ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
QUY CHẾ PHY THỊ TRƯỜNG VÀ
ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
Lớp
: Luật Kinh doanh K09501
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Dương Anh Sơn
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................2
1. Một số nét khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trường và điều tra
chống bán phá giá ....................................................................................................3
1.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường ...........................................................3
1.1.1. Định nghĩa nền kinh tế phi thị trường ................................................3
1.1.2. Cách thức xác định một nền kinh tế phi thị trường ..........................6
1.2. Điều tra chống bán phá giá.......................................................................12
1.2.1. Khái niệm về bán phá giá ...................................................................12
1.2.2. Biện pháp chống bán phá giá và điều kiện áp dụng ........................13
1.2.3. Các bước điều tra chống bán phá giá................................................14
2. Thực tiễn điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu có
nguồn gốc từ Việt Nam ..........................................................................................25
2.1. Thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận quốc gia thay thế trong quy
chế áp dụng đối với nền kinh tế phi thị trường................................................28
2.2. Thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận như trường hợp của nền
kinh tế thị trường (market economy treatment – MET) ................................32
3. Các giải pháp đối phó với những vụ kiện chống bán phá giá của Việt Nam
hiện nay ...................................................................................................................49
1
LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại quốc tế không phải là một cuộc chơi công bằng như những gì
chúng ta nhìn thấy, ở đó, quyền lợi của những quốc gia giàu có, quyền lực, luôn
được đề cao và bảo vệ, và những quốc gia thuộc thế giới thứ ba, đang phát triển
chính là những đối tượng phải chấp nhận những quy luật có sẵn, dù không phải
bao giờ họ cũng được hưởng lợi ích từ quy tắc cuộc chơi mang lại. Do đó, không
có gì ngạc nhiên khi mặt hàng cá tra, cá ba sa của Việt Nam bị chính phủ Mỹ áp
thuế chống bán phá giá gần 10 năm trời, và hiện nay vẫn chưa có động thái khả
quan nào cho việc gỡ bỏ, dù cho Việt Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Điều này cho thấy rằng, chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ khi
gia nhập thương mại quốc tế. Có thể thấy để thoát khỏi tình trạng khó khăn cho
Việt Nam trước nền kinh tế hội nhập chỉ có một con đường là minh bạch hóa hoạt
động kinh doanh và áp dụng nền kinh tế thị trường. Trong đó, mối liên hệ giữa cớ
chế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá là vấn đề cần được xem xét để
tránh những hậu quả như vụ kiện cá da trơn, giày da, gạo, tôm…
Vậy thế nào là cơ chế thị trường, thế nào là là phi thị trường, tại sao phải áp
dụng cơ chế thị trường và tiến tới xóa bỏ cơ chế phi thị trường, điều tra bán phá
giá có liên quan gì đến quốc gia không được công nhận có nền kinh tế thị
trường…Thực tiễn cho thấy trong tất cả các vụ kiện bán phá giá mà ta đối mặt,
điểm yếu lớn nhất dẫn đến sự thua thiệt chính là cơ quan điều tra không tin tưởng
những số liệu mà các doanh nghiệp ta cung cấp, vì nước ta không được công nhận
có nền kinh tế thị trường. Ta có thống kê sơ bộ sau: tính đến tháng 3/2006 chúng
ta đã phải đối phó với 21 vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam
2
phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện Việt Nam nhiều nhất (8
vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxyde kẽm. Trong phạm
vi bài tiểu luận, chúng ta sẽ đi phân tích kỹ các ưu điểm của việc vận dụng quy
chế thị trường vào xuất khẩu, các biện pháp chống lại những cáo buộc phi lí mà
tòa án nước nhập khẩu gán cho các DN xuất khẩu, đặc biệt là việc suy ngẫm về
các bản án về bán phá giá mà Việt Nam là bị đơn. Bài học rút ra được từ những
kinh nghiệm quí báu này chính là hành trang không thể thiếu cho việc tiếp tục hội
nhập trong tương lai.
1. Một số nét khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trường và điều tra
chống bán phá giá
1.1.
Quy chế nền kinh tế phi thị trường
1.1.1. Định nghĩa nền kinh tế phi thị trường
Bắt nguồn từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang
Xô Viết năm 1935, khái niệm về Nền kinh tế phi thị trường đã bắt đầu xuất hiện.
Sau thế chiến thứ hai, xuất hiện thêm thuật ngữ “các quốc gia thương mại nhà
nước”, đây là tên gọi chung chon các quốc gia mà ở đó Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động ngoại thương, chủ yếu là ở các nước Đông Âu. Hiện
tượng nhà nước độc quyền tuyệt đối trong hoạt động giao dịch ngoại thương đã
làm cho các nhà kinh tế học cũng như chính trị gia chuyển sang nghiên cứu một
đặc tính mới của hệ thống kinh tế phi thị trường, có tên là hệ thống kế hoạch hóa
tập trung. Theo đó, đã xuất hiện thuật ngữ “nền kinh tế kế hoạch tập trung”, thuật
ngữ này đã thay thế “nền kinh tế nhà nước kinh doanh”. Trong Luật Hải quan Hoa
Kỳ năm 1973, thuật ngữ “quốc gia nền kinh tế tập trung” lần đầu tiên đã xuất
hiện. Cùng thời kỳ đó, thuật ngữ “Nhà nước Xã hội chủ nghĩa” đã được đề cập
trên thế giới. Với sự bắt đầu cải cách thị trường trong hầu hết các nền kinh tế kế
hoạch tập trung vào những năm 1980 và đầu 1990, hiện tượng này đã trở thành
phổ biến và được gọi là “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường”
(Transaction to a market economy). Tuy nhiên, cùng với sự xác định khái niệm
3
“các quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi” (transaction countries) thì thuật ngữ
nền kinh tế phi thị trường cũng được sử dụng lại.
Như vậy, Nền kinh tế phi thị trường được hình thành như một điều tất yếu
trong sự vận động và phát triển của kinh tế xã hội từ những năm đầu thế kỷ XX,
nhằm xác định ra các quốc gia có nền kinh tế chịu sự quản lý và can thiệp sâu của
Nhà nước. Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc (UNCTAD)1 đã đưa ra
khái niệm để xác định Nền kinh tế phi thị trường và Nền kinh tế thị trường như
sau2:
Một quốc gia được coi là có nền kinh tế thị trường khi nền kinh tế đó
phải dựa chủ yếu vào lực lượng thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu
dùng, đầu tư và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ.
Một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường khi đó là thị trường mà
Chính phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông
qua cơ chế quản lý tập trung, chẳng hạn như các nước Xã hội Chủ nghĩa trước
đây, trái ngược với nền kinh tế thị trường là phụ thuộc vào lực lượng thị trường để
phân bổ nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế phi thị trường, mục tiêu sản xuất,
giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên liệu thô, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết
các tổ hợp kinh tế khác được điều chỉnh bởi nền kinh tế kế hoạch được lập ra bởi
cơ quan kinh tế kế hoạch tập trung; do vậy, khu vực công đưa ra các quyết định
quan trọng ảnh hưởng đến cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc cũng đã sử dụng thuật ngữ
“các quốc gia thương mại nhà nước” và “nhóm D”3 để phân biệt một nền kinh tế
phi thị trường với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ngày nay ít có quốc gia nào
có hệ thống kế hoạch tập trung hoàn toàn, mà có một số đặc điểm để nó được định
hướng là một nền kinh tế chuyển đổi. Ngoài Cơ quan phát triển thương mại Liên
1
United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD.
2
Dựa trên thuật ngữ hải quan của UNCTAD về Nền kinh tế thị trường (market economy - ME),
Nền kinh tế phi thị trường ( non – market economy - NME).
3
Gồm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tham gia UNCTAD.
4
Hiệp Quốc, cũng có nhiều quốc gia đưa ra quy định để xác định một quốc gia có
nền kinh tế phi thị trường nhằm mục đích có biện pháp thích hợp để điều chỉnh
trong quan hệ ngoại thương với các quốc gia đối tác. Đơn cử như Hoa Kỳ, với sự
phát triển và sức mạnh của mình trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, Hoa Kỳ là
một quốc gia có thế lực và tầm ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngoại thương của
nhiều nước trên thế giới. Trong Luật Thương mại 1974 của Hoa Kỳ có điều khoản
điều chỉnh về thuế chống bán phá giá với các quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường, và sử dụng quốc gia thay thế (quốc gia có nền kinh tế thị trường và điều
kiện phát triển thương mại tương đương với quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
đang bị xem xét) để quyết định về việc ấn định thuế chống bán phá giá đối với
loại hàng hóa nhất định trong hoạt động giao thương của quốc gia có nền kinh tế
phi thị trường và Hoa Kỳ. Cụ thể, Luật Thương mại Hoa Kỳ 1974 định nghĩa về
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường là quốc gia không hoạt động theo nguyên
tắc thị trường của cơ cấu giá và chi phí, vì thế doanh số bán hàng của hàng hóa
trong quốc gia đó không phản ánh được giá trị thông thường của hàng hóa.
Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX, với sự kiện quan trọng là Đại hội
VI của Đảng đã đánh dấu mốc lịch sử trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước;
theo đó, đường lối phát triển kinh tế được hoạch định phát triển theo mô hình kinh
tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Theo đó, quan điểm của Việt Nam về
nền kinh tế thị trường được khái quát như sau4:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất - trao đổi hàng hóa
ở trình độ cao. Cần lưu ý rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải
là một. Cụ thể, có nền kinh tế hàng hóa chưa phải là nền kinh tế thị trường (ví dụ
sản xuất hàng hóa giản đơn); và cũng không phải cứ có quan hệ hàng hóa - tiền tệ
là có kinh tế thị trường (chẳng hạn như Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây,
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, Trung Quốc trước cải cách mở cửa tuy có quan
hệ tiền - hàng, nhưng đó không phải là nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đã là nền
4
Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
PGS.TS Nguyễn Gia Thơ - Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
5
kinh tế thị trường thì có quan hệ hàng hóa - tiền tệ và quan hệ hang hóa – tiền tệ
ấy bao hàm hai mặt tích cực lẫn tiêu cực. Cụ thể, cơ chế nền kinh tế thị trường
giúp tăng năng suất lao động, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh;
về mặt tiêu cực, nền kinh tế thị trường có mục đích là “lợi nhuận” nên đôi khi nảy
sinh nhiều trường hợp bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị
trường (đó là các quy luật như: Quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật giá trị
thặng dư…).
Có thể khẳng định rằng, sự thay đổi về chiến lược phát triển kinh tế của các
nước xã hội chủ nghĩa như một điều tất yếu trong quá trình vận động, nhưng hình
thái chuyển đổi của các nước (bao gồm cả Việt Nam) trong quan niệm của các
nước có nền kinh tế thị trường vẫn không được chấp nhận là nền kinh tế thị trường.
Cho đến nay, khi đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam vẫn
không thoát khỏi danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường theo quan
niệm của nhiều nước.
1.1.2. Cách thức xác định một nền kinh tế phi thị trường
Việc xác định một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường hay là nền kinh tế
thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh của thế giới ngày nay. Vì thế,
các quốc gia và các tổ chức kinh tế thế giới đã đưa ra những tiêu chí, nguyên tắc để
xác định một nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường, nhằm đảm bảo lợi ích của
mình và thành viên trong hoạt động ngoại thương với các đối tác.
Thực tế, Hiệp định GATT 1994 và Tổ chức thương mại thế giới WTO
không đưa ra tiêu chí hay định nghĩa để xác định một nền kinh tế phi thị trường
hay nền kinh tế thị trường, nhưng các nguyên tắc và hiệp định của WTO được xây
dựng dựa trên nguyên tắc của thị trường. Vì thế, các nước gia nhập WTO phải cam
6
kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường và tuân thủ các nguyên tắc của WTO, cụ
thể5:
Thương mại không phân biệt đối xử: Được thể hiện thông qua quy chế
tối huệ quốc (MFN) và quy chế đãi ngộ quốc gia (NT). Mục đích của các quy chế
này là bảo đảm bình đẳng trong gia nhập thị trường. Ngoài ra, nguyên tắc này còn
quy định không có sự thiên vị trong việc hưởng ưu đãi từ Nhà nước về chính sách
thuế và trợ cấp...
Thương mại ngày càng tự do hơn: WTO thúc đẩy tự do hóa và gia
nhập thị trường, thể hiện thông qua việc cắt giảm và từng bước bãi bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan.
Đảm bảo tính minh bạch, dễ dự đoán trong chính sách thương mại:
Bảo đảm công khai, minh bạch và khả năng giải trình về sự can thiệp chính sách
của Nhà nước, các thành viên trong và ngoài nước được bình đẳng trong tiếp cận
thông tin...
Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh: Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh,
chống độc quyền, giá cả không bị bóp méo, mang tính thị trường (chẳng hạn
chống hành vi bán phá giá).
Thúc đẩy sự phát triển và cải cách kinh tế: Thúc đẩy cải cách định
hướng thị trường; tạo điều kiện cho Chính phủ khắc phục các dạng “thất bại” của
thị trường thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ cấp được phép, ví
dụ, để hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các vùng miền, bảo hộ nền sản xuất trong nước trong trường hợp bị tổn thương...
Như vậy, các nước xin gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo
hướng đáp ứng các yêu cầu thị trường nói trên, tức là không được tạo ra những rào
cản bóp méo thị trường. Đặc biệt, vấn đề kinh tế thị trường thể hiện rất rõ trong
một số hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới như Hiệp định chống bán phá
giá, Hiệp định định giá hải quan, Hiệp định về trợ cấp…
5
http://www.baomoi.com/Quy-dinh-cua-WTO-ve-kinh-te-thi-truong/45/3287760.epi
7
Hoa Kỳ cũng đề ra một số tiêu chí nhằm xác định một nền kinh tế là nền
kinh tế thị trường cho các quốc gia đối tác. Cụ thể, đó là các tiêu chí sau đây:
Mức độ chuyển đổi của đồng nội tệ;
Mức độ theo đó mức lương được xác định thông qua đàm phán tự do
giữa người lao động và đơn vị sử dụng lao động;
Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư nước ngoài
được phép thực hiện;
Mức độ sở hữu của Chính phủ hoặc kiểm soát của các phương tiện
sản xuất;
Mức độ kiểm soát của Chính phủ về việc phân bổ các nguồn lực, giá
cả và sản lượng của doanh nghiệp;
Các tiêu chí khác do Bộ thương mại Hoa Kỳ đưa ra.
Trong sáu tiêu chí đưa ra, chỉ năm tiêu chí đầu các quốc gia đối tác có khả
năng hoàn thiện và đáp ứng; riêng tiêu chí cuối cùng là điều rất khó khăn cho các
quốc gia đối tác khi hợp tác với Hoa Kỳ, bởi lẽ đây là một điều khoản rất mơ hồ,
các quốc gia đối tác không thể đáp ứng được nếu không có sự đồng thuận của Bộ
Thương mại Hoa Kỳ.
Ngoài ra, Luật Chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn cho phép sử dụng các
phương pháp kinh tế thị trường để xác định giá trị thông thường trong các trường
hợp kinh tế phi thị trường nếu như ngành công nghiệp liên quan ở nước bị kiện
chứng minh được là ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Theo đó,
các tiêu chí để xác định ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường bao
gồm:
Hoàn toàn không có sự can thiệp của chính phủ vào việc định giá và
số lượng sản xuất;
Ngành công nghiệp không phải do nhà nước sở hữu;
Tất cả các chi phí đầu vào kể cả vật chất và phi vật chất (trừ một phần
không đáng kể) tạo thành tổng giá trị hàng hóa phải được thanh toán
theo giá thị trường.
8
Trên thực tế, những tiêu chí này rất khó thỏa mãn và rất hiếm có trường hợp
một ngành công nghiệp ở nước có nền kinh tế phi thị trường được coi là hoạt động
theo cơ chế thị trường để được áp dụng các phương pháp kinh tế thị trường trong
điều tra bán phá giá vào Hoa Kỳ.
Theo pháp luật Hoa Kỳ về chống bán phá giá, một nước có nền kinh tế phi
thị trường là nước mà DOC đánh giá là có nền kinh tế vận hành không theo các
nguyên tắc về chi phí và cấu trúc giá thông thường.
DOC suy đoán là tất cả các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
trong đó mọi quyết định của doanh nghiệp về giá đều chịu sự chi phối, can thiệp
của chính phủ. Vì vậy hầu hết tất cả các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa đều bị
xếp vào nền kinh tế phi thị trường. Cho đến cuối năm 2005, có 12 nước đã bị DOC
kết luận là nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ kiện chống bán phá giá,
trong đó có Việt Nam.
Hiện tại, Ủy ban liên minh Châu Âu chia các nước có nền kinh tế phi thị
trường ra làm 3 nhóm:
Trung Quốc, Kazakhstan, Ukraine, và Việt Nam: những nước được
nhận diện là tiến trình cải cách về cơ bản đã thay đổi nền kinh tế của họ và đã
dẫn tới sự nổi lên của một số công ty có thể ưu tiên hưởng các điều kiện của
nền kinh tế thị trường.
Những nước có nền kinh tế phi thị trường khác là thành viên của
WTO tại thời điểm khởi xướng vụ kiện chống bán phá giá, như Albania,
Armenia, Geogia,
Kyrgyzstan, Cộng Hoà Moldova và Mongolia. Những nước
này được đối xử như những nước trong nhóm đầu tiên.
Azerbaijan, Belarus, Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên,
Tajikistan, Turkmenistan, và Uzbekistan (từ ngày 1/8/2004): các nhà sản xuất từ
những nước này không được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường
nhưng có thể được hưởng quy chế đối xử riêng.
9
Tuy nhiên, có thể coi những nước khác là những nước có nền kinh
tế phi thị trường vì mục đích của các vụ kiện chống bán phá giá. Quy chế đối
xử mà Uỷ ban có thể dành cho các nước có nền kinh tế phi thị trường luôn
thay đổi tuỳ thuộc vào tình trạng thực tế ở một số quốc gia có tên trong danh
sách. Ví dụ như Liên Bang Nga đã được gạch tên khỏi danh sách các nước có
nền kinh tế phi thị trường và trở thành nước có nền kinh tế thị trường vào năm
2002. footnote OJ (2002) L305/1; hầu hết các nước Tây và Trung Âu đã được
gạch tên khỏi danh sách này sớm hơn Liên Bang Nga.
Cách tiếp cận linh hoạt hơn của Uỷ Ban còn thể hiện ở một số phương
diện khác. Vì thế, Quy định chống bán phá giá tạo cho nhà xuất khẩu trong
hai nhóm danh sách đầu tiên đã đề cập ở trên có cơ hội được hưởng quy chế đối
xử nền kinh tế thị trường, nghĩa là chứng minh họ hoạt động theo những điều
kiện của nền kinh tế thị trường và không chịu sự can thiệp đáng kể của Chính
phủ. Nếu như yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường được chấp
nhận, thì cuộc điều tra sẽ tiếp tục như là nhà sản xuất xuất khẩu kinh doanh
trong các điều kiện thị trường thông thường.
Trong trường hợp yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị
trường bị Uỷ ban từ chối thì nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị
trường vẫn có thể yêu cầu được công nhận là họ không chịu sự can thiệp của
Nhà nước xét về mặt tính giá xuất khẩu và yêu cầu được tính biên độ phá giá
riêng. Đây được gọi là quy chế đối xử riêng và nên được trình cùng lúc với
yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường.
10
Nếu yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường bị từ chối
thì việc xác định giá trị thông thường sẽ dựa trên chi phí và giá cả của nhà sản
xuất tại ‘nước tương tự’. Đây là một quốc gia có nền kinh tế thị trường và được
coi là có tiêu chuẩn thích hợp để so sánh. Nước tương tự không cần phải có mức
độ phát triển giống hay có thể so sánh được với các nước có nền kinh tế phi thị
trường.
Đơn đề nghị được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường phải đến
tay Uỷ ban Châu Âu trong vòng 21 ngày kể từ ngày khởi xướng. Ngoài ra,
có 10 ngày để đưa ra ý kiến về việc lựa chọn trước nước tương tự.
Khi yêu cầu được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường đến tay
Uỷ ban, một cuộc xác minh sơ bộ sẽ được thực hiện. Nếu thấy rằng nhà xuất
khẩu xứng đáng được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường thì Uỷ ban
có thể quyết định thực hiện một chuyến điều tra thực địa để chứng thực yêu
cầu này. Trước khi đi đến quyết định cuối cùng, Uỷ ban sẽ thông báo cho nhà
xuất khẩu có liên quan về quyết định sắp tới của họ và nhà xuất khẩu sẽ có
10 ngày để đưa ra ý kiến của mình. Quyết định cuối cùng về yêu cầu được
hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường không được muộn hơn 3 tháng kể
từ ngày khởi xướng.
Cho đến khi Uỷ Ban có quyết định về quy chế đối xử nền kinh tế thị
trường thì nhà xuất khẩu vẫn phải hoàn thành bảng câu hỏi điều tra thông
thường, trừ những phần có liên quan đến danh thu bán hàng và chi phí nội
địa. Bản trả lời bảng câu hỏi điều tra phải đến tay Uỷ ban trong vòng 40
ngày kể từ ngày có thông báo khởi xướng. Nếu yêu cầu hưởng quy chế đối xử
nền kinh tế thị trường được chấp nhận thì nhà xuất khẩu sẽ phải trả lời nốt
những phần còn lại của bảng câu hỏi điều tra có liên quan đến bán hàng nội địa
11
và chi phí trong khoảng thời gian do Ủy ban quy định. Khoảng thời gian quy định
thường là 30 ngày kể từ ngày Uỷ ban có quyết định công nhận quy chế đối xử
nền kinh tế thị trường.
1.2.
Điều tra chống bán phá giá
1.2.1. Khái niệm về bán phá giá
Theo lịch sử phát triển của kinh
tế thế giới, từ thế kỷ XVII, ở Châu
Âu đã xuất hiện những quan niệm về
hành vi bán phá giá đối với các sản
phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác
vào quốc gia bản địa. Trước sức ảnh
hưởng đáng lo ngại của việc bán phá
giá, các quốc gia nhập khẩu đã sử
dụng các biện pháp khống chế, chủ yếu là đánh thuế cao với các mặt hàng nhập
khẩu hoặc cấm nhập khẩu mặt hàng đó vào thị trường nội địa. Vào những năm
đầu thế kỷ XX, pháp luật về chống bán phá giá bắt đầu hình thành từ Canada và
phát triển rộng ra các nước khác như Mỹ (1916), Austraylia (1921), Vương quốc
Anh (1921)…và có nhiều sự biến đổi, cải tiến cho phù hợp với chính sách và điều
kiện phát triển của từng quốc gia. Theo đà phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu,
vấn đề bán phá giá dần được các quốc gia chú trọng hơn, đặc biệt là vấn đề thiết
lập hành lang pháp lý để đảm bảo và hòa nhập vào nền kinh tế chung trên toàn thế
giới.
Dưới góc độ kinh tế, bán phá giá là việc bán hàng hoá với những mức giá
khác nhau ở các thị trường quốc gia khác nhau hay nói cách khác là sự phân biệt
về giá giữa các thị trường quốc gia. Dưới góc độ pháp lý, bán phá giá là khái niệm
12
để chỉ những hành vi bán phá giá bị pháp luật các nước hoặc pháp luật thương mại
quốc tế cấm6. Cụ thể:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều VI Hiệp định chung về Thuế quan
và Thương mại 1994 (GATT 1994): Bán phá giá là cách hàng hóa của một nước
được đưa vào thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá trị thông thường
của hàng hóa.
Theo Điều 2 Hiệp định về Chống bán phá giá (Hiệp định AD7) – Hiệp
định này chi tiết hoá Điều VI GATT 1994 về các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ
tục kiện, điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá cụ thể8: Một sản phẩm
bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước
khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu
theo các điều kiện thương mại thông thường. Tuy nhiên, trong trường hợp không
có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại
thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp việc bán trong
nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của
thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất
khẩu hàng hóa quá nhỏ, biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh
với mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một
nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang
tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước
xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng,
các chi phí chung và lợi nhuận.
1.2.2. Biện pháp chống bán phá giá và điều kiện áp dụng
6
Theo: “Lịch sử chống bán phá giá” – Ths Vũ Thị Phương Lan
7
Agreement on Antidumping Practices
8
Hiệp định này còn được gọi là Hiệp định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan
và Thương mại 1994 (GATT 1994)
13
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm
trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước
đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả
đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại để chống lại hành
vi bán phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu.
Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống
bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp
hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác không được coi là
hợp pháp.
Theo quy định của Hiệp định về Chống bán phá giá, để áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, nước nhập khẩu là thành viên WTO phải chứng minh được ba
điều kiện sau đây:
Có hành động bán phá giá: Được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của
mặt hàng nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của
nước xuất khẩu (gọi là biên độ phá giá).
Có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang
cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu. Cụ thể, ngành công nghiệp sản xuất hàng
hóa tương tự trong nước nhập khẩu bị thiệt hại một cách đáng kể hoặc bị đe dọa
gây thiệt hại một cách đáng kể hoặc việc bán phá giá gây khó khăn cho việc hình
thành một ngành sản xuất trong nước.
Hành động bán phá giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất,
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất nêu trên.
Để đưa ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu
và cơ quan chức năng cần phải tiến hành các bước điều tra hành vi phá giá của
doanh nghiệp nước xuất khẩu. tùy theo quy định của từng quốc gia hoặc tổ chức
mà quy trình được xây dựng thích hợp với hoàn cảnh, điều kiện khách quan của
quốc gia đó hoặc của đa số các nước thành viên.
1.2.3. Các bước điều tra chống bán phá giá
14
Quy định về điều tra chống bán phá giá được cụ thể hóa tại Hiệp định AD.
Cụ thể, đó là các quy định sau: Bắt đầu quá trình điều tra và quá trình điều tra tiếp
theo (Điều 5); bằng chứng (Điều 6); các biện pháp tạm thời (Điều 7); cam kết về
giá (Điều 8); đánh thuế và thu thuế chống bán phá giá (Điều 9). Hiệp định cũng
quy định rõ về việc hồi tố (ĐIều 10); thời hạn áp dụng và việc xem xét lại thuế
chống bán phá giá và các cam kết về giá (Điều 11); thông báo công khai và giải
quyết các quyết định (Điều 12); rà soát tư pháp (Điều 13); Hành động chống bán
phá giá nhân danh một nước thứ ba (Điều 14). Ngoài ra, để đảm bảo chức năng,
Hiệp định cũng xác lập nên Ủy ban thực hành chống bán phá giá nhằm đảm bảo
việc thực thi Hiệp định được thực tế và chặt chẽ. Thông thường, việc điều tra dựa
trên hồ sơ yêu cầu của tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng; thiệt hại của ngành sản xuất
nội địa. Theo đó, các hồ sơ này phải có những bằng chứng cụ thể về ba điều kiện
áp dụng biện pháp chống bán phá giá đã nêu trên, bên nộp đơn phải đủ tư cách đại
diện cho ngành sản xuất nội địa bị thiệt hại, cụ thể là phải được sự ủng hộ của các
nhà sản xuất nội địa chiếm trên 50% tổng sản lượng tương tự và các nhà sản xuất
nội địa tán thành điều tra chiếm trên 25% tổng sản lượng - điều này nhằm đảm bảo
tư cách đại diện cho số đông của bên khiếu nại. Ngoài ra, việc điều tra cũng có thể
do các cơ quan chức năng của quốc gia nhập khẩu tự tiến hành không cần có hồ sơ
yêu cầu khi thấy có đủ bằng chứng về việc gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội
địa. Về thời gian điều tra, theo qui định của Hiệp định AD, không quá một năm
(không quá 12 tháng) cơ quan điều tra phải có kết luận cuối cùng là có bán phá giá
không, trong một số trường hợp đặc biệt thời gian này được mở rộng nhưng không
vượt quá 18 tháng - các quy định này nhằm hạn chế việc gây khó khăn cho các
doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu loại hàng hóa đang bị điều tra hay cản trở
việc nhập khẩu hàng hóa đó. Để xác định rằng có hành vi bán phá giá hay không,
các cơ quan điều tra phải xác định hai vấn đề sau đây:
Thứ nhất, hàng hóa nhập vào có bán với mức giá thấp hơn giá thành
sản xuất hợp lý hay không, tức là có sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá nội
địa của của hàng hóa nhập đó hay không. Tuy nhiên, nếu chênh lệch này nhỏ hơn
15
2% giá nhập khẩu hay lượng nhập khẩu của sản phẩm hàng hóa này ít hơn 3% so
với tổng lượng nhập khẩu của hàng hóa tương tự thì phải kết thúc điều tra vì
không đủ gây ảnh hưởng cho ngành sản xuất nội địa. Có thể thấy, việc tính giá
thành sản xuất hợp lý là rất phức tạp và quốc gia nhập khẩu có thể sử dụng nhiều
phương thức để thực hiện điều này. Nhiều chuyên gia nhận định rằng việc tính
toán này thường thiếu tính khách quan, không chính xác và mang tính áp đặt. Tuy
nhiên, trong hầu hết các trường hợp thì cơ quan điều tra của nước nhập khẩu kết
luận là có bán phá giá (chẳng hạn, trên 95% các cuộc điều tra bán phá giá, Bô
thương mại Mỹ (DOC) có kết luận là bán dưới giá thành hợp lý).
Thứ hai, hàng nhập khẩu bán phá giá có gây thiệt hại vật chất hay đe
dọa gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa hay không (chứ không phải
là cho một vài nhà sản xuất nội địa). Để xác định điều này phải có các bằng chứng
khách quan về lượng sản phẩm nhập vào được bán phá giá, ảnh hưởng đến giá của
thị trường nội địa của sản phẩm tương tự và thiệt hại đối với nhà sản xuất sản
phẩm trong nước. Cơ quan điều tra xem xét trên các số liệu sau: Sự gia tăng lượng
hàng nhập khẩu được bán phá giá, sự giảm giá của sản phẩm tương tự sản xuất nội
địa… Ngoài ra, cơ quan điều tra còn có thể xác định thiệt hại gộp trong trường
hợp hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá nhập từ nhiều ngưồn khác nhau (các
quốc gia) nhưng phải đảm bảo điều kiện thứ nhất (vượt các mức tối thiểu về biên
độ phá giá và lượng nhập khẩu đối với mỗi quốc gia). Việc kết luận điều thứ hai
này do Ủy ban thương mại quốc tế của Mỹ (ITC) thực hiện.
Đối với các quốc gia phương Tây, khi điều tra bán phá giá đối với hàng hóa
xuất khẩu từ nền kinh tế phi thị trường (các quốc gia theo chế độ Xã hội chủ nghĩa,
có hệ thống quản lý kinh tế tập trung), cơ quan điều tra của họ thường chọn theo
cách tính ở một quốc gia thứ ba (là quốc gia được xem có nền kinh tế thị trường, có
trình độ phát triển tương đương) để xác định giá thành sản xuất hợp lý của sản
phẩm. Điều này làm mất đi tính công bằng và hợp lý trong cách tính giá thành sản
xuất hợp lý của hàng hóa đang bị điều tra bán phá giá (thường là bất lợi cho cho
nhà xuất khẩu). Để tránh trường hợp này, nước xuất khẩu phải là thành viên của
16
WTO để không bị phân loại và phân biệt đối xử bởi các lý do kinh tế - chính trị
(tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào cam kết của quốc gia đó khi gia nhập
WTO, ví dụ: Trung Quốc vẫn chấp nhận bị xem là nền kinh tế phi thị trường trong
vòng 15 năm sau khi gia nhập WTO). Theo quy định của Hiệp định AD, khi đã có
các bằng chứng xác thực về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả
giữa chúng, cơ quan có thẩm quyền quyết định có hay không bắt đầu cuộc điều tra.
Quá trình điều tra phải kết thúc trong thời hạn 1 năm và trong mọi trường hợp
không được vượt quá 18 tháng. Trong quá trình điều tra việc thông quan hàng hoá
vẫn được tiến hành bình thường. Ngoài ra, trong quá trình điều tra nước nhập khẩu
có thể áp dụng các biện pháp tạm thời nếu các cơ quan có thẩm quyền cho rằng,
cần áp dụng các biện pháp này để ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra trong quá trình
điều tra. Các biện pháp tạm thời chỉ được phép áp dụng nếu như: (i) Việc điều tra
đã được khởi đầu theo đúng quy định tại Điều 5 Hiệp định AD; (ii) kết luận ban
đầu đã xác nhận rằng có việc bán phá giá và có dẫn đến gây tổn hại cho ngành sản
xuất trong nước; và (iii) các cơ quan có thẩm quyền hữu quan kết luận rằng, cần áp
dụng các biện pháp này để ngăn chặn tổn hại đang xảy ra trong quá trình điều tra.
Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dười hình thức thuế tạm thời hoặc tốt
nhất là áp dụng hình thức bảo đảm - bằng tiền đặt cọc tương đương với mức thuế
chống bán phá giá được dự tính tạm thời và không được cao hơn biên độ bán phá
giá được tính tạm thời. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng đối với các sản
phẩm được đưa vào tiêu dùng sau thời điểm mà quyết định đưa ra theo đoạn 1 Điều
7 Hiệp định AD có hiệu lực, trừ một số ngoại lệ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng
việc áp dụng các biện pháp tạm thời không được sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt
đầu điều tra và không được vượt quá 4 tháng, trong một số trường hợp đặc biệt có
thể kéo dài nhưng không quá 6 tháng. Trong quá trình điều tra, nếu cơ quan có
thẩm quyền xem xét liệu một mức thuế thấp hơn biên độ phá giá có thể loại bỏ tổn
hại phát sinh hay không, thì khoảng thời gian nói trên được kéo dài thành 6 và 9
tháng tương ứng. Đặc biệt, Hiệp định AD còn có quy định cam kết về giá. Theo đó,
cam kết về giá là cam kết của nhà xuất khẩu đối với cơ quan điều tra về sự thay đổi
17
chính sách giá hoặc ngưng các hoạt động bán phá giá vào khu vực đang điều tra,
cam kết này phải đảm bảo việc bán phá giá gây ra được loại bỏ để cơ quan điều tra
có thể chấp nhận và đình chỉ hay chấm dứt các biện pháp tạm thời hay biện pháp
áp thuế chống bán phá giá đối với loại hàng hóa đang bị điều tra. Cơ quan có thẩm
quyền của quốc gia nhập khẩu có thể gợi ý cho nhà xuất khẩu đưa ra các cam kết
về giá nhưng không bắt buộc. Khi cam kết về giá được chấp thuận, việc điều tra
bán phá giá vẫn có thể được tiến hành, nếu kết luận của cơ quan điều tra là không
có bán phá giá thì các cam kết về giá sẽ tự động kết thúc, nếu kết luận là có bán
phá giá thì các cam kết về giá sẽ được duy trì cho đến khi cơ quan chức năng của
nước nhập khẩu xem xét, điều chỉnh theo kết luận của cơ quan điều tra. Bên cạnh
đó, khi kết luận của cơ quan điều tra là có bán phá giá, nước nhập khẩu sẽ áp đặt
các biện pháp cần thiết để chống lại sự ảnh hưởng của việc bán phá giá. Cụ thể, các
quốc gia được phép áp dụng thuế chống bán phá giá như biện pháp thương mại đặc
biệt; thời hạn áp đặt thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá năm năm kể
từ ngày áp dụng (xem điều khoản “hoàng hôn” của Hiệp định AD), ngoại trừ các
trường hợp đặc biệt nếu ngưng áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ làm tiếp tục hay
tái phát sinh việc bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước nhập khẩu.
Với thời gian năm năm đủ để cho quốc gia nhập khẩu thực hiện việc rà soát ảnh
hưởng của biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu và ngưng áp
thuế chống bán phá giá khi cần thiết. Thực tế, việc bảo hộ bằng biện pháp chống
bán phá giá gây nhiều thiệt hại cho cả đôi bên: Nhà nhập khẩu lẫn nhà xuất khẩu
và nhất là đối với người tiêu dùng khi phải gánh chịu thêm khoản thuế này, lợi ích
nếu có chỉ tập trung vào một nhóm thiểu số mà thông thường có ảnh hưởng tới
chính trị. Từ những quy định chung của WTO, các tổ chức, cộng đồng kinh tế trên
thế giới cũng xây dựng các quy định riêng cho các thành viên tổ chức mình. Bên
cạnh đó, các quốc gia thành viên WTO cũng tiến hành nội luật hóa Hiệp định AD
nhằm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
quốc gia.
18
Sau đây, nhóm chúng tôi xin trình bày cụ thể quy định của Tổ chức kinh tế
Liên minh châu Âu EU, Luật của Hoa Kỳ và Pháp lệnh của Việt Nam về quy trình
điều tra chống bán phá giá để bài tiểu luận có cách nhìn trực diện hơn đối với việc
điều tra chống bán phá giá trên thế giới hiện nay.
Quy trình điều tra chống bán phá giá của EU:
Bước 1: Bắt đầu vụ kiện
Đơn kiện của ngành sản xuất nội địa phải đưa ra tương đối đủ các bằng
chứng về việc bán phá giá và thiệt hại gây ra, cách xác định chính xác loại hàng
hóa và danh tính các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan.
Sau khi kiểm tra sơ bộ đơn kiện, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra Quyết định
khởi xướng điều tra khi:
Đối tượng nộp đơn đáp ứng yêu cầu về tính đại diện (cho ngành sản
xuất nội địa liên quan).
Có tương đối đủ bằng chứng về việc bán phá giá gây thiệt hại.
Lượng hàng hóa nhập khẩu từ nước bị kiện không quá nhỏ.
Bước 2: Điều tra sơ bộ
Việc điều tra được tiến hành theo hai nhóm vấn đề:
Điều tra để xác định có bán phá giá hay không và biên độ bán phá giá
như thế nào.
Điều tra để xác định có thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa hay
không và thiệt hại có phải là hệ quả của việc bán phá giá không.
Để xác định được hai vấn đề này, Cơ quan điều tra sẽ sử dụng bảng câu hỏi
cho bị đơn và các bên liên quan, thu thập và xác minh thông tin, bằng chứng liên
quan. Các bên bảo vệ quyền lợi của mình chủ yếu qua việc trả lời bảng câu hỏi,
cung cấp thông tin bổ sung cho cơ quan điều tra.
Bước 3: Kết luận vụ việc
Trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ, cơ quan điều tra ra Kết luận sơ bộ về các
vấn đề được điều tra (bán phá giá và thiệt hại).
19
- Xem thêm -