ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ HỒNG MINH
QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ HỒNG MINHQUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên
HÀNỘI-2010
MỞ ĐẦU
1. Tính cấpthiết của đề tàiTrong quan hệ pháp luật dân sự,việc xác định chủ thể,
năng lực chủ thể để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn to lớn. Mỗi người, khi sinh ra đều là chủthểquan hệ pháp luật. Tuy
nhiên, nănglực chủ thể của cá nhân tùy thuộc vào sức khỏe tâm sinh lý và độtuổi
của cá nhân đó. Người chưa thành niên là chủ thể mà pháp luật phải dành sựquan
tâm đặcbiệt bởi đa sốngười chưathành niên là trẻ em.Theo số liệu của cuộc điều tra
về dân số năm 2009 cho thấy, tổng số dân của Việt Nam tính đến thời điểm 0 giờ
ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85.789.573người, trong đó số người từ 0 đến dưới 15
tuổi chiếm 25%, số người từ 15 đến dưới 60 chiếm 66% và số người từ 60 tuổi trở
lên chiếm 9%.Bộ luật Dân sự năm 2005tạiĐiều 18 đã quy định: Người chưa thành
niên là người chưa đủ 18 tuổi. Mặc dù không có con số chính xác về số người dưới
18 tuổi trong cơ cấu dân số về độ tuổi của Việt Nam, tuy nhiên chúng ta có thể dự
đoán con số này có thể nằm trong khoảng từ 28% đến 30%, có nghĩa là tương
đương với khoảng24.000.000 người. Đây thực sự là một con số không nhỏ, nó cho
thấy chúng ta có một tiềm năng lớn về nguồn nhân lực trong tương lai. Mặt khác
đây cũng là nhóm dân số đặc biệt trong xã hội do đặc điểm về độ tuổi và thể
chất.Tại Điều 1 Công ước của Liên HợpQuốc về quyền trẻ em năm 1989 có quy
định: " Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn"[11], bên cạnh việc quy định về độ tuổi để xác định một người là trẻ em, Công
ước này của Liên Hợp Quốc cũng đã dành nhiều quy định và trao cho nhóm đối
tượng này những quyền năng đặc biệt, tại lời mở đầu của Công ước đã xác định:
"...tin tưởng rằng, gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự
nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là
trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm đương được đầy đủ các
trách nhiệm của mình trong cộng đồng..." [11]. Pháp luật Việt Nam tại Điều 1 Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi và cũng
đã có nhiều quy định để dành cho những đối tượng này những quyền ưu tiên đặc
biệt. Dưới góc độ pháp luật dân sự, xuất phát từ sự non nớt về thể chất và trí tuệ
cũng như từ nhận thức về vai trò quan trọng của thế hệ những chủ nhân tương lai
của đất nước, pháp luật dân sự Việt Nam đã luôn thể hiện được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước cùng toàn thể xã hội khi dành nhiều quy định nhằm ghi nhận và
bảo vệ cho những công dân chưa đủ 18 tuổinhững quyền dân sự được quy định cụ
thể và chi tiết.Về cơ bản, trong những năm qua, việc ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm
chocác quyền dân sự của người chưa thành niên đã được thực hiện nghiêm túc và
đúng đắn với một tinh thần trách nhiệm cao của nhà nước vàtoàn thể xã hội;Tuy
nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của những lối sống thực
dụng, ích kỷ cùng sự băng hoại đạo đức của một số cá nhân đơn lẻ trong thời gian
gần đây đã gây nên một thực trạng xấu cho xã hội, tạo ra một tâm lý bất bình trong
các tầng lớp nhân dân, đó là tình trạng vi phạm và xâm hại các quyền của người
chưa thành niên, đặc biệt là tình trạng bóc lột sức lao động của người chưa thành
niên ngày một nghiêm trọng, thậm chí có không ít những trường hợp mang tính
chất hình sự. Một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của người chưa
thành niên là quyền được bảo vệ thân thể và sức khoẻ trong nhiều trường hợp đã
không được bảo vệ và bị xâm hại một cách trực tiếp thì những quyền dân sự khác
của họ sẽ được thực hiện và bảo vệ ra sao?Việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của
nhà nước cùng toàn thể xã hội trong việc ghi nhận và đặc biệt là việc bảo vệ, bảo
đảm cho các quyền dân sự của người chưa thành niên được thực hiện trong cuộc
sống một cách nghiêm chỉnh sẽ là một vấn đềrất cần thiết được nhìn nhận nghiêm
túc hơn nữa trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứuViệc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của
người chưa thành niên là đề tài được quan tâm nghiên cứu của nhiều người và dưới
nhiều khía cạnh khácnhau. Tuy nhiên, khi xem xét dưới góc độ là đối tượng điều
chỉnh của pháp luật dân sự thì các quyền của người chưa thành niên trong thực tế
được thể hiện qua các công trình nghiên cứu hay các bài viết được đăng trên các
tạp chí chuyên ngành thường được khai thác và trình bày một cách đơn lẻ, riêng
biệt theo từng vấn đề cụ thể như quyền khai sinh, quyền thay đổi họ tên, quyền
được nhận làm con nuôi hay quyền được cấp dưỡng..., hoặc có những trường hợp
lại đươc xem xét một cách tổng hợp và không được phân biệt theo các chuyên
ngành pháp luật cụ thể như pháp luật hình sự, pháp luật dân sự... Điều này được
nhận thấy qua việc tác giả tìm hiểu một số các công trình nghiên cứu và một số các
bài viết của các tác giả trong thời gian qua mà tiêu biểu là luận văn thạcsĩ của tác
giả Lê Thị Phương Nga với đề tài "Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em trong giai đoạn
hiện nay", luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh với đề tài "Chế định
cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000" hoặc luận án tiến sĩ của
tác giả Nguyễn Thị Phương Lan với đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam".Thông qua việc tìm hiểu, tác giả nhận thấy
cần thiết có một công trình nghiên cứu một cách tổng thể và tương đối toàn diện về
việc ghi nhận và thực hiện các quyền dân sự của người chưa thành niên một cách
có hệ thống; từ đó, xem xét và đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể
nhằm ngoài việc góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật dân sự trong lĩnh vực
này còn góp phần nâng cao hơnnữa nhận thức của xã hội đối với việc bảo đảm và
bảo vệcác quyền dân sự của người chưa thành niên, tạo những điều kiện cần thiết
nhất đểxây dựng một xã hội lành mạnh nhất cho sự phát triển của người chưa thành
niên.
3.Mục đích,nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn+ Mục đích và ý nghĩa của luận văn:
Về mặt lý luận, tác giả cố gắng nghiên cứu một cách tương đối toàn diện các quy
định của pháp luật dân sự về quyền của người chưa thành niên, tìm hiểu một số
trường hợp cụ thể trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp, thông qua đó
phát hiện và nêu ra một số vấn đề bất cậptrong quy định hiện hành vàđề ra phương
hướng, giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự
về quyềncủa người chưa thành niên + Nhiệm vụ của luận văn:-Nghiên cứu, phân
tích và xây dựng khái niệm về người chưa thành niên.-Phân tích một cách cụ thể và
chi tiết nhữngchế định về quyền của người chưa thành niên trong các văn bản luật
và dưới luật thuộc chuyên ngành luật dân sự. -Phân tích, so sánh việcghi
nhậnquyềncủa người chưa thành niên qua các giai đoạn lịch sử của pháp luật dân
sự Việt Nam.-Đánh giá một phần thực trạng việc thi hành, áp dụng các quy định
của pháp luật dân sự về quyềncủa người chưa thành niên.
4. Phạm vi nghiên cứuVới đề tài "Quyền của người chưa thành niên theo pháp luật
dân sự Việt Nam", tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật dân
sự có nội dung chứa đựng những quy phạm nhằm điều chỉnh đối tượng là người
chưa thành niên bao gồm quy định của các Bộ luật Dân sự 1995 -2005, Luật Hôn
nhân và gia đình, luật lao độngcùng các văn bản luật, dưới luật khác thuộc ngành
Luật dân sự Việt Nam,quy định và điều chỉnh các vấn đề về quyền của người chưa
thành niên. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu, xem xét và phân tích một số trường hợp cụ
thể trong thực tiễn hoạt động của một số các cơ quantư pháp cũng góp phần giúp
tác giả nghiên cứu đề tài một cách sâu sắc hơn.
5. Điểm mới của luận văn-Luận văn đã nghiên cứu và phân tích một cách cụ thể,
chi tiết đặc điểm của người chưa thành niên -một chủ thể đặc biệt trong quan hệ
pháp luât dân sự, xây dựng được khái niệm về người chưa thành niên và quyền của
người chưa thành niên theo pháp luật dân sự-Luận văn có đánh giá thực trạng thi
hành các quy định của pháp luật dân sự liên quan tới các quyền của người chưa
thành niên một cách toàn diện, có hệ thống và từ đó đưa ra những giải pháp có tính
đồng bộ nhằm thực hiện và bảo vệ tốt hơn nữa các quyền dân sự của người chưa
thành niên trong giai đoạn hiện nay.
6.Phƣơng pháp nghiên cứuLuận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là
phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phương pháp phân tích quy
phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích, bình luận nội dung của một số chế
định.
7.Kếtcấu của luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận vàdanh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:Những vấn đề lý luận về quyềncủa người chưa thành niên theo pháp luật
dân sự
Chương 2: Nội dung pháp luật dân sựhiện hành về quyền của người chưa thành
niên và thực tiễn việcthi hành, áp dụng các quy định của pháp luật dân sự có liên
quan tới quyền của người chưa thành niên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả của pháp luật dân sự
nhằm thực hiện và bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong giai đoạn hiện
nay
Chương 1NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀNCỦA NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN THEOPHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN
1.1.1. Năng lực chủ thể và quyền của ngƣời chƣa thành niên theo phỏp luật dõn
sựa. Năng lực chủ thể của cỏnhõn theo pháp luật dân sựTrong quan hệ pháp luật
dân sự thì cá nhân được xác định là chủ thể chủ yếu và thường xuyên nhất. Tuy
nhiên, để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể thì cá
nhân phải có năng lực pháp luật dân sự, nghĩa là phải được pháp luật thừa nhận có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự là khả
năng để một cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự được pháp
luật cho phép; như vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chính là điều kiện
đầu tiên và cần thiết để cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự
và có tư cách chủ thể trong các quan hệ đó.Khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự
hay nói cách khác là năng lực pháp luật dân sự của một cá nhân trong mỗi một
quốc gia, lãnh thổ sẽ chịu ảnh hưởng bởi chế độ chính trị, kinh tế và văn hoá của
quốc gia hay vùng lãnh thổ đó, thậm chí trong chính một quốc gia hay vùng lãnh
thổ nhất định thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng có thể khác nhau
trong mỗi một giai đoạn lịch sử, thời kỳ phát triển nhất định. Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân được xác định là sự phản ánh địa vị của cá nhân trong xã hội đó
và được nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Một đặc điểm khác là xét
về năng lực pháp luật dânsự thì mọi cá nhân đều bình đẳng như nhau, có nghĩa là
mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau mà không có sự phân biệt
về dân tộc, tôn giáo hay giới tính... các cá nhân đều có khả năng như nhau về
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, khả năng nàykhông bị hạn chế ngoại trừ một số
trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định một cách rõ ràng và chặt chẽ.Một đặc
điểm quan trọng khác về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chính là tính liên
tục, một cá nhân sẽ được xác định là có năng lực pháp luậtdân sự bắt đầu từ khi họ
được sinh ra và năng lực này chỉ chấm dứt khi họ chết. Việc xác định thời điểm
một người sinh ra hay thời điểm người đó chết có ý nghĩa pháp lý quan trọng làm
phát sinh hay chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đó. Năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân không phụ thuộc vào độ tuổi hay nhận thức của người đó
mà sẽ gắn bó với cá nhân đó từ khi họ được sinh ra đến khi họ chết đi.Xét về mặt
lý luận thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ xuất hiện khi người đó được
sinh ra; tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn của đời sống mà pháp luật cũng đã có
những ngoại lệ nhất định, trường hợp một người chưa được sinh ra, khi họ vẫn còn
là một bào thai cũng đã được hưởng một số quyềnnhất định hay nói cách khác là
họ đã có năng lực pháp luật dân sự ở một mức độ hạn chế, đó chính là trường hợp
một người được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai
trước khi người để lại di sản chết cũng được xác định là người thừa kế và được
hưởng di sản của người đã chết.Cùng với năng lực pháp luật dân sự của cá nhân,
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là bộ phận cấu thành năng lực chủ thể của cá
nhân. Tuy nhiên, ngược lại năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng lực hành vi
dân sự của cá nhân lại không giống nhau, yếu tố quy định sự khác nhau về năng
lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân chính là ở độ tuổi và thể chất của cá nhân đó.
Mọi cá nhân có năng lực pháp luật dân sự kể từ khi người đó được sinh ra, nhưng
mỗi cá nhân chỉ có năng lực hành vi dân sự khi họ đã đạt đến một độ tuổi nhất định
và có sự phát triển bình thường về thể chất và trí tuệ.Để có thể xác lập và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ dân sự của chính mình, đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả
năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và ý thức được hậu quả do hành
vi của mình gây ra. chính vì vậy mà căn cứ vào độ tuổi và khả năng nhận thức,
điều chỉnh hành vi của cá nhânmà pháp luật dân sự đã phân biệt rõ các mức độ
năng lực hành vi dân sự của cá nhân.Năng lực pháp luật dân sự của mỗi cá nhân
được xem là tiềnđề của năng lực hành vi dân sự, nhưng sự tồn tại hay không tồn tại
của năng lực hành vi dân sự của một cá nhân thì lại không có sự ảnh hưởng tới
phạm vi hay nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, năng lực hành vi dân sự lại được xác định là cơ sở để xem xét và
bảo vệ một số quyền dân sự nhất định của cá nhân.b. Khái niệm người chưa thành
niên và quyền của người chưa thành niêntrong quan hệ pháp luật dân sự.Trong mỗi
một hệ thống pháp luật dân sự ở các quốcgia hay các vùng lãnh thổ khác nhau đều
có những chế định pháp lý nhằm điều chỉnh và bảo vệ một nhóm đối tượng đặc
biệt trong xã hội mà chúng ta vẫn thường gọi họ là những người vị thành niên hay
người chưa thành niên. Vậy, dưới góc độ pháp luật dân sự thì người như thế nào sẽ
được gọi là người chưa thành niên và có cách hiểu thống nhất về người chưa thành
niên giữa các hệ thống pháp luật dân sự khác nhau giữa các quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ hay không?Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ do nhà xuất bản từ
điển Bách Khoa phát hành năm 2006 thì: "Thành niên là đã đúng tuổi hưởng quyền
công dân và chịu trách nhiệm về hành vi của mình"[42],dưới góc độ pháp luật dân
sự thì cách hiểu như trên là chưa đầy đủ, tuy nhiên khi khẳng định như vậy cũng có
thể giúp cho người đọc hiểu được phần nào rằng một người như thế nào thì được
gọi là thành niên hay chưa thành niên và biết được độ tuổi của một người sẽ làm
căn cứ để xác định rằng họ đã được hưởng đầy đủ các quyền cũng như nghĩa vụ
của một công dân hay chưa.Qua nghiên cứu và xem xét một số các quy định trong
các văn bản pháp luật dân sự của một vài hệ thống pháp luật sự khác nhau trên thế
giới, có thể hiểu rằng "người chưa thành niên" là một thuật ngữ nhằm chỉ một
nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định vàthông thường thì người chưa thành
niên được xác định là những người dưới 20 hoặc dưới 18 tuổi; thực chất thì việc
căn cứ vào độ tuổi chỉ là một phương pháp của pháp luật dân sự mà dựa vào đó,
người ta có thể xác định một người đã có sự trưởng thành đầy đủvề mặt thể chất,
trí tuệ hay chưa và từ đó mà pháp luật dân sự sẽ xác định và ghi nhận cho họ có
những quyền và nghĩa vụ dân sự tương ứng. Trên thực tế thì việc căn cứ vào độ
tuổi nhất định để xác định một người đã thành niên hay chưa thành niên, đã có
sựphát triển về mặt thể chất và trí tuệ đầy đủ hay chưa giữa các quốc gia, các hệ
thống pháp luật dân sự sẽ là khác nhau, điều này phụ thuộc vào những điều kiện về
tự nhiên cũng như về mặt chính trị xã hội...của các quốc gia hay vùng lãnh thổ đó,
và mặc dù có những sự khác nhau như vậy nhưng nhìn chung lại thì người chưa
thành niên dù ở trong bất kỳ một hệ thống pháp luật dân sự nào xét về mặt bản chất
cũng đều được xác định là những người chưa thực sự trưởng thành về tinh thần và
thể lực, họ rất cần nhận được sự quan tâm, bảo vệ và chăm sóc đặc biệt từ phía nhà
nước và xã hội. Xét dưới góc độ tâm lý, đặc điểm nổi bậtcủa quá trình phát triển
lứa tuổi chưa thành niênchính là những biến chuyển nhanh của các em cả về mặt
thể chất và tinh thần. Do sự trưởng thành và tích luỹ ở những giai đoạn trước,
người chưa thành niênmà đặc biệt là những người đang ở độ tuổi 14 đến dưới 18
đã có một vị trí xã hội mới, họ không hoàn toàn còn là trẻ con nhưng cũng chưa thể
là người lớn, đây là giai đoạn đặc trưng các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam và nữ.
Những thay đổi rất cơ bản ở trên đã làm cho người chưa thành niêncó ấn tượng sâu
sắc rằng: " Mình không còn là trẻ con nữa". Mặt khác, chính người lớn cũng không
hoàn toàn coi họ như những đứa trẻ trước đây, các em đã có một vị thế mới trong
gia đình của mình, trong một số trường hợp nhất định, các em đã tham gia lao động
góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế cho gia đình....Tuy nhiên, xét về
mặt xã hội, người chưa thành niênvẫn còn là những học sinh và còn phụ
thuộcnhiều vào bố mẹ, các em còn rất non nớt về kiến thức xã hội và ý thức về
hành vi. Ởđộ tuổi chưa thành niênnày, các quá trình hưng phấn thần kinh của vỏ
não mạnh và chiếm ưu thế nên nhiều khi các em không làm chủ được bản thân,
không kiềm chế được xúc động mạnh, dễ bị kích thích, dễ nổi nóng và gây gổ, tính
hiếu động tò mò, thích tìm hiểu cái mới của thế giới xung quanh và do vậy người
chưa thành niênở độ tuổi này cũng thường dễ bị kích thích, bị lôi kéo và có những
hành động mang tính tiêu cực. Vì vậy mà pháp luật cần có những quy định ngoài
việc ghi nhận một số quyền dân sự đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của họ còn có
những chế định nhằm bảo vệ và bảo đảm cho các quyền ấy được thực thi nghiêm
chỉnh trong cuộc sống.Từ những tìm hiểu và phân tích như trên, chúng ta có thể
khái quát và hiểu được về bản chất của vấn đề, rằng một người như thế nào thì
được gọi là người chưa thành niênvà xây dựng được một khái niệm như sau về
người chưa thành niêntheo pháp luật dân sự: Người chưa thành niên là những
người đang trong quá trình phát triển về mặt tự nhiên và xã hội; chưa có sự trưởng
thành đầy đủ về thể chất, trí tuệ và chưa đạt đến một độ tuổi nhất định theo quy
định của pháp luật dân sự.Bên cạnh việc tìm hiểu và xây dựng khái niệm về người
chưa thành niênchúng ta cũng cần thiết tìm hiểu và phân tích đối với thuật ngữ "trẻ
em". Theo quy định tại Điều 1 -Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em thì:
"Trong phạm vi của công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi
trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn",
như vậy quy định trên của công ước có tính mở bởi lẽ nó thừa nhận việc các quốc
gia, vùng lãnh thổ có thể quy định về độ tuổi để xác định một người được gọi là trẻ
em có thể nhiều hơn hoặc ít hơn độ tuổi theoquy định tại công ước dựa vào những
điều kiện riêng biệt và đặc trưng của mình. Tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em Việt Nam năm 2004 có quy định: "Trẻ em trong quy định này là công dân
Việt Namdưới 16 tuổi" [33]. Như vậy, mọi cá nhân khi được xác định là người
chưa thành niênxét dưới góc độ pháp luật Việt Nam thì cũng sẽ được xác định là
trẻ em theo công ước quốc tế, tuy nhiên theo pháp luật Việt Nam thì không phải tất
cả những người chưa thành niênđều được xác định là trẻ em, mà chỉ những người
chưa thành niênở độ tuổi dưới 16 mới được coi là trẻ em. Quy định như vậy phải
chăng có sự không thống nhất? Theo quan điểm của một số cá nhân thì pháp luật
dân sự Việt Nam cần có sự thống nhất và hợp nhất hai nhóm đối tượng là người
chưa thành niênvà trẻ em là một và lấy độ tuổi 18 làm căn cứ để xác định, như vậy
sẽ phù hợp với thực tế và pháp luật quốc tế hơn?Theo quan điểm của tác giả thì xét
về mặt bản chất cả người chưa thành niêncũng như trẻ em đều là những người chưa
có sự trưởng thành và phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như tinh thần do độ
tuổi của họ còn nhỏ. Về mặt lý luận thì như chúng ta đã biết năng lực pháp luật dân
sự của mỗi cá nhân là bình đẳng, chỉ có năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì
mới có sự phân biệt dựa vào độ tuổi và sự phát triển bình thường của mỗi cá nhân
và từ đó ta thấy rằng năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niênvà năng
lực hành vi dân sự của trẻ em là không giống nhau, việc quy định về trẻ em và độ
tuổi để xác định là trẻ emnhư pháp luật Việt Nam là hợp lý và khoa học bởi lẽ một
cá nhân khi đủ 16 tuổi trở lên đã được pháp luật ghi nhận và trao cho cho họ những
quyền dân sự nhất định mà một cá nhân khi chưa đủ 16 tuổi không thể có được,
cũng vì thế mà mức độ và sự cần thiết được quan tâm, chăm sóc và bảo vệ đối với
họ cũng là không giống nhau.
Về vấn đề quyền của người chưa thành niên trong quan hệ pháp luật dân sự, theo
Đại từ điển tiếng Việt thì Quyền là " lợi lộc được hưởng do địa vị đem lại", như
vậy có thể hiểu khái quát về quyền của người chưa thành niêntheo pháp luật dân sự
là những đặc lợi mà chỉ người chưa thành niênmới có, do pháp luật dân sự trao cho
họ. Do người chưa thành niênlà một thực thể sinh học -xã hội, là sự thống nhất
giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, cho nên quyền của người chưa thành niênvừa
mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Mặt khác, cũng do người chưa thành
niênlà một thực thể sinh học -xã hội, cho nên quyền của người chưa thành niênvừa
mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù, tính phổ biến thể hiện ở chỗ những
quyền này được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, cho mọi đối tượng được gọi là người
chưa thành niên, tính đặc thù thể hiện ở chỗ các quyền này ở các quốc gia, lãnh thổ
do những điều kiện và trình độ phát triển khác nhau mà có những đặc điểm riêng
biệt phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, lãnh thổ đó.Từ những sự phân tích
như trên, ta có thể khái niệm như sau về quyền dân sự của người chưa thành niên:
Quyền dân sự của người chưa thành niênlà những đặc lợi vốn có, tự nhiên mà chỉ
người chưa thành niênmới được hưởng theo quy định của pháp luật dân sự trong
những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội nhất định.1.1.2. Mức độ năng lực
hành vi và quyền của ngƣời chƣa thành niêntheo pháp luật dân sựa. Mức độ năng
lực hành vi và quyền của người chưa thành niênMọi cá nhânđều có năng lực pháp
luật dân sự kể từ khi người đó sinh ra, nhưng mỗi cá nhân chỉ có năng lực hành vi
dân sự khi đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có sự phát triển bình thường về thể
chất và trí tuệ.Để có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của
chính mình, đòi hỏi cá nhân phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi
của mình và ý thức được hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vì vậy, căn cứ vào
độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người, pháp luật dân sự
đã phân biệt rõ các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân với các khả năng
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và trở thành chủ thể của những quan hệ
đó.Đối với những người chưa đủ sáu tuổi, pháp luật dân sự xác định họ là những
người không có năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch của những người này đều
phải do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi
bởi họ chưa có ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả của
nhữnghành vi đó. Đối với những người từ đủ sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi được
pháp luật xác định là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể
bằng hành vi của mình tạo ra quyền cũng như việc phải chịu những nghĩa vụ khi
tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạthàng ngày phù hợp với
lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch "phục vụ
nhu cầu sinh hoạthàng ngày" và "phù hợp với lứa tuổi" nhưng có thể hiểu, đó là
những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi, cuộc sống
được những người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý của
những người đại diện (mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui chơi giải trí...). Trên thực
tế những lứa tuổi khác nhau sẽ có những nhu cầu khác nhau. Người đại diện của
những người ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do những
người đó thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu. Nếu những người đại
diện không yêu cầu xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao
dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực. Pháp luật dân sự cũng dự liệu và đã
dành cho người chưa thành niên ở độ tuổi từ đủ mười lăm đến dưới mười tám
quyền được tự mình thực hiện, xác lập giao dịch dân sự mà không cần phải có sự
đồng ý củangười đại diện trong trường hợp họ có tài sản riêng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ, ngoại trừ những trường hợp được pháp luật quy định cụ thể.b. Phân
loại quyền của người chưa thành niênQuyền dân sự của người chưa thành niên
thực chất có thể coi là bộ phận hợp thành quyền dân sự của cá nhân và nó thuộc
nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Để tìm hiểu và phân loại về các
quyền dân sự của người chưa thành niên thì trước hết, ta cần xem xét về các quyền
dân sự của cá nhân nói chung theo pháp luật dân sự.Trong phạm vi điều chỉnh của
mình, pháp luật dân sự trao cho cá nhân những quyền như sau: Quyền nhân thân
không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; Quyền sở hữu, quyền
thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; Quyền tham gia quan hệ dân sự và có
các quyền dân sự phát sinh từ quan hệ đó. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn
đối với các quyền dân sự đó của cá nhân.Thứ nhất: Quyền nhân thân là những
quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho
chủ thể khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều phải có nghĩa vụ
tôn trọng quyền nhân thân của người khác. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ
nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân
thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định
các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân đó. Quyền nhân thân luôn gắn
với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch được cho các chủ thể khác.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhấtđịnh có thể chuyển dịch được theo quy
định của pháp luật. Mỗi một chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng
được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm hại, khi quyền nhân thân bị xâm
phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính, yêu cầu người có hành vi xâm phạm
hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành
vi vi phạm. Các quyền nhân thân của cá nhân theo pháp luật dân sự được chia làm
02 nhóm đó là quyền nhân thân không gắn với tài sản như quyền đối với họ tên,
hình ảnh; quyền được pháp luật bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, danh dự
nhân phẩm, quyền tự do kết hôn, ly hôn...quyền nhân thân gắn với tài sản là những
giá trị nhân thân khi được xác lập sẽ làm phát sinh các quyền tài sản, quyền nhân
thân trong trường hợp này là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có các sự
kiện pháp lý nhất định như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao
công nghệ...Thứ hai: theo pháp luật dân sự thìcá nhân có quyền sở hữu, quyền
được hưởng thừa kế hoặc để lại di sản cho người thừa kế và các quyền khác đối
với tài sản như quyền yêu cầu cá nhân hoặc tổ chức phải bồi thường thiệt hại cho
mình do cá nhân, tổ chức đó gây ra. Quyền sở hữu là một trong những quyền đặc
biệt quan trọng của cá nhân, bởi thông qua quyền sở hữu, cá nhân có thể thoả mãn
nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của mình. Tài sản mà cá nhân có thể sở hữu theo
pháp luật dân sự bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản
xuất, tư liệu sinh hoạt... và các tài sản hợp pháp khác mà không bị hạn chế về số
lượng, giá trị.Thứ ba: Một quyền dân sự vô cùng quan trọng nữa của cá nhân
làquyền tham gia vào các quan hệ dân sự và có các quyền dân sự phát sinh từ quan
hệ đó, tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự là biện
pháp quan trọng và thông dụng nhất làm phát sinh các quyền dân sự của cá
nhân.Trên đây là sự tìm hiểu về quyền của cá nhân nói chung theo pháp luật dân
sự, như chúng ta vẫn biết, quyền của cá nhân nói chung có nội hàm rộng và nó có
bộ phận hợp thành trongđó là quyền dân sự của người chưa thành niên, mọi quyền
dân sự của người chưa thành niên đều có thể coi là quyền dân sự của cá nhân nói
chung, tuy nhiên không phải mọi quyền dân sự của cá nhân đều có thể được coi là
quyền dân sự của người chưa thành niên.Người chưa thành niên với tư cách là một
nhóm đối tượng đặc biệt trong xã hội vàlà chủ thể đặc biệt trong cácquan hệ pháp
luật dân sự, xuất phát từ bản chất của họ là chưa thể có đầy đủ năng lực hành vi
như người đã thành niên, và do vậy họ được pháp luật dân sự ghi nhận và trao cho
những đặc quyền mà những cá nhân khi đã có sự trưởng thành về thể chất và trí
tuệ, khi đạt đến một độ tuổi nhất định đánh dấu sự trưởng thành đầy đủ về mặt tâm
sinh lý không thể có được. Về cơ bản, các quyền dân sự của ngườichưa thành niên
có thể được phân loại và chia thành các nhóm như sau: Nhóm thứ nhất:bao gồm
các quyền về nhân thân và các quyền về tài sản. Các quyền về nhân thân gồm có
quyền nhân thân gắn với tài sản như Quyền khai sinh, Quyền đối với họ tên và
Quyềnthay đổi họ tên, Quyền xác định dân tộc; Quyền của cá nhân đối với hình
ảnh; Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ; Quyền nhận bộ phận cơ
thể người; Quyền khai tử; Quyền xác định lại giới tính; Quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền bí mật đời tư; Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; Quyền tự do, nghiên cứu sáng tạo. Quyền nhân
thân gắn với tài sản gồm Quyền tác giả; Quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao
công nghệ...Các quyền về tài sản bao gồm: Quyềnsở hữu, Quyền được hưởng thừa
kế hoặc Quyền để lại di sản cho người thừa kế và các quyền khác đối với tài
sản.Nhóm thứ hai: như chúng ta đã biết, người chưa thành niên là một chủ thể đặc
biệt khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội, và tương ứng với nhữngnhóm quan hệ
mà họ đã tham gia đó, pháp luật dân sự cũng đã trao cho họ những quyền năng
tương ứng. Khi tìm hiểu và phân loại đối với các quyền dân sự của người chưa
thành niên, chúng ta cũng có thể dựa vào các mối quan hệ xã hội mà người chưa
thành niên tham gia để phân loại chúng theo các nhóm quan hệ đó như trong quan
hệ gia đình, trong quan hệ lao động -kinh doanh -thương mại.Trong mối quan hệ
gia đình -đây là môi trường đặc biệt và về nguyên tắc, gia đình không thể tách biệt
cuộc sống của người chưa thành niên. Đây là môi trường đầutiên và vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển và hình thành nhân cách của người chưa thành niên,
xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình cũng như sự ảnh hưởng của các mối
quan hệ trong gia đình đối với sự phát triển của người chưa thành niên mà pháp
luật dân sự cũng đã có những quy định nhằm ghi nhận và trao cho người chưa
thành niên những quyền dân sự đặc biệt như: Quyền được hưởng sự quan tâm,
chăm sóc và giáo dục giữa các thành viên trong gia đình; Quyền được có người
giám hộ trong trường hợp đặc biệt; Quyền không bị phân biệt và đối xử giữa các
anh chị em trong gia đình; Quyền được hưởng nghĩa vụ cấp dưỡng từ những người
thân trong gia đình; Quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khi bố mẹ ly hôn;
Quyền được trông nom, chăm sóc, giáo dục sau khi bố mẹ ly hôn; Quyền được bố
hoặc mẹ, người không trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn thăm nom; Quyền được
bố mẹ hoặc người giám hộ bồi thường thiệt hại do mình gây ra; Quyền nhận cha,
mẹ; Quyền được nhận làm con nuôi... Trong mối quan hệ lao động -kinh doanh
-thương mại: đối với mỗi một cá nhân thì lao động không những là một nghĩa vụ tự
nhiên mà nó còn được coi là một quyền dân sự của mọi cá nhân trong đó người
chưa thành niên cũng được xác định là một chủ thể đặcbiệt trong quan hệ lao động,
về mặt lý luận thì quyền dân sự này có một ý nghĩa rất tích cực, nó giúp cho những
đối tượng là người chưa thành niên hiểu hơn về giá trị của lao động, về trách
nhiệm của mình trong cuộc sống tương lai. Pháp luật dân sự ghi nhận người chưa
thành niên có quyền lao động; tuy nhiên, xuất phát từ năng lực hành vi của họ còn
chưa đầy đủ, sức khoẻ và trí tuệ của họ chưa có sự phát triển như người đã thành
niên mà pháp luật cũng có những quy định cụ thể và chi tiết về các quyền của
họtrong mối quan hệ này để người chưa thành niên thực hiện quyền lao động của
mình một cách phù hợp với bản thân như quyền làm việc trong một giới hạn nhất
định về thời gian; Quyền được làm những công việc phù hợp với sức khoẻ; Quyền
được kiểm tra sức khoẻ định kỳ trong quá trình lao động...Pháp luật dân sự ngoài
việc ghi nhận các quyền cụ thể cho nhóm đối tượng là người chưa thành niên, cũng
đã có những chế định pháp lý đặc biệt nhằm bảo vệ, bảo đảm cho các quyền dân sự
ấy của người chưa thành niên được thực thi một cách nghiêm chỉnh trong cuộc
sống như chế định về giám hộ, về bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra...chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích vấn đề này kỹ hơn ở những phần sau.
1.2. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dựng và giữ nước đã tạo cho riêng
mình một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều truyền thống tốt
đẹp rất đáng tự hào. Trong mỗi gia đình Việt Nam đều có truyền thống kính trên
nhường dưới, vợ chồng anh em con cái hoà thuận, cha mẹ không chỉ sinh ra con
cái mà còn trực tiếp quan tâm, chăm sóc giáo dục con cái thành người; trải qua bao
thế hệ, đã hun đúc cho con người Việt Nam một tinh thần nhân ái, vị tha được biểu
hiện một phần qua sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc đối với các em nhỏ, sự quan
tâm của cả xã hội đối với lớp người nhỏ tuổi này luôn xuất hiện trong xã hội Việt
Nam, ở cả trong cuộc sống hàng ngày của người dân cũng như trong các quy định
của nhà nước vớiviệc ghi nhận thành văn bản và được nâng lên thành pháp luật; và
thậm chí, từ ngay trong xã hội Việt Nam từ thời phong kiến xa xưa.Vào khoảng
năm 1042, dưới thời vua Lý Thái Tông, theo sách Đại Việtsử ký toàn thư viết: Ban
sách Hình thư. Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc
hình câu lệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm
thương xót, sai trung thư sửa định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời
bấy giờ, làm sách hình luật của một triều đại, để cho người xem dễ hiểuSách làm
xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử hình thản nhiên rõ
ràng, cho nên có lệnh đổi niên hiệu làm Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo.Tháng
11, xuống chiếu rằng những người từ 70 tuổi trở lên, 80 trở xuống, từ 10 tuổi trở
lên, 15 tuổi trở xuống, và những người ốm yếu, cho đến các thân thuộc nhà vua từ
để tang 9 tháng, 1 năm trở lên, có phạm tội thìcho chuộc, phạm tội thập ác thì
không dự[14]. Theo Phan Huy Chú, bộ Hình thư có ba quyển và đây là bộ luật
thành văn đầu tiên của nước ta. Ngày nay, chúng ta không thể biết được trong bộ
luật này có những quy định nào liên quan đến trẻ nhỏ (vì đã bị thất truyền) tuy
nhiên cũng vào thời điểm này, ngoài việc ban hành bộ luật, các vua nhà Lý còn ban
hành nhiều đạo chiếu, lệnh trong đó có một số quan trọng đã được sử sách ghi lại
mà cụ thể là chiếu tháng 11 năm 1042 như sách Đại Việtsử ký toàn thư đã dẫn. Đây
là một minh chứng cho sự quan tâm tới trẻ nhỏ của xã hội phong kiến từ thời Lý,
mặc dù luật phápthời kỳ này có tính hà khắc với nhiều hình phạt hết sức dã man
nhưng đối với đối tượng còn ít tuổi thì lại được phép chuộc bằng tiền để tránh việc
phải chịu hình phạt về thân thể.Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng
Đức là bộ luật thành văn cổ xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay;
cũng như các bộ luật phong kiến khác, Bộ luật Hồng Đức cũng có bản chất giai cấp
và bản chất này được thể hiện rất rõ, với nhiệm vụ là bảo vệ địa vị thống trị, quyền
lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự đẳng cấp xã hội với những quy định hà
khắc. Tuy nhiên, Bộ luật Hồng Đức xét ở khía cạnh khác lại được đánh giá là một
thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam với nhiều quy định
pháp lý tiến bộ mang đậm tính nhân văn. Bộ luật Hồng Đức không chỉ là đỉnh cao
so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó mà còn đối với cả bộ
luật được biên soạn vào đầu thế kỷ XIX là Hoàng Việt Luật Lệ do Gia Long ban
hành năm 1812. Một trong những điều đóng góp vào giá trị của Bộ luật Hồng Đức
là ở một mức độ nhất định, nó đã thể hiện sự quan tâm, ưu ái nhất định đối với
nhóm đối tượng là trẻ em ở những độ tuổi khác nhau. Mặc dù pháp luật thời kỳ này
chưa có quy định rõ ràng về độ tuổi, thế nào là trẻ em hay người chưa thành niên
hoặcngười đến độ tuổi trưởng thành, tuy nhiên tinh thần và ý thức bảo vệ nhóm đối
tượng này đã được thể hiện trong bộ luật vớinhững quy định cụ thể tương ứng với
từng độ tuổi nhất định.Tại chương Danh Lệ, Điều 16 quy định:...Những người từ
70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm tội từ lưu trở
xuống đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo luật này. Từ 80
tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống cùng những người bị ác tật, phạm tội phản nghịch,
giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để vua định xét, ăn trộm và đánh
người bị thương thì cho chuộc còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ 90 tuổi trở lên và
7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm
thì bắt tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộmcó tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật phải
bồi thường...[4]. Với quy định trên, các nhà làm luật thời kỳ này đã dành sự ưu ái
nhất định đối với đối tượng phạm tội là người dưới 15 tuổi bằng cách cho chuộc
bằng tiền với điều kiện là phạm từ tội lưu trở xuống; đặc biệt để bảo đảm cho một
môi trường phát triển lành mạnh của nhóm đối tượng này, pháp luật cũng trừng trị
rất nghiêm khắc với những kẻ lợi dụng người còn ít tuổi để xui xiểm hoặc những
đối tượng chứa chấp tang vật. Tại quyển III chương Điền Sản Điều 4 quy định:Khi
chồng chết, con còn nhỏ mẹ đi cải giá mà lại đem bán điền sản của con thì xử phạt
năm mươi roi, trả tiền lại người mua, trả ruộng cho con. Nếu có lý do đã trình bày
với họ hàng bằng lòng cho bán cũng phải trình quan để xem xét cần tiêu hết bao
nhiêu thì chỉ cho bán bấy nhiêu thôi. Nếu người chồng sau mạo tên con
người chồng trước mà bán thì người chồng sau, người viết thay văn tự và người
chứng kiến xử phạt sáu mươi trượng, người biết sự việc mà cứ mua thì xử phạt tám
mươi trượng vàmất số tiền mua, ruộng phải trả lại cho con. Vợ sau mà bán điền sản
của con vợ trước thì cùng xử tội như thế[4]. Với quy định này, ý thức bảo vệ đối
tượng là "con còn nhỏ" cũng được pháp luật quy định một cách chi tiết và cụ thể
trong trường hợp người con còn nhỏ không còn nơi nương tựa (bố mất, mẹ đi lấy
chồng) nhằm đảm bảo cho đối tượng này sẽ có những điều kiện vật chất nhất định
đảm bảo cuộc sống cho đến khi trưởng thành.Nhằmbảo vệ danh dự, sức khoẻ cũng
như sự phát triển bình thường về sinh lý của nhóm đối tượng đặc biệt là các em bé
gái, tại chương Thông Gian, Điều 4 đã có quy định thật sự tiến bộ: "Gian dâm với
con gái nhỏ từ 12 tuổi trởxuống, dù người con gái thuận tình, cũng xử tội như hiếp
dâm...". Tại quyển V, chương Tạp Luật, Điều52 quy định: "Bắt được trẻ con lạc
đường thì phải báo quan làm bằng chứng, có người đến nhận thì được lấy tiền cấp
dưỡng..."...Như vậy, với nhiều quy định khác nhau, dù trực tiếp hay gián tiếp các
nhà làm luật thời kỳ này đã tạo cho Quốc triều Hình luật một giá trị nhất định, tính
nhân văn sâu sắc khi đã hướng tới việc bảo vệ, chăm sóc tới trẻ em -nhóm đối
tượng đặc biệt của mọi xã hộiMặcdùkhông được đánh giá cao như Quốc Triều
Hình Luật nhưngHoàng Việt Luật lệcũng được đánh giá là bộ luật có quy môlớn,
có phạm vi điều chỉnh bao quát nhiều lĩnh vực, góp phần điều chỉnh nhiều loại
quan hệ xã hội phong phú, đa dạng và phức tạp của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX.
Hoàng Việt Luật lệ hay còn được gọi là Luật Gia Long không có nhiều quy định
dành cho đối tượng là người nhỏ tuổi tuy nhiên nó cũng đã dành sự quan tâm nhất
định đối với nhóm đối tượng này như quy định về việc không được dùng biện pháp
tra tấn về mặt thân thể đối với những người dưới 15 tuổi khi nghi ngờ họ phạm tội;
tại quyển 19 Điều 10 viết về việc không được tra tấn người già, trẻ em có quy định:
"Phàm người bát nghị (được ưu tiên vì lễ) và trên 80 tuổi (xót thương người già),
15 tuổi trở xuống (vì lòng yêu mến trẻ) phạm tội thì quan ti không được dùng hình
phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào các bằng cớ mà định tội...và 80 tuổi trở lên, 10 tuổi
trở xuống đều không được bắt họ làm chứng" [3], đối với việc nuôi con nuôi, pháp
luật thời này cũng đã có những quy định nhằm bảo vệ phần nào quyền lợi của
người con nuôi Điều lệ của Điều 76 ghi rõ: "Phàm con nuôi khác họ có ý muốn trở
về tông họ của nó, con nuôi trẻ nhỏ dưới 3 tuổi (như con nhặt được) nhưng y luật
theo họ nó thì vẫn châm trước chia cấp tài sản đầy đủ, không ép buộc nó về họnó,
nếu có ý đồ lấy tài sản (của nó) để đưa trẻ ấy về họ nó thì chiếu luật trị tội" [3].
Việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam trong thời kỳ phong kiến đã
cho chúng ta thấy mặc dù mang nặng tính gia trưởng cùng những hình phạt vô
cùng hà khắc, pháp luật thời kỳ này về cơ bản chỉ là công cụ nhằm phục vụ quyền
lợicho một bộ phận nhỏ là thế lực phong kiến. Tuy vậy, đối với đối tượng là những
người nhỏ tuổi, pháp luật thời kỳ này cũng đã dành cho họ những sự quan tâm nhất
định, điều này cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng
của một lớp ngườitrong xã hội là người nhỏ tuổi mà ngày nay chúng ta gọi họ là
người chưa thành niên.Việc ghi nhận và bảo vệ quyền của người chưa thành
niêntrong pháp luật dân sự Việt Namthời thuộc Pháp:Gần một thế kỷ, Đông Dương
trong đó có Việt Nam là thuộc địa của Pháp, chính quyền và pháp luật ở Việt Nam
về bản chất là công cụ chính trị chủ yếu mà thông qua đó, đế quốc Pháp duy trì chế
độ thuộc địa nửa phong kiến, bảo vệ quyền lợi của chính quốc và tập đoàn phong
kiến bản xứ. Về pháp luật, với việc ban hành các bộ luật về dân sự, hình sự, tố tụng
dân sự, tố tụng hình sự, các nhà làm luật bắt đầu phân chia luật pháp thành các
ngành luật, trong các bộ luật đã thể hiện một số yếu tố tiến bộ của luật pháp
phương tây. Tuy nhiên, chính quyền triều Nguyễn và luật pháp Việt Nam vẫn nằm
trong phạm trù Nhà nước và pháp luật phong kiến. Chúng ta có thể điểm qua một
số các bộ luật được ban hành trong thời gian này như: Bộ luật Dân sự, thương sự tố
tụng Bắc Kỳ được ban hành ngày 02/12/1921; Bộ dân luật Bắc kỳ được ban hành
ngày30/3/1931; Bộ luật Dân sự, thương sự tố tụng Trung kỳ được ban hành năm
1935; Bộ luật Dân sự Trung kỳ được ban hành năm 1936...Đáng tiêu biểu hơn cả
trong giai đoạn này là Bộ dân luật Bắc kỳ ban hành năm 1931 và chính thức được
thi hành từ ngày 01/7/1931. Được kế thừa nhiều quan điểm của Bộ luật Hồng Đức
và Bộ luật Gia Long, tiếp thu không ít về kỹ thuật làm luật của một số nước
phương Tây, đồng thời Bộ dân luật Bắc kỳ ở mức độ nhất định đã hấp thụ những
phong tục tập quán của người Việt Nam do đó nó cónhững nét đặc sắc nhất định và
có thể nói: Bộ dân luật Bắc kỳ là bộ luật tiêu biểu của pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng trong thời thuộc Pháp.Một trong
những nét tạo nên sự tiến bộ của Bộ dân luật Bắc kỳ là ở chỗ nó đã xác định rõ
ràng người bao nhiêu tuổi thì được coi là người vị thành niên. Điều 221 của bộ luật
này quy định: " Vị thành niên là con trai, con gái chưa đủ 21 tuổi" [12]; về quyền
được chăm sóc, giáo dục Bộ dân luật quy định cũng khá cụ thể tại Điều 217: Cha
mẹ phải bảo dưỡng, giáo huấn con vị thành niên cùng là chủ trương giáo dục, trông
coi hạnh kiểm và khuyên bảo cho biết điều hay lẽ phải.Cha mẹ lại phải tuỳ lực
mình và tuỳ tư chất của đứa con dạy học cho nó hay cho nó đi học[12]. Một điều
đáng chú ý trong việc áp dụng, thực hiện, thực thi các quyền dân sự của cá nhân
công dân mà trong đó bao gồm cả đối tượng là người chưa thành niêntrong giai
đoạn này là đã bắt đầu được bảo đảm bởi hoạt động của toà án, Đây là lần đầu tiên
ở Việt Nam xuất hiện toà ándo ảnh hưởng của nền tư pháp chính quốc, mặc dù hệ
thống toà án ở giai đoạn này được tổ chức phức tạp và thẩm quyền xét xử cũng khá
rích rắc giữa các loại hình toà án. Để đảm bảo có một môi trường vật chất nhất
định phục vụ cho cuộc sống của trẻ nhỏ khi người cha của chúng không có sự quan
tâm, chăm sóc con cái; pháp luật đã bảo vệ quyền được chăm sóc của trẻ nhỏ một
cách gián tiếp khi quy định cho quan toà có một quyền năng đặc biệt là: Khi nào
người chồng bỏ không lo liệu sự nuôi nấng vợ con, hay là tiêu tán các của chung,
thì người vợ có thể xin quan chánh án đệ nhị cấp làm mệnh lệnh truyền cấm người
chồng từ đấy về sau không được sử dụng kỷ phần của người vợ, cùng những tài
sản dùng về nghề nghiệp riêng của người vợ, và một phần hay tất cả các sản vật
của tay người vợ làm ra, lại truyền cho phép người vợ được đứng quản lý, hưởng
thụ và nếu có cần thì được sử dụng tài sản ấy... [12, Điều 110]. Mặc dù về cơ bản
pháp luật dân sự trong giai đoạn này vẫn mang bản chất phong kiến rõ nét khi có
nhiều những quy định mang tính đặc quyền, gia trưởng trọng nam khinh nữ; tuy
nhiên, có những trường hợp điều này đã được hạn chế, cụ thể là khi giải quyết việc
ly hôn và trong mối quan hệ đem so với lợi ích của những đứa trẻ; Điều 146 quy
định: "Sự trông coi con cái thì giao cho người cha, trừ khi nào vì sự lợi ích cho
những đứa trẻ ấy mà Toà án ra lệnh giao tất cả chúng nó hoặc một vài đứa cho
người mẹ, hoặc cho người đệ tam đứng trông coi thì không kể. Khi nào những đứa
trẻ ấy đã tới mười lăm tuổi, nếu không có cớ gì ngăn trở, thì tuỳ ý chúng nó muốn
ở với cha hay ở với mẹ, sẽ giao cho người ấy trông coi[12] Một điều tiến bộ nữa
của Bộ Dân luật Bắc Kỳ khi quy định về vấn đề con nuôi: " Người đứng nuôi phải
trông nom cấp dưỡng cho con nuôi. Con nuôi đã thuộc về nhà mình thì phải đối đãi
như con đẻ" (Điều 193). Đây có thể coi là lần đầu tiên trong pháp luật dân sự Việt
Nam, người con nuôi có tư cách và địa vị ngang hàng với con đẻ mà không có sự
phân biệt con chính thất hay thứ thất cũng những sự ràng buộc khác.Ngoài những
điều đã tìm hiểu và phân tích ở trên, chúng ta cũng thấy Bộ Dân luật Bắc Kỳ còn
có nhiều quy định khác nhằm hướng tới việc ghi nhận và bảo vệ các quyền dân sự
của người chưa thành niênthông qua các quy định về việc giám hộ hay về lệ thoát
quyền;... và những điều này chứng tỏ rằng lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật dân
sự Việt Nam, việc ghi nhận và bảo vệ các quyền dân sự của người chưa thành
niênđược quy định một cách khá phong phúGiai đoạn từ 1945 đến nay Ngày
02/9/1945, tại quảng trường Ba Đìnhlịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minhđã thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, mở ra lịch sử chính thể cộng hoà nhân dân ở nước ta. Chỉ một tháng sau
khi giành được chính quyền. Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh ngày 20/9/1945
thành lập ban dự thảo hiến pháp. Ngày 02/3/1946, Quốc hội tại kỳ họp thứ
nhất chính thức thông qua Uỷ ban dự thảo hiến pháp, ngày 09/11/1946 Quốc hội
thông qua bản hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam. Bản
hiến pháp này đã giành hai điều quy định một cách ngắn gọn nhưng xúc tích hàm
chứa một thái độ, sự quan tâm đầy trách nhiệm của chính quyền mới đối với trẻ
nhỏ, Điều 14 Hiến pháp năm 1946 quy định "... trẻ con được săn sóc về mặt giáo
dưỡng"; ngoài quyền được săn sóc về mặt giáo dưỡng, Chính phủ mới đã thực sự
chú ý đến việc giáo dục thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước khi quy
định tại Điều 15: "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí, ở các trường sơ
họcđịa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình.Học trò
nghèo được chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương
trình nhà nước[24].Chính sách đối với người chưa thành niênhay còn gọi là nhi
đồng, thiếu nhi thể hiện thái độ của cuộc cách mạng nhân dân và được xác định rất
rõ; trong Chương trình Việt Minh với tính cách là một cương lĩnh vận động cách
mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng cộng sản lãnh đạo đã được
đưa ra trong những ngày đầu tiên khởi nghĩa đã xác định học sinh, nhi đồng như là
hai trong mười tầng lớp nhân dân -lực lượng cách mạng; đối với học sinh, chính
sách của Việt Minh là: bỏ học phí mở thêm trường học, giúp đỡ học trò nghèo; đối
với nhi đồng thì chính sách là: được Chính phủ chăm sóc đặc biệt về thể dục và trí
dục.Dưới góc độ pháp luật dân sự, Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về sửa đổi một số luật lệ về dân sự cũ đã đánh
dấu một mốc quan trọng trong chính sách pháp luật dân sự, về sự thay đổi mang
tính tiến bộ vượt bậc trong việc ghi nhận và bảo vệ các quyền dân sự của người
chưa thành niêntrong chế độ mới. Khác với quy định của pháp luật dân sự dưới
thời thuộc Pháp, Sắc lệnh đã rút ngắn tuổi thành niên từ 21 tuổi xuống còn 18 tuổi
nhằm phù hợp với nhu cầu của đời sống mới và chủ trương giải phóng con người,
Điều 7 của sắc lệnh quy định: "người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ
18 tuổi..." [9], Sắc lệnh này cũng đã loại trừ tính gia trưởng, độc đoán của pháp
luật thời phong kiến bằng cách quy định việc cha, mẹ không có quyềnxin giam
cầm con cái (Điều 8); bên cạnh đó, một
- Xem thêm -