Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học việt nam từ cách mạng tháng 8194...

Tài liệu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học việt nam từ cách mạng tháng 81945 đến nay

.DOCX
17
132
114

Mô tả:

ĐỀ TÀI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐẾN NAY A. PHẦN MỞ ĐẦU Quan niệm nghệ thuật về con người là vấn đề cơ bản, then chốt của tác phẩm, chịu sự chi phối bởi cá tính sáng tạo của nhà văn. Khi tư duy nghệ thuật của nhà văn vận động biến đổi cho phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì, từng trào lưu văn học, thì quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn cũng thay đổi, kéo theo sự thay đổi diện mạo của cả nền văn học. Chính vì thế, quan niệm về con người tạo thành nhân tố vận động của nghệ thuật, đổi mới nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng con người vào chiều sâu của nó. Và đây cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học nói riêng và thành tựu của người nghệ sĩ nói chung. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới cho đất nước và con người Việt Nam, bắt đầu thời đại độc lập, tự chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đầy gian khổ nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Mọi đổi thay về lịch sử, chính trị, tư tưởng cũng tác động sâu sắc đến văn học, đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người. Từ sau năm 1975, thời hậu chiến rồi đến thời kì đổi mới, trên sự đổi mới toàn diện xã hội, lại một lần nữa các nhà văn Việt Nam có sự thay đổi về tư duy nghệ thuật trong sự tiếp cận với hiện thực đời sống con người. Con người trong văn học từ 1975 đến nay được các nhà văn quan niệm không hề đơn giản, xuôi chiều; thay vào đó, các nhà văn nhìn con người trên nhiều bậc thang giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích, chân thực và toàn vẹn hơn. Nhờ sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề về cuộc sống liên quan đến con người theo hướng đa chiều. Chính vì vậy, cấu trúc thế giới nghệ thuật ở mọi thể loại văn học, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng cho đến thế giới nhân vật đều có những thay đổi mới mẻ, sáng tạo, giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới bí ẩn mà đầy phức tạp của con người. Với sự vận động mạnh mẽ, văn học Việt Nam từ 1 1945 đến nay đã có những chuyển biến khác biệt trong cái nhìn của nhà văn về con người, thể hiện qua những hiện tượng văn học cụ thể. Hay chính những tác phẩm, tác giả tập trung lại làm nên những diện mạo khác nhau trong quan niệm nghệ thuật về con người ở từng giai đoạn văn học. Vì những lí do trên, việc nghiên cứu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay là cần thiết. Hiểu sâu quan niệm nghệ thuật về con người giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện đầy đủ về từng giai đoạn văn học, thấy được chiều sâu giá trị của từng tác phẩm văn học. B. PHẦN NỘI DUNG `1. Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người "Văn học là nhân học", định nghĩa ấy đã chỉ ra đối tượng chủ yếu và trung tâm của văn học chính là con người. Tuy nhiên không phải cứ viết về con người là trở thành sáng tác văn học. Chỉ có những sáng tác nào đem lại cho người đọc mô tô khám phá, phát hiê nô hay mô ôt sự lí giải mới mẻ về con người thì mới trở thành văn học. Muốn làm được như vâ ôy, trước khi cầm bút, nhà văn, nhà thơ phải có mô ôt quan niê ôm nghê ô thuâ ôt về con người. Nói cách khác quan niê ôm nghê ô thuâ ôt về con người chính là mô ôt trong những điểm khởi đầu cho sáng tạo văn chương. Quan niê ôm nghê ô thuâ ôt về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiê nô , biê nô pháp hình thức thể hiê ôn con người trong văn học, tạo nên giá trị nghê ô thuâ ôt và thẩm mỹ cho hình tượng các nhân vâ ôt trong đó. Xét đến cùng, quan niê ôm nghê ô thuâ ôt về con người là sản phẩm của lịch sử, văn hóa, tư tưởng. Nó mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghê ô sĩ, gắn liền với cái nhìn đầy tính phát hiê ôn đô cô đáo của nghê ô sĩ. Bởi vâ ôy mà mỗi thời đại khác nhau lại có quan niê ôm nghê ô thuâ ôt về con người khác nhau trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người mang một ý nghĩa quan trọng. Cách hiểu về con người phản ánh đúng bản chất của một nền nghệ thuật. Thậm chí có người cho rằng: “Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật” (V. Secbina). Lịch sử xã hội luôn vận động làm nảy sinh những con người mới, và miêu tả 2 những con người ấy làm văn học đổi mới. Và sự đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người của nhà văn cũng làm văn học đổi thay căn bản. Nghệ sĩ đích thực là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người; do đó, càng khám phá quan niệm nghệ thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu của họ. Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, trước hết ở các nhân vật, bởi “nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học”. Muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người thì phải xuất phát từ các biểu hiện lặp đi lặp lại của nhiều nhân vật, thông qua các yếu tố bền vững, được tô đậm dùng để tạo nên chúng như: cách xưng hô đối với nhân vật, tên gọi, công thức giới thiệu nhân vật ngay từ đầu và những biến đổi của chúng trong tác phẩm, chân dung nhân vật... 2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 Cách mạng tháng Tám 1945 là một biến cố lịch sử to lớn làm đổi thay sâu sắc đất nước và con người Việt Nam, mở đầu một thời đại mới cho văn học dân tộc. Những đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn này có thể nhận thấy trên các bình diện và nhiều cấp độ. Nhưng ở trung tâm và chiều sâu của sự biến đổi ấy là sự thay đổi trong quan niệm về con người, là sự hình thành và vận động của quan niệm nghệ thuật mới về con người. Quan niệm này mang tính thống nhất của cả nền văn học và trong suốt giai đoạn 1945 – 1975, nhưng cũng mang nét đặc trưng riêng của từng thời kì nhỏ của sự phát triển văn học văn học trong giai đoạn này: 1945 – 1954, 1954 – 1964 và 1964 – 1975. 2.1. Con người quần chúng Cách mạng đã đem lại những biến đổi kì diệu cho con người Việt Nam, tập hợp mọi người tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc, đặt mỗi con người trong cộng đồng, sống với đời sống chung của đất nước trong dòng chảy xiết của lịch sử, thức tỉnh ở mỗi con người ý thức công dân và tinh thần dân tộc tiềm tàng. Nhà văn là một công dân, đồng thời với sự nhạy cảm của một nghệ sĩ đã cảm nhận được biến đổi lớn lao ấy. Cũng chính nhà văn phát hiện ra sức mạnh quật khởi của dân tộc và con người Việt Nam hiện ra trong vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. “Chúng ta đã tìm thấy bao trùm trên chúng ta, bao trùm làng xóm, gia đình chúng ta một 3 cái gì lớn lao chung ấy là dân tộc” (Nguyễn Đình Thi, Nhận đường. Tạp chí Văn nghệ, số 1, 1948). “Cảnh tưng bừng của cả dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy. Tôi cảm thấy khắp nơi ở xung quanh tôi và trong lòng tôi một cuộc tái sinh màu nhiệm” (Hoài Thanh. Tạp chí Tiên phong, số 3, 1945) Trong bối cảnh đó, văn học thời kì 1945 – 1954 tập trung thể hiện con người quần chúng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân vật quần chúng được xác định cụ thể hơn, đó là công nông binh. Quần chúng công nông binh là nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện của nền văn học kháng chiến. Quần chúng trở thành nguyên tắc xây dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm: Tác phẩm phải biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, khát vọng của quần chúng, phải học cách nói, cách thể hiện của quần chúng. Sở thích và sự đánh giá của quần chúng là thước đo thành công và giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Thời kì đầu, nhân vật quần chúng được thể hiện trong cảm hứng anh hùng với vẻ đẹp bi tráng phảng phất dáng dấp những người anh hùng tráng sĩ trượng phu thời trước (Ngày về - Chính Hữu, Tây Tiến – Quang Dũng). Sau đó, văn học đã chuyển sang khám phá nhân vật quần chúng từ cảm quan hiện thực và phát hiện ra những vẻ đẹp bình dị của họ trong đời sống kháng chiến (Cá nước, Phá đường, Bầm ơi ... – Tố Hữu, Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông...). Phương thức trữ tình nhập vai quần chúng được sáng tạo. Nhà thơ hóa thân vào các vai quần chúng để bộc lộ tâm trạng, tình cảm, ao ước của họ một cách chân thực nhất. Ở truyện và kí là sự thống nhất giữa quan điểm trần thuật của tác giả với nhân vật quần chúng, giữa hình tượng tác giả - người kể chuyện với hình tượng quần chúng. Trong các tác phẩm Đôi mắt, nhật kí Ở rừng (Nam Cao), Đường vui (Nguyễn Tuân)... hình tượng người trần thuật hiện diện khá rõ nét. Các nhà văn hướng tới nhân vật quần chúng, bày tỏ sự ngạc nhiên, cảm phục, ngợi ca trước sự anh dũng, lạc quan, hồn nhiên của quần chúng. Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan trọng bậc nhất của nền văn học thời kháng chiến chống Pháp. Cái mới trong sự thể hiện con người quần chúng của văn học thời kì này trước hết ở việc tập trung thể hiện con người chính trị, con người công dân. Văn học tập trung thể hiện những nét tâm lí chung của quần chúng như lòng yêu nước, căm thù giặc, tình nghĩa đồng bào, tình cảm tiền tuyến hậu phương, ý thức giai cấp.... Anh thanh niên làng vác bó tre đi cản cơ giới địch say sưa đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” kháng chiến (Đôi mắt – Nam 4 Cao). Người nông dân xa làng tản cư thấy đau xót, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc, và vui mừng phấn khởi khi nghe tin làng mình vẫn là làng kháng chiến (Làng – Kim Lân). Những trai làng sẵn sàng ra đi cầm súng theo tiếng gọi của Tổ quốc “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” (Đồng chí – Chính Hữu). Con người gắn với toàn cuộc kháng chiến, là một bộ phận trong cái toàn cảnh rộng lớn của đất nước Việt Nam kháng chiến. Quần chúng tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình. Các nhân vật quần chúng chỉ được hiện ra với vẻ đẹp và sức mạnh ở trong những tập thể ấy. Thơ trữ tình thì thể hiện những nét tâm lí và tình cảm chung của một tầng lớp, một thế hệ, một tập thể. Đó là tiếng nói của “chúng tôi”, “chúng ta”: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ” (Hồng Nguyên), “Chúng ta đoàn áo vải” (Hoàng Trung Thông). Ở văn xuôi, người ta ít chú ý xây dựng tính cách. Các nhân vật đều được mô tả trong một nhóm, một tập thể của họ. Các tác phẩm đều tập trung làm nổi bật hình tượng đám đông, hình tượng tập thể quần chúng (kí sự Trần Đăng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm...). Với sự phát hiện con người quần chúng, con người tập thể, chú trọng làm nổi bật con người công dân và con người hành động, văn học Việt Nam 1945 – 1954 đã đem lại một kiểu người mới mẻ chưa từng có trong văn học trước đó. 2.2. Con người trong sự thống nhất riêng - chung Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, nhân dân ta bước vào khôi phục đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.Văn học đứng trước những yêu cầu đa dạng: một mặt là những nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống hòa bình sau hàng chục năm chiến tranh, mặt khác phải tiếp tục cuộc đấu tranh cho những mục tiêu cách mạng : thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan niệm về con người của văn học thời kì này cũng trở nên đa dạng hơn. Nổi bật vẫn là tiếp tục quan niệm về con người của văn học thời kháng chiến và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới, những yêu cầu mới của cuộc cách mạng. Ở trung tâm của quan niệm con người trong văn học thời kì này là khái niệm con người mới. Văn học những năm chống thực dân Pháp dừng lại ở quan niệm con người tập thể, chưa chú ý đến việc xây dựng những tính cách riêng. Văn học những năm hòa bình đã chú ý đến những tính cách cá nhân và ngày càng coi trọng giá trị của điển hình. Trong một số tác phẩm đã xuất hiện những nhân vật được 5 xem như những điển hình văn học của thời kì này.Có thể kể đến Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Tư Hậu trong Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, Khắc trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi…. Nhân vật đã có một dáng dấp riêng, một bề dày về đời sống nội tâm, một quá trình vận động, biến đổi của số phận và tính cách qua những biến cố xã hội - lịch sử. Điển hình trong văn học thời kì này mang nét riêng, khái quát những nét tiêu biểu của số phận,tính cách của tầng lớp giai cấp của họ, hoặc rộng hơn, mang ý nghĩa tiêu biểu cho dân tộc, cho số phận của nhân dân (anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Trần Thị Lý trong Người con gái Việt Nam, mẹ Tơm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu...). Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học thời kì này là con người trong sự thống nhất riêng - chung. Chiến tranh đã kết thúc, cuộc sống hòa bình trở lại, không thể không quan tâm đến cuộc sống thường nhật và những vấn đề về hạnh phúc, về cuộc sống riêng của mỗi con người. Quan niệm con người hài hòa, thống nhất riêng - chung và đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân đã chi phối các chủ đề chính yếu, các nhân vật chính và cả việc lựa chọn, xây dựng các cốt truyện tiêu biểu của văn học thời kì này, nhất là trong mảng sáng tác về đề tài cuộc sống hiện tại (Cái hom giỏ của Vũ Thị Thường, Con cá song của Bùi Đức Ái, Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ…). Một hướng khẳng định sự thống nhất riêng chung trong văn học lúc này là sự thể hiện những cuộc đổi đời của con người trong xã hội mới, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách của nhân vật trong hoàn cảnh xã hội tốt đẹp, trong môi trường tập thể. Nhiều tác phẩm đi theo hướng này đã thể hiện được khát vọng hạnh phúc của con người, đặc biệt là những người từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, thiệt thòi, bất hạnh. Những thành công trên hướng này có thể kể đến Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương, Vợ nhặt của Kim Lân, Mùa lạc, Đứa con nuôi của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên…. Sự chuyển hóa của con người là đi từ cái “tôi” riêng lẻ, cô đơn hòa vào cuộc sống chung, tập thể. Tập thể được miêu tả như một môi trường trong lành, tuyệt đối thành “cái nôi” của những tình cảm và tư tưởng mới (các truyện ngắn Mùa lạc, Đứa con nuôi của Nguyễn Khải ... Trong thơ trữ tình, vấn đề riêng – chung cũng được đặt ra như một chủ đề nổi bật. Riêng - chung của Xuân Diệu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên ... đều thể hiện cuộc phấn đấu và niềm vui của con người đi từ “chân trời của một người đến chân trời của tất cả” (Pôn Eeluya), cũng là con đường “từ thung lũng 6 đau thương đến cánh đồng vui” (Chế Lan Viên). Chế Lan Viên so sánh “Xưa phù du mà nay đã phù sa / Xưa bay đi mà nay không trôi mất”, và niềm hạnh phúc trong sự hòa hợp cái riêng với cái chung : “Bốn mùa vây quanh/ Con người ở giữa/ Tôi ở giữa người”. Ca ngợi cuộc sống mới, trong niềm vui của lao động được giải phóng, trong sự hài hòa của con người, với thiên nhiên và xã hội, trong hạnh phúc đổi đời... cũng là cảm hứng nổi bật của Huy Cận trong Đất nở hoa và Bài thơ cuộc đời. Con người trong Gió lộng của Tố Hữu thì tràn đầy niềm vui trong sự hòa hợp hoàn toàn cái riêng và cái chung, trong sự thống nhất của hiện tại và tương lai. Đó là con người phơi phới cảm hứng lãng mạn, lúc nào cũng như “bay lên”, “trẻ lại” với cuộc đời “ rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng” với lẽ sống “người yêu người sống để yêu nhau”. Nhìn chung, văn học của mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp đã thể hiện một kiểu quan niệm về con người được hình thành trong môi trường xã hội – lịch sử của thời kỳ “quá độ” xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình còn giản đơn và mang màu sắc lí tưởng hóa. Từ con người quần chúng với những hình tượng tập thể trong văn học kháng chiến chống Pháp đến những hình tượng nhân vật, mang tính đại diện cho một tầng lớp, một tập thể, mà ở chiều sâu của nó là sự thống nhất riêng – chung, là tư tưởng và lối sống hết mình vì tập thể, vì sự nghiệp chung, đó là bước vận động của quan niệm nghệ thuật về con người qua hai thời kì văn học. 2.3. Con người sử thi Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, đất nước và con người Việt Nam đã sống những năm đau thương, dữ dội nhất nhưng cũng thật hào hùng, chói lọi. Văn học cũng đã “nhập cuộc” nhanh chóng với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, để lên hàng đầu nhiệm vụ cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu, ý chí quyết thắng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mĩ cứu nước phát triển tập trung vào một hướng lớn và đi tới đỉnh cao của nó là quan niệm con người sử thi. Con người trong văn học chống Mĩ vẫn chủ yếu được khai thác và thể hiện trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân được thể hiện như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thậm chí, của thời đại, của nhân loại. Trong thơ Tố Hữu, Chế 7 Lan Viên, con người luôn sống với những vấn đề có ý nghĩa thời đại, với tinh thần và ý chí của cả dân tộc “Ta vì ta ba chục triệu người, Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”, “Việt Nam, Người là ai mà trở thành nhân loại?” (Tố Hữu), “Tên Tổ quốc vang xa ngoài bờ cõi, Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng” (Chế Lan Viên). Đó là con người dù ở vị trí nào cũng sống với những lí tưởng lớn lao, những tầm “vĩ mô” trong ý thức về dân tộc, thời đại, lịch sử. Con người đó đối diện với thời gian “hai mươi thế kỉ” của dân tộc, và phóng mình lên những tầm cao của không gian để nhìn “nam bắc đông tây”, hỏi cả “mặt trời đỏ dậy”, để tự hào “Cả năm châu chân lí đang nhìn theo” (Tố Hữu)... Con người của văn học chống Mĩ là con người của ý chí lớn, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mỗi con người được thể hiện như là đại diện trọn vẹn cho sức mạnh và quyết tâm của cả dân tộc, của đất nước. Ý chí ấy thấm sâu vào mọi hành động và suy nghĩ của con người. Với chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng) là câu nói nổi tiếng “còn cái lai quần cũng đánh” và hình ảnh người mẹ bụng chửa vượt mặt vẫn xông lên đánh bốt, chiếm đồn địch. Nhiều tác phẩm đặt con người trước sự lựa chọn nghiệt ngã của sống và chết để khẳng định ý nghĩa cao cả của sự hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho lí tưởng cách mạng. Từ chị Sứ, anh Trỗi, các nhân vật trong thơ Dương Hương Ly (Bài thơ về hạnh phúc), Lâm Thị Mĩ Dạ (Khoảng trời, hố bom) , dù ở hoàn cảnh thử thách khác nhau, nhưng trước cái chết họ đều giống nhau trong sự dứt khoát, thanh thản, trong sáng và cao cả, chấp nhận sự hi sinh. Đó là những con người sử thi, con người đại diện cho tầm vóc, sức mạnh, ý chí và khát vọng của cả cộng đồng, của dân tộc, đất nước, một điểm nổi bật trong con người của văn học thời kỳ này là ý thức và sự gắn bó với quê hương, đất nước. Con người trong thời chống Mĩ không chỉ sống với thời gian hiện tại và ước vọng về tương lai mà còn sống với thời gian lịch sử, đồng nhất lịch sử và hiện tại: “Khi quá khứ, tương lai soi mình trong hiện tại” (Tố Hữu). Thời kì chống Mĩ cũng là lúc ý thức về chiều sâu lịch sử, truyền thống dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ. Người ta luôn nói đến “bốn ngàn năm dồn lại hôm nay”, “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận”. Con người thời chống Mĩ sống trong sự dồn nén, cô đặc của thời gian, họ sống với nhiều thế kỉ, với những truyền thống dân tộc được khơi dậy không hề xưa cũ. Đây là điều rất mới mà con người trong các thời kì trước chưa có. 8 Với quan niệm về con người anh hùng toàn vẹn, văn học thời chống đế quốc Mĩ chú trọng mô tả con người ở các phương diện ý thức – tư tưởng, ý chí và niềm tin, cả ở hành động anh hùng và cũng chú ý khắc họa đời sống tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn. Nhiều tác phẩm đi vào khai thác cái bình tĩnh, tự tin, sự thanh thản của lòng người ngay giữa những ngày chiến tranh, thậm chí giữa chiến trường ác liệt (Tình yêu và báo động của Bằng Việt, Vầng trăng và những quầng lửa của Phạm Tiến Duật...). Thế giới tình cảm của con người thời chống Mĩ được khai thác ở nhiều mặt, bao trùm vẫn là những tình cảm cộng đồng, tình quê hương, đất nước, nhưng không thiếu những tình cảm riêng : tình cảm đôi lứa, tình cảm gia đình … Nếu như trong văn học thời chống Pháp, phần đời sống cá nhân của con người hầu như bị bỏ qua, thì văn học thời chống Mĩ lại chú trọng khai thác về thế giới nội tâm và đời sống con người trong nhiều mối quan hệ tình cảm, để làm nổi bật lên những vẻ đẹp tâm hồn, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, lý tưởng và tình cảm. Cách nhìn nhận và khai thác chủ đề tình yêu trong thơ thời chống Mĩ – đặc biệt là của nhà thơ trẻ - là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm và phương hướng thể hiện con người như thế. Từ quan niệm con người quần chúng trong văn học thời chống Pháp, với những hình tượng tập thể còn khá giản đơn thì đến thời kì chống Mĩ nhận thức về nhân dân đã đạt tới chiều sâu mới và những hình tượng nhân dân là thành công đáng kể. Hình tượng nhân dân nổi bật nhất trong các trường ca viết vào giai đoạn kết thúc và ngay sau cuộc chiến tranh (Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh), nhân dân là điểm quy tụ cho mọi nhận thức và cảm xúc về đất nước, dân tộc (Mặt đường khát vọng và Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm, Cát trắng của Nguyễn Duy...) Nhìn chung, văn học thời kì chống Mĩ đã sáng tạo những hình tượng con người mang được dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời đại ấy. Con người sử thi trong văn học thời kì này với hai phương diện nổi bật là chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn, là một đóng góp của văn học vào việc khám phá và thể hiện con người, đề cao sức mạnh và vẻ đẹp con người Việt Nam. 3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay 3.1. Con người cá nhân cá thể 9 Văn học giai đoạn 1945 – 1975 phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt của hai cuộc chiến tranh vệ quốc, nó không thể không bị chi phối bởi những quy luật bất thường. Theo sát nhiệm vụ chính trị, tự ý thức như một vũ khí tư tưởng, nó đã tập trung mọi cố gắng vào việc giáo dục, đào tạo, xây dựng “con người mới”. Phát hiện “con người cộng đồng” trong mỗi cá nhân, con người như sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng là cống hiến của văn học với tư cách một mặt trận tư tưởng. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành phương tiện khám phá lịch sử. Sau 1975, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những quy luật thời bình chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi các nhà văn đã thật sự quan tâm đến con người, có nhiều khám phá về con người. Nguyễn Minh Châu có dịp để thực hiện điều tâm niệm từ lâu : “Bây giờ ta phải cho quyền sống còn của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày càng tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”. Ông khẳng định một tư tưởng đầy sáng suốt và nhân hậu về con người để định hướng cho ngòi bút : “ Cuộc sống trên trái đất thời nào và ở đâu cũng đầy rẫy oan khiên, oan khuất, cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt đầy mưu ma chước ác quỷ, còn cái thiện thì ngu ngơ và ngây thơ, lại thường cả tin. Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế : Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không còn ai để bênh vực”. Mười năm đầu sau khi kháng chiến chống Mĩ kết thúc, văn xuôi vẫn gắn bó với truyền thống cũ, lấy lịch sử làm điểm quy chiếu, nhưng đã có sự quan tâm hơn đến số phận con người. Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra (Nguyễn Minh Châu), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi)… đã đào xới sâu hơn vào đời sống nội tâm con người, những cảm xúc, suy nghĩ riêng tư, những dằn vặt trăn trở… khiến cho nhân vật trở nên sinh động, chân thực hơn, đem đến cho người đọc ấn tượng về một hiện thực không đơn giản. Nếu trước 1975, các nhà văn có thiên hướng minh họa con người theo tiêu chí giai cấp, thì văn học sau 1975 dần dần quan tâm đến con người ở tư cách cá 10 nhân như một “ nhân vị” độc lập. Xuất hiện con người “không trùng khít với chính mình”, con người phức tạp nhiều chiều. Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là con người đối diện với chính mình, là “tòa án lương tâm” sáng suốt nhất phân xử tư cách con người. Nguyễn Khải triết lí : “Cái thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp vì sự vân động của nó luôn luôn nhằm tới cái thật cao thật xa”. Các tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam của Nguyễn Minh Châu… đều ít nhiều diễn tả cái phức tạp của đời sống, những giằng xé nội tâm khiến con người nhiều lúc như bị phân thân biến dạng. Văn xuôi từ sau 1975 còn đem lại cảm giác con người là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết hết. Các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, (trong Kiếm sắc, Vàng lửa, Tướng về hưu, Những bài học nông thôn, Chút thoáng Xuân Hương), của Nguyễn Thị Thu Huệ (trong Những đêm thắp nắng, Mùa đông ấm áp), của Ma Văn Kháng (trong Chọn chồng, Thanh minh trời trong sáng, Anh thợ chữa khóa) … đều có những tâm lí, tính cách, những hành động bất ngờ không thế đoán trước. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Con người hành động có khi theo lí trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói của tâm linh, của vô thức, bản năng. Trong văn học thời kì này thế giới con người vô cùng phức tạp: những con người khát thèm danh vọng và quyền lực, sẵn sàng chà đạp lên đạo lí trong Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)… ; những con người tầm thường, tẻ nhạt, tham lam, xấu tính, không tự ý thức được về nghĩa lí của kiếp người trong Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng (Nguyễn Minh Châu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trung du chiều mưa buồn (Ma Văn Kháng)… ; những con người méo mó nhân tính trong Những thiên đường mù (Dương Thu Hương). Con người như nó vốn có, không lí tưởng hóa, thần thánh hóa nó là đặc điểm nổi bật trong quan niệm con người của văn học từ sau 1975. Quan niệm “con người đời thường”, “con người phàm tục”, “không hoàn hảo” vừa giống như một sự đối thoại với quá khứ, khước từ những quy phạm cũ, vừa đề xuất hệ giá trị mới để đánh giá con người: hệ giá trị nhân bản. 3.2. Con người đa diện 11 a. Con người như sản phẩm của lịch sử: Văn học sau 1975 phát hiện và bổ sung thêm một hình thức mới của mối quan hệ con người – lịch sử: sự “lệch pha”, sự không thống nhất giữa con người và cộng đồng, với cơ chế xã hội. Bên cạnh con người chủ nhân của lịch sử, có thêm con người nạn nhân. Ở cấp “vĩ mô” của lịch sử, cộng đồng đi theo chiều “thuận”, nhưng ở cấp độ “vi mô”, ở một cá thể nào đó có khi lại là chiều “ngược”. Đó là tư tưởng mới của Nguyễn Khải : “Trong cuộc đổi thay, số phận của nhiều cá nhân sẽ rất bi thảm, nhưng số phận cộng đồng thời sau cũng cao hơn thời trước.” (Anh hùng bĩ vận). Ở tư cách chủ nhân lịch sử, sáng tạo ra lịch sử, con người vẫn được nhìn nhận trên tinh thần căn bản như giai đoạn trước đây. Mẫu người tích cực cao cả, toàn tâm toàn ý phụng sự cộng đồng, kiên trì lí tưởng mình vì mọi người có mặt trong nhiều tác phẩm : Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người …(Nguyễn Khải), Mảnh đất tình yêu, Cơn giông (Nguyễn Minh Châu), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi)… Bên cạnh tư cách con người lịch sử, xuất hiện tư cách con người cá nhân. Thật ra chỉ khi quan tâm đến con người như những cá nhân cụ thể, văn học mới có thể khám phá ra sự không thống nhất giữa con người với lịch sử, với những phương diện nào đó của mô hình xã hội. Có vô vàn lí do để mối quan hệ của một cá nhân với cộng đồng xảy ra trục trặc. Khi đó, có thể có bi kịch, có thể có cô đơn, bất hạnh. Cuộc đời Giang Minh Sài (Thời xa vắng) thực sự là một tấn bi hài kịch : “… nửa đời phải yêu cái người khác yêu. Nữa đời còn lại đi yêu cái mình không có”. Căn nguyên trực tiếp của bi kịch là anh ta thiếu bản lĩnh cá nhân : “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thể cứ sống như thế, không sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định của người khác, cốt là để cho đẹp mặt mọi người chứ không phải cho hạnh phúc của mình”. Nhưng căn nguyên sâu xa là sự áp đặt của cộng đồng lên cá nhân. Sài có ý thức phản kháng nhưng anh ta đã bị gia đình, họ hàng, đơn vị đè bẹp. Còn có thể tìm thấy những bi kịch cá nhân do không hòa hợp với lịch sử như ở Mê lộ (Đỗ Chu), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Bến không chồng (Dương Hướng), Bi kịch nhỏ (Lê Minh Khuê)… b. Con người duy ý chí, ảo tưởng: Văn học sau 1975 có xuất hiện những dạng con người duy ý chí. Một dạng chuyên áp đặt ý chí chủ quan lên người khác, bất chấp quy luật đời sống. Chúng rất có ý thức về quyền lực ý chí của mình mà không có khả năng hiểu biết sự thật về con người, không có khái niệm về quyền cá nhân của 12 con người (Tuyên trong Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, Bời trong Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu) … Dạng thứ hai là dạng người méo mó nhân cách, hành động không khác gì cái máy (chú Vạn trong Bến không chồng của Dương Hướng, Hà, Hiếu trong Thời xa vắng của Lê Lựu...). Dạng thứ ba của bệnh duy ý chí là kiểu người cơ hội chủ nghĩa. Những người này vừa bằng sức mạnh ý chí chủ quan, vừa lợi dụng lòng tin mù quáng của kẻ khác để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân (Dương, Cẩm trong Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Luông trong Côi cút giữa cảnh đời....) Việc phê phán mạnh mẽ quan niệm duy ý chí qua các nhân vật trên cũng chính là để đi đến một quan niệm đầy đủ hơn, hợp lí hơn về con người. Đây là hứng thú, một nội dung quan trọng của sự thể hiện con người trong văn xuôi từ sau 1975. c. Con người mang thuộc tính nhân loại: “Nhân tính” hay “con người nhân loại” là một đặc điểm trong quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975. Nỗi buồn chiến tranh của Kiên (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh) chính là khát vọng hòa bình của loài người. Quy (Chim én bay – Nguyễn Trí Huân) đi qua cuộc chiến tranh, trở về đời sống bình thường mà không sao sống thanh thản được. Chị luôn luôn day dứt mãi với kỉ niệm về “những cái chết mà chị gieo cấy” cho kẻ thù. Chị cứ “muốn tìm lại nhà những thằng ác ôn bị chị giết chết hơn mười năm trước. Cái gì đã thúc đẩy chị, chị không thể giải thích được”. Tình yêu là phương tiện thể hiện rõ nhất tính nhân loại của con người. Vì mang tính cá nhân nên trong hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ nó ít có cơ hội thể hiện. Bởi “Khi riêng tây ta thấy mình xấu hổ” (Chế Lan Viên). Bây giờ tình yêu đi liền với những khao khát hạnh phúc đời thường, những khao khát bản năng; không chỉ khát khao dâng hiến mà còn là khát vọng hưởng thụ tình yêu, không chỉ là tình yêu lí tưởng mà còn là tình yêu trần thế, không chỉ yêu về tinh thần mà còn là về thể xác....Thơ khai thác tình yêu ở nhiều khía cạnh: hạnh phúc hay đau khổ, lí tưởng và đời thường, được và mất... nhưng có lẽ nhiều hơn cả là những bi kịch, nghịch lí éo le, xót đắng để chia sẻ, đồng cảm với con người (Lê Thị Mây, Đoàn Thị Lam Luyến, Đinh Thị Thu Vân...). Thơ tình thế hệ trẻ những năm gần đây bắt đầu xuất hiện sự quyết liệt, táo tợn. Ngay cả cách đặt nhan đề bài thơ cũng đã khác: Giấc mơ của lưỡi, Thất vọng tạm thời, Mùa anh, Thung lũng anh và em.... (Vi Thùy Linh), Lỗ rỗng, Căng, Nẻ, Đào thoát (Phương Lan)... 13 Việc trình bày nỗi đau khổ, cảm giác bất hạnh cô đơn, sự ghê tởm bạo lực, việc đề cao những tình cảm có tính nhân bản của con người… cũng là những khám phá phần con người nhân loại. Đây là điều kiện cần có để mở rộng quan niệm nghệ thuật về con người, giúp cho văn học phản ánh cuộc sống một cách đa dạng, phong phú, chân thực hơn. d. Con người như một thực thể tự nhiên: Văn học thời kì này còn nhìn con người như một sản phẩm tự nhiên với một số phương diện mà văn học Việt Nam trước 1975 hầu như không đề cập tới : nhu cầu tình dục, bản năng của con người. Một thời kì khá dài, do hoàn cảnh chiến tranh căng thẳng, tinh thần khắc khổ dần dần thấm sâu vào lối sống, cách nghĩ của con người khiến một số nhu cầu tự nhiên bị hạ thấp, bị phủ nhận. Văn học sau 1975 dường như có nhu cầu cân bằng lại. Với nhu cầu tình dục, số đông tác phẩm đã diễn tả vấn đề với tinh thần lành mạnh và dân chủ. Ở văn xuôi, Võ Thị Hảo trong Người sót lại của rừng cười viết về một cảnh ngộ thật thương tâm của những người nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ cứu nước, những con người đã “từng qua chiến tranh, trải qua nỗi cô đơn đặc quánh”. Chuyện trong Bốn mươi chín cây cơm nguội của Nguyễn Quang Lập không nghiệt ngã tới mức ấy, nhưng cũng để lại cảm giác tê tái buồn thương. Người con gái đi qua chiến tranh, không còn cơ hội tạo dựng hạnh phúc, nhưng nhu cầu ái ân không thôi ám ảnh, giữa khuya, chị đã lao vào cơn mưa mịt mù, đi như kẻ mộng du, áp mặt vào một thân cây cơm nguội để tự lừa mình đó là khuôn ngực đàn ông. Ở chừng mực đậm nhạt khác nhau, rất nhiều tác phẩm có hứng thú diễn tả tình dục, đưa tình dục vào nhãn quan văn hóa và nhân văn : Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Đám cưới không có giấy giá thú, Chọn chồng (Ma Văn Kháng) … Ở thơ, nếu những năm 60, những hình ảnh sex trong Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng bị coi là những hình ảnh sống sượng, trắn trợn; Dư Thị Hoàn khiến cho bao người kinh ngạc khi dám đưa vào thơ cả chuyện: “Sau giây phút/ Êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài khuy áo ngực cho em” (Tan vỡ), thì đến hôm nay, một đội ngũ đông đảo những cây bút trẻ của thế kỉ XXI dám nói một cách thành thực, táo bạo nhất những điều riêng tư nhất. Họ sẵn sàng phơi trần những khát khao đam mê: “Em yêu anh cuồng điên/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung kí ức” (Người dệt tầm gai), “Khỏa thân trong chăn/ Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối 14 lên đùi/ Mình ôm lấy anh ôm mình/ Biết sự bình yên của mặt đất” (Chân dung – Vi Thùy Linh). Tình yêu và tính dục được phơi bày một cách cuồng bạo, mãnh liệt trong thơ Phương Lan, Quế Chi, Lynh Bacardi, Khương Hà... e. Con người và đời sống tâm linh: Con người tâm linh là phương diện mới của quan niệm về con người trong văn học sau 1975. Một số tác phẩm văn xuôi đề cập đến khả năng bí ẩn của con người, sự “thông linh” giữa người sống với người chết, giữa cõi âm và cõi dương. Trong Nỗi buồn chiến tranh, Kiên và đồng đội của anh đã không ít lần nghe thấy những tiếng chuyện trò, đàn hát, những tiếng khóc, tiếng gọi nhau dội lên từ dưới tầng sâu của cánh rừng đại ngàn. Linh cảm của Kiên ở tác phẩm này cũng như những lời tiên tri của Viên trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng cuối cùng đều ứng nghiệm cả. Ở Chim én bay, cậu bé Dũng giống như đã thấy trước được cái chết của mình. Sự bí ẩn của cuộc đời khiến nhân vật Quy (người bạn gái của Dũng) cho đến khi đi trọn cuộc chiến tranh, nếm trải bao biến cố, trở nên dày dạn “vẫn âm thầm tự hỏi liệu con người có khả năng biết trước những điều sắp xảy ra với mình không ?”. Các nhà thơ cũng chú trong khai thác thế giới tâm linh của con người. Thế giới thơ Hoàng Cầm là thế giới hư hư thực thực, mông lung, vô định: “Hư vô tràn hơi ấm/ Cõi thực lạnh trăm chiều/ Mê lộ khép đìu hiu/ Khi nửa mình vắng bóng” (Vào đường mê). Hoàng Cầm còn viết về những người đã khuất, những mối tình đã thành kỉ niệm, những người tình đã thành thiên cổ. Giữa họ và nhà thơ vẫn có những mối thông giao, cách mặt mà không khuất lời, tình sâu vẫn ăm ắp. Tập thơ 99 tình khúc là cuộc trò chuyện giữa thi nhân với 13 người con gái đã đi qua đời ông. “Khắp thơ ông cứ vang vọng tiếng khấn khứa. Mỗi thi phẩm như một giá đồng” (Chu Văn Sơn). Nguyễn Quang Thiều cũng luôn bị ám ảnh bởi linh hồn những người đã chết. Chết chỉ có nghĩa là kết thúc sự sống sinh học, còn có một đời sống khác ở ngoài con người. “Họ tiếp tục sống một đời sống đột ngột bị cắt đứt/ Họ tiếp tục mơ những giấc mơ bị tan biến giữa chừng”, và “mượn thân xác chúng ta, mượn giọng nói chúng ta” (Đoản ca về một buổi tối). Thế giới tâm linh còn bao phủ trong cả thơ Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Từ Dạ Thảo.... Nhìn chung, việc thừa nhận sự tồn tại của đời sống tâm linh, sự khám phá, phát hiện các năng lực bí ẩn cũng như biểu hiện của nó là một đóng góp mới của văn xuôi sau 1975, khẳng định quan niệm đa chiều, giàu ý nghĩa nhân bản về con người. 15 Với sự mở rộng một số bình diện khám phá con người, các nhà văn đã xác lập được một hệ thống tiêu chí giá trị phù hợp với con người trong thời đại mới. Sự thay đổi hay mở rộng hệ giá trị như vậy sẽ tạo điều kiện cho văn học nước ta hòa nhập với văn học thế giới. C. PHẦN KẾT LUẬN Từ 1945 đến nay, nền văn học Việt Nam đã đi qua một chặng đường dài đầy biến động. Sự biến động của lịch sử, tư tưởng, xã hội đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người của văn học ba mươi năm chiến tranh cho đến thời kì đổi mới và xây dựng đất nước có cơ sở từ trong đời sống xã hội - chính trị, đồng thời cũng thể hiện trình độ ý thức, mức độ phát triển của nền văn học. Quan niệm ấy chi phối cả nền văn học, ở từng thể loại văn học và mỗi tác giả nhưng ở mỗi nhà văn lại có những nét riêng những đặc điểm và sự quy định không giống nhau tạo thành quan niệm riêng của họ. Ở giai đoạn hiện nay, văn học Việt Nam cũng đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện. Sự biến đổi quan niệm về con người vẫn là trung tâm mọi biến đổi của nền văn học đang ở trong một thời kì đầy phức tạp và chuyển động mạnh mẽ. Mọi chuyển biến đang theo hướng tích cực, hướng tới xây dựng một nền văn học vì con người, dân chủ, giàu tính nhân văn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 1. Nguyễn Thị Bình. Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản. NXB Giáo dục, 2007 2. Nguyễn Khoa Điềm. Một vài cảm nhận về đời sống văn chương hôm nay. Báo Văn nghệ số 35, 1994 3. Lê Bá Hán. Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999 4. Đỗ Đức Hiểu. Đổi mới phê bình văn học. NXB Khoa học xã hội, 1993 5. Nguyễn Văn Long. Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXB Giáo dục, 2002 6. Nguyễn Văn Long. Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. NXB Đại học Sư phạm, 2007 7. Nguyễn Đăng Mạnh. Chân dung văn học. NXB Thuận Hóa, 1990 8. Nguyễn Phượng. Sự đổi mới quan niệm về con người trong văn học Việt Nam mười năm cuối thế kỉ XX. www.doko.vn 9. Trần Đình Sử. Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo dục, 2005 10. Đặng Thu Thủy. Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay, những đổi mới cơ bản. NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2011 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan