn là một thi thể”[2]. Về nguyên tắc tất cả các giai đoạn trong cuộc đời cá nhân một con ngƣời đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Điều này song thực tế cho thấy, luôn tồn tại những khu vực ranh giới gây tranh cãi về pháp lý mà trong khuôn khổ phần nghiên cứu này tôi muốn đi sâu hơn về quyền sống của thai nhi, liệu phôi thai (thai nhi) có đƣợc coi là con ngƣời và đƣợc hƣởng sự bảo vệ đặc biệt không? Xuất phát điểm của 1 con ngƣời là khi nào: khi sinh ra hay khi vẫn còn là bào thai phụ thuộc ngƣời mẹ? Mối liên hệ đặc biệt với khung pháp lý về nạo phá thai của các quốc gia, đặc biệt là ở Việt nam và hệ quả là nạo phá thai không an toàn?. 1.1.2. Vấn đề quyền sống của thai nhi Quyền đƣợc sống là một quyền con ngƣời cơ bản, trung tâm. Tuy nhiên, Quyền đƣợc sống của thai nhi là vấn đề nằm trong ranh giới gây tranh cãi bởi việc thừa nhận nó trong nhiều trƣờng hợp là đi ngƣợc lại với quyền tự do riêng tƣ của ngƣời phụ nữ. Do đó, đối với sự sống của một bào thai, từ trƣớc đến nay đa số Pháp luật quốc tế, các cơ quan nhân quyền quốc tế và khu 10 vực, cũng nhƣ tòa án trên toàn thế giới, đã thiết lập rõ ràng rằng bất kỳ biện pháp bảo vệ bào thai trƣớc khi sinh ra phải phù hợp với các quyền con ngƣời của phụ nữ. Đối với pháp luật quốc gia: Một số nƣớc đã áp dụng các khuôn khổ pháp lý khác nhau để bảo vệ sự sống trƣớc khi sinh: - Một số quốc gia thừa nhận sự sống trƣớc khi sinh ra là một quyền hiến định ghi nhận trong hiến pháp quốc gia nhƣ: Guatemala và Chile. - Một số quốc gia hƣớng tới bảo đảm sự công bằng cho cuộc sống của cả hai: phụ nữ mang thai và các trẻ chưa sinh nhƣ trong hiến pháp quốc gia của Ai-len và Philippines. - Một số quốc gia khẳng định sự phụ thuộc của thai nhi với cơ thể ngƣời mẹ và đặt quyền lợi bà mẹ lên trên nhƣ Ba Lan… Mô ̣t số nhóm có chiến lƣợc thúc đẩy việc công nhận quyền đƣợc sống trƣớc khi sinh đã dƣ̣a vào bối cảnh mới trong quy trình lập pháp cải cách, các sáng kiến lập pháp, tòa án và những thách thức mà tìm cách mở rộng hiến pháp bảo vệ của quyền sống trƣớc khi sinh ở nhiều quốc gia. Ví dụ, trong năm 2010, Cộng hòa Dominica đã thông qua một hiến pháp mới, trong đó công nhận quyền đƣợc sống từ lúc thụ thai. Trong năm 2008 và 2010, bang Colorado – Hoa Kỳ, và trong năm 2011, tiểu bang Mississippi đƣa sáng kiến sửa đổi hiến pháp khi đƣa ra nhận định rằng: quan niệm về bắt đầu cuộc sống là từ lúc thụ tinh, theo đó hợp tử, phôi và bào thai là con ngƣời có tất cả các quyền đƣợc bảo đảm cho ngƣời dƣới hiến pháp bang của họ. Từ năm 2008, có ít nhất 16 tiểu bang Mexico đã sửa đổi hiến pháp để bảo vệ quyền đƣợc sống từ khi thụ tinh hoặc thụ thai. Trong năm 2007, các thành viên của Quốc hội Slovakia thách thức tính hợp hiến của pháp luật về phá thai của nƣớc này, cho rằng hiến pháp cần bảo vệ quyền sống trƣớc khi sinh. Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp Slovakia cho thấy 11 thừa nhận quyền sống của một thai nhi sẽ trực tiếp mâu thuẫn quyền hiến pháp của phụ nữ đối với sức khỏe và sự riêng tƣ và duy trì tính hợp hiến của luật phá thai... Điều đó cho thấy sự thay đổi trong quan niệm về khoảng thời gian bắt đầu sự sống theo quan niệm, điều này gây ảnh hƣởng không nhỏ đến các quy định pháp lý về các vấn đề liên quan nhƣ nạo phá thai, y tế công cộng … 1.2. Các khía cạnh liên quan đến nội dung quyền sống của thai nhi 1.2.1. Những nội dung cơ bản Trong nhiều cuộc thảo luận của Ủy ban Nhân quyền và Ủy ban thứ ba của Đại hội đồng về tình hình ngày nay, khởi đầu sự sống của một con ngƣời là nội dung của quyền sống còn nhiều vấn đề gây tranh cãi đến nay chƣa có hồi kết. Trong quá trình soạn thảo Điều 3 TNQTNQ đã có cuộc tranh luận giữa đại diện Chilê cho rằng quyền sống cần đƣợc bảo vệ từ lúc đƣợc thụ thai và đại diện từ Đan Mạch khi nhấn mạnh về pháp luật nhiều quốc gia cho phép phá thai…Theo đó, đã có những điểm mâu thuẫn trong chính những văn bản pháp lý quốc tế và khu vực. Cụ thể: Đa số các văn bản nhƣ UD, ICCPR, ICSCR,... không đƣa ra khái niệm hay thời điểm xác định sự bắt đầu của một con ngƣời - đối tƣợng đƣợc hƣởng những quyền đƣợc nêu ra – Con ngƣời đƣợc thừa nhận kể từ khi nào: Từ khi mới hình thành? Thời gian trong bụng mẹ (3 tháng, 7 tháng …) hay phải đến khi sinh ra? Tuy nhiên, lịch sử các cuộc đàm phán về các điều khoản của hiệp ƣớc nhân quyền qua cách sử dụng ngôn ngữ đã cho thấy quan điểm của luật pháp quốc tế, của các cơ quan giám sát hiệp ƣớc trên cơ sở thông qua ý kiến chung, quan sát đƣa ra kết luận, quyết định trong trƣờng hợp cá nhân, luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo vệ quyền của phụ nữ, và khẳng định rằng để đảm bảo các quyền cơ bản của phụ nữ với cuộc sống và sức khỏe, phải loại bỏ các rào cản để đƣợc hƣởng đầy đủ các quyền, chẳng hạn nhƣ phá thai an toàn và hợp pháp, cụ thể: 12 Điều 1. Tuyên ngôn Nhân quyền 1948 ghi nhận: "một con người sinh ra tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền"[8]. Trong đó, lịch sử của các cuộc đàm phán chỉ ra rằng từ "sinh" đã đƣợc sử dụng một cách cố ý để loại bỏ trƣờng hợp gây tranh cãi đối với thai nhi. Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo, việc đƣa ra quan điểm nhƣ vậy đã có nhiều ý kiến trái chiều từ các quốc gia có khung pháp luật bảo vệ sự sống Công ƣớc Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị trong quá trình soạn thảo đã bác bỏ các đề xuất rằng quyền sống cần đƣợc bảo vệ đối với cả những sự sống chƣa đƣợc sinh ra. Theo đó, Ủy Ban Nhân Quyền đã diễn giải và giám sát tuân thủ nhà nƣớc với ICCPR, đã làm rõ thêm rằng: ICCPR bảo vệ cuộc sống của ngƣời mẹ khi phụ nữ có nguy cơ tử vong do mang thai. Điều này đƣợc thể hiện rõ hơn trong các vụ việc do Ủy ban đứng ra giải quyết, cụ thể: - Trong trƣờng hợp của KL v Peru, Ủy ban đã cho phép phá thai điều trị khi xác định việc tiếp tục mang thai gây ra một nguy cơ đáng kể đến đời sống và sức khỏe tâm thần của ngƣời phụ nữ mang thai, vi phạm quyền của ngƣời phụ nữ không bị đối xử tàn ác, vô nhân đạo, hoặc xuống cấp. Các Ủy ban Nhân quyền khẳng định lại quyết định này trong trƣờng hợp LMR v Agentina, khi cho rằng việc từ chối nạo phá thai cho một nạn nhân bị hiếp dâm gây ra nỗi đau thể xác và tinh thần, vi phạm quyền của ngƣời phụ nữ đƣợc tự do từ tra tấn và tàn nhẫn, vô nhân đạo, làm ảnh hƣởng đến quá trình điều trị, và quyền riêng tƣ của ngƣời phụ nữ. Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ: Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), đã diễn giải và giám sát việc tuân thủ nhà nƣớc với Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại Phụ nữ (CEDAW), nhấn mạnh rằng “các nguyên tắc cơ bản của không phân biệt đối xử và bình đẳng trong đó có yêu cầu các quyền của một phụ nữ mang thai phải được ưu tiên hơn một quan tâm đến sự sống trước 13 khi sinh”[4]. Trong trƣờng hợp của LC v Peru, Ủy ban CEDAW thấy rằng chính phủ đã vi phạm quyền của một cô gái mang thai bằng cách ƣu tiên cho thai nhi hơn sức khỏe của cô bằng cách trì hoãn phẫu thuật cần thiết cho đến khi cô gái không còn mang thai. Trong khi đó, nếu cô gái tiếp tục mang thai sẽ gây ra một nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của cô, và Ủy ban CEDAW cho rằng từ chối phá thai trị liệu và sự chậm trễ trong việc cung cấp phẫu thuật thành lập và phân biệt đối xử trên cơ sở giới vi phạm các quyền của mình đối với sức khỏe và tự do phân biệt đối xử. Ủy ban CEDAW đã tiếp tục bày tỏ lo ngại các quyền của phụ nữ với cuộc sống và sức khỏe có thể bị xâm phạm bởi luật hạn chế phá thai. Tuy nhiên, một số văn bản đã bắt đầu có bƣớc tiếp cận, thậm chí khẳng định: nhƣ CRC khi viện dẫn Tuyên ngôn về Quyền trẻ em: Điều 1 Công ƣớc quốc tế của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đƣợc ký ban hành ngày 20 – 11 – 1989 và có hiệu lực từ 2-9-1990 (CRC): Trong phạm vi của Công ƣớc này, trẻ em có nghĩa là mọi ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn[7]. Và trong phần mở đầu của Công ƣớc: Ghi nhớ rằng, nhƣ đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần đƣợc bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trƣớc cũng nhƣ sau khi ra đời.[7] Hay Công ƣớc Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR) Điều 4 ghi nhận: “Mỗi người đều có quyền được tôn trọng cuộc sống, quyền này được bảo vệ bởi luật pháp và nhìn chung từ lúc thụ thai không ai bị tùy tiện tước đoạt quyền sống”[6]. Tuy nhiên, Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ, một trong hai cơ quan xét xử và giám sát việc tuân thủ Công ƣớc châu Mỹ, có làm rõ rằng bảo vệ này không phải là tuyệt đối, thực tế khi xảy ra sự việc trên thực tế: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan