Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức.Thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, không phải lúc nào công tác thi hành án dân sự cũng được thực hiện một cách thuận lợi và nhận được sự hợp tác của các đương sự và những người có liên quan đến bản án. Trong nhiều trường hợp, khi cơ quan thi hành ándân sự thực hiện nhiệm vụ đã gặp phải nhiều khó khăn từ phía người phải thi hành án hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi có những vi phạm như vậy thì xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự là việc làm cần thiết
BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM
Đề tài: Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự.
Xây dựng tình huống để làm rõ nội dung trên
Danh sách nhóm
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................2
B. NỘI DUNG.................................................................................................3
I. Khái quát chung về xử phạt vi phạm hành chính trong THADS........3
1. Khái niệm...............................................................................................3
2.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong THADS...................4
II. Hành vi vi phạm hành chính trong THADS và hình thức xử phạt....5
1. Hành vi vi phạm hành chính trong THADS.......................................5
2. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong THADS.....................8
III. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS...............10
1. Thẩm quyển của Thanh tra Bộ Tư pháp..........................................10
2. Thẩm quyền của cơ quan THADS....................................................11
IV. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong THADS.......................11
C. Tình huống về xử phạt vi phạm hành chính trong THADS..............14
1. Tình huống - Xử phạt vi phạm hành chính đối với việc thi hành bản
án ly hôn...................................................................................................14
2. Phân tích và giải quyết tình huống....................................................15
D. KẾT LUẬN...............................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................17
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật Thi hành án dân sự: LTHADS
Thi hành án dân sự: THADS
2
A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó
cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi
hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức.Thi hành án dân sự
có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, không phải lúc nào
công tác thi hành án dân sự cũng được thực hiện một cách thuận lợi và nhận
được sự hợp tác của các đương sự và những người có liên quan đến bản án.
Trong nhiều trường hợp, khi cơ quan thi hành ándân sự thực hiện nhiệm vụ đã
gặp phải nhiều khó khăn từ phía người phải thi hành án hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Khi có những vi phạm như vậy thì xử phạt vi phạm hành
chính trong thi hành án dân sự là việc làm cần thiết. Đó là lí do vì sao nhóm
chúng em chọn đề tài: "Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong thi
hành án dân sự. Xây dựng tình huống để làm rõ nội dung trên" cho bài tập
của nhóm mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài là những quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự; trên cơ sở đó xây dựng, phân tích
và giải quyết những vấn đề liên quan đến tình huống.
3.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của bài là những quy định trong Luật Thi hành án
dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Bài tập nhóm được hoàn thành trên phương pháp tìm hiểu quy định của
pháp luật và nghiên cứu của những chuyên gia trong ngành, từ đó các thành viên
trong nhóm thảo luận, xây dựng tình huống và đưa ra quan điểm thống nhất để
phân tích và giải quyết tình huống.
3
Trong khuôn khổ của một bài tập nhóm và do kiến thức còn hạn chế, bài
làm của chúng em không thể tránh khỏi những sai sót nhất định, rất mong thầy
cô góp ý để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
4
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
1. Khái niệm
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm về THADS là hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện với
lỗi cố ý, vi phạm các quy định của pháp luật THADS và cản trở, gây trở ngại
cho hoạt động THADS.
Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính.
Như vậy, xử phạt vi phạm hành chính trong THADSlà việc người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
THADS theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Trong hoạt động THADS, xử phạt vi phạm hành chính là một trong
những chế định quan trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi
phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản
án, quyết định có hiệu lực của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức.
2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những nội dung cơ bản, quan
trọng chi phối mọi hoạt động trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính và
được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Qua thực tế thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính, các nguyên tắc
xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
5
chính 2002 đã khẳng định được sự cần thiết đúng đắn, do đó tiếp tục được quy
định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó cũng có
những nguyên tắc được bổ sung mới nhằm khắc phục những thiếu sót trong quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật trước đây. Việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS được tuân theo những
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra
phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức
độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng
nặng.
Thứ ba, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành
chính do pháp luật quy định. Nguyên tắc này cũng đưa ra 03 trường hợp cụ thể
sau: một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều người cùng
thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt
về hành vi vi phạm hành chính đó; một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm.
Thứ tư, bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền giải
trình của cá nhân, tổ chức.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng
biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng
việc áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.
Thứ sáu, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền
đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nguyên tắc này để
6
phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với tính chất
vi phạm.
II. Hành vi vi phạm hành chính trong THADS và hình thức xử phạt
1. Hành vi vi phạm hành chính trong THADS
Các hành vi vi phạm hành chính trong THADS rất đa dạng và được quy
định cụ thể tại Điều 162 LTHADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 như sau:
“1. Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực
hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.
2. Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Toà án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
3. Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công
việc không được làm theo bản án, quyết định.
4. Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi
hành án.
5. Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án
hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
6. Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao
giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính
đáng.
7. Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay
đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
8. Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời nói,
hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây
rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt
động THADS nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
9. Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
7
10. Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản,
trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.”
Theo đó,Thứ nhất: hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 162 “đã nhận
giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi
hành án mà không có lý do chính đáng" có thể được hiểu như sau:Người phải thi
hành án mặc dù đã nhận giấy báo, giấy triệu tập đến lần thứ hai của cơ quan có
thẩm quyền nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập để thực
hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. Lý do chính đángở đây có
thể là những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với người phải thi
hành án...
Ví dụ: Người phải thi hành án đang trên đường đến địa điểm ghi trong
giấy báo thì bị tai nạn giao thông, bị ốm không thể đi được (có giấy xác nhận
của cơ quan y tế có thẩm quyền) hoặc có đám hiếu, đám hỷ của người ruột
thịt trong gia đình...
Thứ hai: Khoản 2 Điều 162 LTHADS quy định: “Cố tình không thực hiện
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết
định phải thi hành ngay". Được hiểu là người phải thi hành án cố tình không
thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc
bản án như biện pháp niêm phong, cấm dịch chuyển tài sản, kê biên tài sản...;
hoặc người phải thi hành án không thực hiện quyết định phải thi hành ngay theo
quyết định thi hành án, đều được coi là những hành vi vi phạm hành chính trong
THADS.
Thứ ba: Người phải thi hành án không thực hiện công việc buộc phải làm như
phải tháo dỡ công trình trên đất người khác hoặc không chấm dứt thực hiện công
việc mà bản án, quyết định của Toà án tuyên không được chẳng hạn như trong
bản án, quyết định của Toà án tuyên một người phải dừng ngay việc khai thác,
sử dụng hay xây dựng công trình trên đất... nhưng người đó đã không thực hiện
(khoản 3 Điều 162).
Thứ tư:Trường hợp, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng
không thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà không có lý do chính đáng. Thực tiễn
8
công tác THADS cho thấy có nhiều vụ việc người phải thi hành án cố ý không
thi hành án và viện dẫn rất nhiều lý do khác nhau cho sự trì hoãn đó. Tuy nhiên,
khi chấp hành viên đi xác minh thì lại thấy rằng người đó có đủ điều kiện thi
hành và những lý do người đó đưa ra là hoàn toàn không chính đáng. Trong
những trường hợp đó, cần thiết phải áp dụng xử phạt để đảm bảo sự tôn nghiêm
của pháp luật (khoản 4 Điều 162 LTHADS).
Khoản 5 Điều 162 quy địnhhành vi “tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không
thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.”
Tẩu tán tài sản là hành vi trốn tránh nghĩa vụ về tài sản. Tài sản thuộc đối tượng
đang tranh chấp mà được mang đi cầm cố, thể chấp, mua bán, tặng cho thì được
coi là tẩu tán tài sản. Tẩu tán và làm hư hỏng tài sản đều là hành vi nhằm cản trở
việc thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
Khoản 6 Điều 162 quy định “không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về
việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành
án mà không có lý do chính đáng.”Người phải thi hành án không thực hiện yêu
cầu của Chấp hành viên về việc giao các giấy tờ liên quan đến tài sản xử lý để
thi hành án mà không có lý do chính đáng như giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy đăng ký xe và các giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án.
Thứ năm : Các hành vi quy định tại khoản 7,8, 9 của Điều 162 LTHADSvề sử
dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình
trạng tài sản đã kê biên, chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối,
cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong
thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở
ngại cho hoạt động THADS, phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê
biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đều là những hành vi
vi phạm hành chính trong THADS. Vì tính chất và mức độ chưa đủ để bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, do đó với các hành vi trên bị xử phạt hành chính theo
LTHADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014.
Thứ 6 : Khoản10 Điều 162 LTHADS quy định hành vi “không chấp hành
quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu
9
hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.”Được hiểu là Chấp hành viên ra
quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Số tiền khấu
trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế. Ngay sau
khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi
hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải khấu trừ tiền để chuyển
vào tài khoản của cơ quan THADS hoặc chuyển cho người được thi hành án
theo quyết định khấu trừ.
Thu nhập của người phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền lương
hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Khấu trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án là một trong bốn biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ trả tiền được quy định tại khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật THADS
yêu cầu cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, bảo hểm xã hội nơi người
phải thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức
lao động và các thu nhập hợp pháp khác chuyển cho cơ quan thi hành án hoặc
người được thi hành án một phần hay toàn bộ thu nhập của người phải thi hành
án để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của các cơ quan có thẩm
quyền.
Trường hợp phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết
định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án.Người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án phải chuyển giao
giấy tờ đó cho cơ quan THADStheo quy định của pháp luật.
Do đó, nếu như người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân không
chấp hành quyết định của chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu
nhập, thu hồi giấy tờ có giá thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp
luật.
Các trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Các hành vi vi
phạm trong tình thế cấp thiết, do phòng vệ chính đáng, do sự kiện bất ngờ, do sự
kiện bất khả kháng hoặc đối tượng thực hiện hành vi vi phạm không có năng lực
trách nhiệm hành chính hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính.
10
2. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động THADS không áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung mà chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính, gồm hình
thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP chỉ quy định có 3 mức phạt tiền, mức thấp
nhất là từ 50.000đ đến 200.000 đồng, từ 200.000đ đến 500.000đ và từ
2.000.000đ đến 5.000.000đ. Những quy định này đã không còn phù hợp và
không có tính răn đe trong tình hình hiện nay. Khắc phục hạn chế trên, Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP đã tách các hành vi vi phạm hành chính trước đây
thành các hành vi riêng biệt và áp dụng 07 mức xử phạt theo các khung sau:
+ Khung 1: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng;
+ Khung 2: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng;
+ Khung 3: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng;
+ Khung 4: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng;
+ Khung 5: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;
+ Khung 6: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng;
+ Khung 7: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng
Căn cứ vào tính chất nguy hiểm, phức tạp của các hành vi vi phạm, Nghị định số
110/2013/NĐ-CP quy định mức xử phạt tương ứng với các hành vi như sau:
Thứ nhất, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000
đồng đối với hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có
thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu
tập mà không có lý do chính đáng.
Thứ hai, phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành
vi không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để
thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý
do chính đáng.
Thứ ba, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một
trong 04 hành vi: không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực
11
hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định; trì hoãn thực hiện nghĩa
vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện thi hành án; không thực hiện đúng
cam kết đã thỏa thuận theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân
dân; cung cấp chứng cứ giả cho cơ quan THADS.
Thứ tư, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một
trong 03 hành vi: làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án
hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; phá hủy niêm phong tài sản đã kê
biên; không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc
trừ vào thu nhập.
Thứ năm, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi: tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc
để trốn tránh việc kê biên tài sản; sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng,
đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; hủy hoại tài sản đã
kê biên; không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về
việc thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; cố ý không
thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân
dân hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
Thứ sáu, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi: không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi
hành án về việc khấu trừ tài khoản, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi
hành án; không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về
việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; về việc thu
tiền của người phải thi hành án đang giữ.
Thứ bảy, phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành
vi không thực hiện việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án theo
quyết định của người có thẩm quyền thi hành án.
III. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS theo quy định của
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP gồm 02 loại cơ quan, là cơ quan Thanh tra (Điều
12
46 Luật Xử lý vi phạm hành chính) và cơ quan THADS (Điều 49 Luật Xử lý vi
phạm hành chính), các thẩm quyền này được cụ thể hóa tại Nghị định số
110/2013/NĐ-CP như sau:
1. Thẩm quyển của Thanh tra Bộ Tư pháp
Điều 67 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính của thanh tra viên Bộ Tư pháp đang thi hành công vụ và của
Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, ngày 29/5/2014,
Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của thanh
tra ngành Tư pháp, có hiệu lực thi hành ngày 20/7/2014. Theo quy định của
Nghị định này thì chỉ hoạt động thanh tra hành chính, không có hoạt động thanh
tra chuyên ngành trong lĩnh vực THADS. Như vậy, trên thực tế, về thẩm quyền
xử phạt của cơ quan thanh tra chỉ còn lại thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp.
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 67 Nghị định số 110/2013/NĐCP, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có quyền: phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến
40.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS và
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các chương V của Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP. Với thẩm quyền về mức phạt tiền như trên, Chánh
Thanh tra Bộ Tư pháp có quyền xử phạt đối với tất cả các hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực THADS được quy định tại Điều 52 của Nghị định số
110/2013/NĐ-CP và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do các hành vi:
- Làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn
tránh việc kê biên tài sản.
- Tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc
kê biên tài sản;
- Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi
tình trạng tài sản đã kê biên.
13
2. Thẩm quyền của cơ quan THADS
Trong hoạt động THADS thì cơ quan THADS là cơ quan thường xuyên
và trực tiếp phải xử lý những vi phạm hành chính của người phải thi hành án và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Thẩm quyền này được quy
định tại Điều 163 LTHADS và Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, Chấp hành viên THADS đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 500.000 đồng.
Thứ hai, Chi cục trưởng Chi cục THADS có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã
bị thay đổi.
Thứ ba, Cục trưởng Cục THADS, Trưởng phòng Phòng Thi hành án cấp
quân khu có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 20.000.000 đồng;
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã
bị thay đổi.
Thứ tư, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 40.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã
bị thay đổi.
IV. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì công tác xử phạt vi phạm hành
chính cũng phải tuân theo các thủ tục do luật định. Thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính không chỉ đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước tiến hành hợp lý mà
14
còn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tập thể và Nhà nước. Theo
quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động THADS có thể được tiến hành theo các bước sau:
Thứ nhất, buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính.Buộc chấm dứt
hành vi vi phạm hành chính được người có thẩm quyền đang thi hành công vụ
áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính đang diễn ra nhằm chấm dứt ngay
hành vi vi phạm. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính được thực hiện
bằng lời nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, tiến hành xử phạt.Bao gồm thủ tục xử phạt đơn giản và thủ tục
xử phạt có lập biên bản.
Thủ tục xử phạt đơn giản: Theo thủ tục này thì khi phát hiện hành vi vi
phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt ngay. Xử
phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng
đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính tại chỗ. Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ
sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ phải ghi rõ ngày, tháng, năm
ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức
vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và tình tiết liên
quan đến việc giải quyết vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định xử
phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng. Trường hợp phạt tiền thì
trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt.
Đối chiếu với Điều 52 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, thì việc xử phạt
hành chính không lập biên bản chỉ có thể là phạt cảnh cáo vì mức phạt tiền đối
với các hành vi đều từ 500.000 trở lên.
Thủ tục xử phạt có lập biên bản: Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên
bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính không thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không
15
lập biên bản. Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người
có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao
gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu,
giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục. Hồ sơ phải được lưu trữ theo quy
định của pháp luật về lưu trữ.
Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có
thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản. Theo quy định tại
điểm a và điểm đ khoản 2 Điều 65 Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì người có
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS gồm 02
nhóm:
Nhóm 1: Những người có thẩm quyền xử phạt bao gồm: Thanh tra viên
Thanh tra Bộ Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, Chánh
Thanh tra Bộ tư pháp; CHV, Chi cục trưởng, Cục trưởng và Tổng cục trưởng;
Nhóm 2: Công chức, viên chức đang thi hành nhiệm vụ, công vụ,
gồm: Thẩm tra viên, thư ký, chuyên viên cơ quan THADS lập biên bản vi phạm
hành chính đối với các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của cơ quan
THADS.
Thứ ba, xác minh trong trường hợp cần thiết.
Khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần
thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh có hay không có vi
phạm hành chính xảy ra trên thực tế; chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, lỗi,
nhân thân của cá nhân vi phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; tính chất, mức
độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với
việc xem xét, quyết định xử phạt.
Người có thẩm quyền xử phạt cũng có thể trưng cầu giám định và việc giám
định phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về giám định. Quá trình
xác minh phải được thể hiện bằng văn bản để bảo đảm tính khách quan, tính
chính xác của các tình tiết của vụ việc vi phạm
Thứ tư, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
16
Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định như
sau: Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc
trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình thì thời
hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp
vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp
giải trình mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có
thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình
bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn
không được quá 30 ngày.
Người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng vẫn có quyền
quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, quyết định tịch thu sung vào
ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm
lưu hành.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nếu có lỗi trong việc để quá
thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của pháp
luật.
Việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính cần chú ý các quy định sau:
Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính mà bị xử phạt trong cùng một lần thì chỉ ra 01 quyết định xử phạt, trong
đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính.
Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm
hành chính thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình
thức, mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức.
Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết
định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm
của từng cá nhân, tổ chức.
17
C. Tình huống về xử phạt vi phạm hành chính trong THADS
1. Tình huống - Xử phạt vi phạm hành chính đối với việc thi hành bản án ly
hôn
Anh Nguyễn Văn A và chị Lê Thị B là vợ chồng hợp pháp, sau 3 năm
chung sống do mâu thuẫn vợ chồng hai người đi đến quyết định ly hôn.
Ngày 24/3/ 2015 sau khi Tòa án xét xử xong, chia tài sản cho 2 vợ chồng bao
gồm: nhà, đất và ruộng.
Anh A và chị B phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với số tài sản
được nhận.Sau khi cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án chủ động về
việc thi hành khoản án phí trên. Sau khi nhận được quyết định và hết thời gian
tự nguyện thi hành án theo quy định của luật nhưng anh A vẫn không tự nguyện
thi hành.Cơ quan thi hành án làm giấy triệu tập yêu cầu lên cơ quan nộp tiền. Do
lần thứ nhất gửi giấy triệu tập không thấy anh A lên nộp tiền án phí nên cơ quan
thi hành án đã gửi giấy triệu tập lần hai (không có lý do chính đáng).
Tuy nhiên sau khi nhận được giấy triệu tập lần hai từ cơ quan có thẩm
quyền nhưng anh A không lên theo như giấy báo và thái độ chống đối người thi
hành.
Cơ quan thi hành án theo quy định của pháp luật ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với anh Nguyễn Văn A.
2. Phân tích và giải quyết tình huống
Căn cứ vào các phân tích nêu trên, đối chiếu vào tình huống này ta thấy:
Anh A là người phải thi hành án, đã không tự nguyện thi hành án, không đến trụ
sở cơ quan thi hành án theo triệu tập (2 lần) và có thái độ chống đối người được
giao nhiệm vụ thi hành án; do đó có thể xác định rằng anh A phải chịu xử phạt
hành chính vì đã cố ý vi phạm các quy định của pháp luật THADS và cản trở,
gây trở ngại cho hoạt động THADS.
Căn cứ vào các quy định tại khoản 1và khoản 8 điều 162 LTHADS đã phân tích
ở mục II thì anh A đã vi phạm các quy định của pháp luật THADS như sau:
18
“1. Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực
hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.
8. Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời nói,
hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây
rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt
động THADS nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 điều 165 LTHADS và khoản 1 Điều 52
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, thì anh A có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đã nhận giấy báo, giấy
triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa
điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng. Thẩm
quyền xử phạt trong trường hợp này thuộc thẩm quyền của chấp hành viên
THADS đang thi hành công vụ hoặc Chi cục trưởng Chi cục THADS đã ra
quyết định thi hành án đối với anh A theo quy định tại Điều 68 Nghị định số
110/2013/NĐ-CP.
Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với anh H tuân theo các quy định tại
Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn, LTHADS và Nghị
định số 110/2013/NĐ-CPtheo trình tự thủ tục như sau:
- Anh A buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm hành chính được người có thẩm
quyền đang thi hành công vụ áp dụng (Điều 55 Luật xử lý vi phạm hành chính
2012).
- Người có thẩm quyền xử phạt đối với anh A lập biên bản xử phạt đối với hành
vi vi phạm.
- Người có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi của anh A phải ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập
biên bản vi phạm hành chính.
- Anh A phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp quyết định xử phạt vi
phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo
thời hạn đó. Anh A có thể khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt hành
19
chính áp dụng cho mình nhưng vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt đó.
Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi,
kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của anh A và thông báo kết quả thi
hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành
chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt, anh A phải
nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà
nước được ghi trong quyết định xử phạt. Nếu quá thời hạn nêu trên, thì sẽ bị
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp phạt thì anh A
phải nộp thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp.
20
- Xem thêm -