Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình leo thang chiến tranh của mĩ tại việt nam (1954 1969)...

Tài liệu Quá trình leo thang chiến tranh của mĩ tại việt nam (1954 1969)

.PDF
147
328
71

Mô tả:

1 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................. Trang 3 MỞ ĐẦU .................................................................................................. 4 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ........................................... 4 2. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................... 20 3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 24 4. Cách tiếp cận đề tài ............................................................................. 24 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 24 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 25 7. Đóng góp của đề tài ............................................................................. 25 8. Nội dung nghiên cứu ........................................................................... 26 Chương 1. Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Mĩ (1945 – 1954) ..... 27 1.1. Tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai .............................. 27 1.2. Sự ra đời chiến lược toàn cầu của Mĩ ................................................... 28 1.3. Mĩ triển khai chiến lược toàn cầu với mục tiêu “châu Âu trước hết”... 32 1.4. Mĩ mở rộng chiến lược toàn cầu sang châu Á ...................................... 36 1.5. Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Mĩ (1945 – 1954) ................. 41 Chương 2. Sự can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Việt Nam dưới thời Tổng thống D. Eisenhower và J. Kennedy (1953 – 1963).......... 51 2.1. Tổng thống D.Eisenhower và chính sách “đẩy lùi cộng sản” ............. 51 2.1.1. Sự thất bại của “giải pháp Bảo Đại”............................................ 51 2.1.2. Mĩ với “Giải pháp Ngô Đình Diệm”............................................. 55 2.1.3. Quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược của Eisenhower ..... 60 2.2. Việt Nam – “Hòn đá tảng” trong chiến lược toàn cầu của Kennedy ở châu Á ............................................................................................... 62 2.2.1. Mĩ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tại miền Nam ... 62 2.2.2. Quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. .............. 69 Chương 3. Việt Nam trong chính sách của Lydon B.Johnson (1963 – 1969) ............................................................................... 72 3.1. Quá trình “leo thang” quân sự” của Mĩ tại Nam Việt Nam ................. 72 3.1.1. Tình hình miền Nam sau đảo chính Ngô Đình Diệm .................... 72 2 3.1.2. Mĩ tiến tới tham chiến trực tiếp tại Nam Việt Nam ....................... 73 3.1.3. Sự “leo thang” quân sự của Mĩ ở miền Nam Việt Nam ................ 77 3.1.4. Quân và dân miền Nam đánh bại “chiến tranh cục bộ” của Mĩ .. 87 3.2. Chính sách của Mĩ đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa ..................... 89 3.2.1. Mĩ “leo thang” ném bom miền Bắc Việt Nam .............................. 89 3.2.2. Quân và dân miền Bắc Việt Nam đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ .............................................................. 100 3.3. Quá trình Mĩ tìm một “giải pháp phù hợp” cho chiến tranh Việt Nam .......................................................................... 103 3.3.1. Những cuộc thương lượng “gián tiếp” giữa Mĩ – VNDCCH s(1964 – 1965): chính sách “cây gậy và củ cà-rốt” .................... 103 3.3.2. Những “sáng kiến hòa bình” của Johnson (1965-1967) ............ 106 3.4. Quá trình “xuống thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam ................ 118 3.4.1. Nguyên nhân Mĩ phải “xuống thang chiến tranh” ở Việt Nam .. 118 3.4.2. Hội đàm Mĩ-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Paris năm 1968 .... 126 KẾT LUẬN ................................................................................................... 133 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 138 3 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ANZUS Khối hiệp ước quân sự Australia-New Zealand-Mĩ CHND Cộng hòa Nhân dân CIA Cơ quan Tình báo Trung ương Mĩ MAAG Phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Mĩ MACV Bộ chỉ huy quân sự Mĩ tại miền Nam Việt Nam MTDTGPMNVN Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam NATO Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương NSAM Bị vong lục Hành động An ninh Quốc gia NSC Nghị Quyết Hội đồng An ninh Quốc gia OPLAN 34A Kế hoạch tác chiến 34A bí mật chống lại Bắc Việt Nam OSS Cơ quan Tình báo chiến lược ROK Đại Hàn Dân Quốc SANE Nhóm hoạt động vì hoà bình SCAP Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh SEATO Khối quân sự Đông Nam Á SKILA Nghị viện Lập pháp quá độ Nam Triều Tiên UNTCOK Ủy ban lâm thời Liên Hiệp Quốc về Triều Tiên USAMGIK Chính phủ quân quản Mĩ tại Triều Tiên VNCH Việt Nam Cộng hòa VNDCCH Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 4 MỞ ĐẦU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước Mĩ. Từ năm 1954-1969, các tổng thống Mĩ từ Eisenhower, Kennedy đến L.B.Johnson đã từng bước can dự vào Việt Nam. Đặc biệt, thời kì cầm quyền của Tổng thống L.B.Johnson (từ tháng 11-1963 đến ngày 20-1-1969) được xem là thời kì “leo thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam. Chiến tranh đã vượt ra khỏi phạm vi miền Nam và lan rộng ra Bắc Việt Nam. Đây cũng là thời kì mà người Mĩ vừa tăng cường sự hiện diện về quân sự, vừa tăng cường viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn và vừa mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, Mĩ cũng thực hiện cuộc vận động ngoại giao tìm cách thương lượng với Hà Nội để kết thúc chiến tranh. Nhưng cuối cùng, những âm mưu của Mĩ đã bị nhân dân Việt Nam đánh bại hoàn toàn bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Từ đó, Johnson buộc phải “xuống thang” chiến tranh tại Việt Nam. Việc một cường quốc số một thế giới lại chịu thất bại tại một chiến trường Việt Nam xa xôi đã không những tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mĩ mà còn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới. 1.1. Nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam Về nguyên nhân Mĩ thay Pháp và quyết định tiếp tục chính sách xâm lược và cho quân đội Mĩ, đồng minh của Mĩ sang tham chiến trực tiếp ở Nam Việt Nam, mở rộng các hoạt động đánh phá Bắc Việt Nam cũng có nhiều cách lý giải khác nhau. Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Hồ Chí Minh (1976), Vì độc lập tự do, vì Chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội đã tập hợp những bài nói và viết cơ bản nhất của Hồ Chí Minh từ năm 1920 – 1969. Trong đó, từ trang 253 – 339 là tập hợp các bài phát biểu của Hồ Chí Minh từ năm 1964 đến năm 1969. Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều nhận định, phân tích về các nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam, phê phán những âm mưu, thủ đoạn của Mĩ thực hiện ở Việt Nam và khẳng định quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam. Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27 và 28-3-1964, Người đã cho rằng “Mĩ và bè lũ tay sai đã phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, chia cắt nước ta, gây ra cuộc chiến tranh tàn khốc ở miền Nam”[59, tr.254]. Mục tiêu của Mĩ là “biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự của Mĩ, để chia cắt lâu dài nước ta..”[59, tr.276]. 5 Bên cạnh đó, Viện Mac-Lênin (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mĩ, cứu nước, tập 1 (1954-1965), NXB Sự thật, Hà Nội đã tập hợp những văn kiện Đảng về phân tích tình hình và chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng từ năm 1954 – 1965. Trong đó, từ trang 159 – 172 cũng đã đề cập đến tình hình miền Nam từ sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Theo đó, Trung ương Đảng khóa III tháng 12-1963 đã đưa ra những đánh giá về cuộc chiến tranh của Mĩ ở Nam Việt Nam và xác định loại hình chiến tranh Mĩ tiến hành là “Chiến tranh đặc biệt”. Mĩ xâm lược nước khác là phụ thuộc vào “những nhân tố khách quan sau đây: lực lượng so sánh chung trên thế giới và ở nơi đó; tính chất của những quyền lợi của đế quốc Mĩ và tính chất của những mâu thuẫn mà Mĩ phải đương đầu ở nơi đó”[86, tr.164]. Sau đó, Hội nghị Trung ương Đảng khóa III tháng 3-1965 cũng khái quát tình hình cuộc chiến ở miền Nam và Mĩ đã “từng bước đưa lực lượng chiến đấu của Mĩ và chư hầu vào miền Nam để quyết giữ một số vùng chiến lược quan trọng, ngăn chặn sự tan rã của quân đội tay sai…đồng thời, chúng mở rộng hoạt động không quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm cho ta giảm sức tiến công chúng ở miền Nam, hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam…và chiến tranh đã vượt ra khỏi phạm vi miền Nam lan đến miền Bắc”[86, tr.213]. Như vậy, Trung ương Đảng khóa III đã nêu lên được mục đích và quy mô chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam năm 1965. Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, NXB Sự thật, Hà Nội là một tập văn kiện lịch sử quan trọng để giúp người đọc nhìn nhận quá trình xâm lược Việt Nam một cách hệ thống thông qua những báo cáo, diễn văn quan trọng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong Báo cáo trước Quốc hội ngày 8-4-1965 (trang 70 – 127), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tố cáo tội ác của Mĩ ở Việt Nam. Ông cũng vạch ra được những nét khái quát về quá trình xâm lược Việt Nam của Mĩ từ năm 1954 – 1965. Theo đó, nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam là “hòng biến miền Nam thành một căn cứ quân sự và một thuộc địa kiểu mới của Mĩ, chuẩn bị một cuộc chiến tranh mời để xâm lược miền Bắc nước ta và cả khu vực Đông Nam Á”[23, tr.74]. Lê Mậu Hãn (cb) (2003), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, NXB Giáo dục, Hà Nội. Đây là một giáo trình dùng để giảng dạy, nghiên cứu cho giảng viên, sinh viên các trường đại học. Tác phẩm này bao gồm toàn bộ Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 – 2000. Trong đó, các tác giả dành từ trang 171 – 220 để trình bày cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân miền Nam Bắc. Theo đó, Johnson can thiệp trực tiếp vào Việt Nam là vì muốn “nắm chắc được chính quyền Sài Gòn” và “nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có thể áp đảo được chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới “tìm-diệt”, có giành lại thế chủ động trên chiến trường”[30, tr.201]. 6 Năm 2010, tác giả Nguyễn Đình Lê trong Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975, NXB Giáo dục Việt Nam cũng cho rằng nguyên nhân Johnson tiếp tục chiến tranh là “để cứu vãn tình thế, Mĩ tiếp tục mở bước phiêu lưu quân sự mới…Mĩ cho rằng, quân đội Mĩ sẽ nhanh chóng đè bẹp lực lượng yêu nước của Việt Nam trong một thời gian ngắn”[53, tr.156] nên Johnson quyết định tiến hành chiến tranh Cục bộ ở Nam Việt Nam. Hay như tác giả Nguyễn Đình Ước (2010), Mục tiêu của Hoa Kì và Việt Nam trong chiến tranh, trích trong Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước: những mốc son lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã cho rằng “từ năm 1955 đến năm 1975, Hoa Kì đã dùng mọi biện pháp để chia cắt lâu dài nước Việt Nam, áp đặt ở miền Nam Việt Nam một chế độ, một bộ máy cai trị hoàn toàn lệ thuộc vào Hoa Kì [37, tr.312]. Cũng đồng quan điểm trên, Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã cho tái bản Bộ Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975 với 9 tập (3.800 trang sách) để nói về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ năm 1954 – 1975. Trong đó, Tập 3: Đánh thắng chiến tranh đặc biệt, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã trình bày những âm mưu, thủ đoạn của Mĩ và tay sai và những thành tựu của nhân dân hai miền Nam Bắc trong việc đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ. Từ trang 327 – 337 trình bày về những chủ trương của chính phủ Mĩ đối với Nam Việt Nam kể từ khi Johnson lên làm Tổng thống. Theo đó, Mĩ tiếp tục chính sách chiến tranh ở Việt Nam và “hành động trước mắt của Mĩ là gia tăng các hoạt động quân sự…nhằm giúp đỡ nhân dân và chính phủ Nam Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ…”[10, tr.329]. Bên cạnh đó, Bộ Miền Nam giữ vững thành đồng gồm 6 tập để trình bày cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Miền Nam từ năm 1954 đến cuối năm 1969. Trong đó, có các tập liên quan đến thời kì cầm quyền của Johnson như sau: Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập III. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình bày tình hình Nam Việt Nam từ sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ cho đến kết thúc chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1963 – 1965). Từ trang 5 – 165 nói về tình hình chính trị của chính quyền Sài Gòn. Đây là một giai đoạn xáo trộn nghiêm trọng, hàng loạt cuộc đảo chính, lật đổ diễn ra trong nội bộ chính quyền Sài Gòn. Từ trang 166 – 329 trình bày về các chiến lược quân sự của Mĩ ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình bày giai đoạn từ khi Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam (7-1965) cho đến trước ngày Tổng tiến cộng nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Theo đó, từ trang 7 302 – 349 nói về tình hình khủng hoảng trầm trọng của chính quyền Sài Gòn trong những năm 1965 – 1967. Từ trang 5 – 38 lý giải nguyên nhân và chứng minh quá trình “leo thang” chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Hoàn cảnh buộc Mĩ phải chuyển từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Nhìn chung, ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ như: Một là các công trình chủ yếu tiếp cận “chính sách chiến tranh” của Mĩ đối với Việt Nam. Hầu hết các công trình đều tiếp cận đến góc độ quân sự: sự xâm lược của Mĩ và cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam mà chưa chú trọng đến những vấn đề khác. Sự tập trung quá nhiều vào quân sự vô hình chung đã làm cho người đọc sẽ hiểu là “chính sách của Mĩ với Việt Nam chỉ chủ yếu là mục tiêu quân sự”, điều này cần phải tiếp tục làm rõ. Hai là các công trình trên thường xuất phát từ quan điểm của Việt Nam để nhìn nhận, đánh giá về chính sách của Mĩ nên chưa có những tư liệu, văn kiện gốc từ chính phủ Mĩ. Điều này dễ dẫn đến sự chủ quan trong đánh giá sự kiện. Do đó, chúng tôi nhận thấy phải có sự bổ sung tài liệu từ phía Mĩ để chúng ta có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan và toàn diện hơn. Ba là các công trình nghiên cứu trên tập trung phần lớn vào thành quả công cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam mà chưa phân tích được những động lực, mục tiêu chính sách mà chính phủ Johnson thực hiện ở Việt Nam. Từ những lý do đó, chúng tôi nhận thấy cần phải dựa trên nguồn tư liệu gốc của Mĩ để tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn về nguyên nhân Mĩ tiếp tục xâm lược Việt Nam từ 1954-1969. Bên cạnh những công trình nghiên cứu trong nước, một số nhà khoa học Việt Nam ở hải ngoại cũng đã cho xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam như: Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hùng dịch, NXB Lao Động, Hà Nội là một tài liệu tham khảo có giá trị về những chính sách của Mĩ đối với Việt Nam trong thời kì 1954 – 1975 vì tác giả là người trong cuộc và cập nhật được nhiều nguồn tư liệu từ Mĩ. Từ trang 69 – 106, tác giả đã trình bày về sự kiện Mĩ lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm và tình hình miền Nam trong những năm đầu thập niên 60. Tác giả cũng nêu lên Thuyết Domino để lý giải quá trình Mĩ can thiệp sâu vào Việt Nam. Theo đó, “để ngăn cản cộng sản miền Bắc Việt Nam kiểm soát hoàn toàn miền Nam Việt Nam mà Mĩ coi là thành lũy chiến lược của thế giới tự do, bây giờ, Mĩ bắt buộc phải trực tiếp 8 tham gia vào cuộc chiến..”[21, tr.93]. Như vậy, tác giả cho rằng nguyên nhân chính để Mĩ xâm lược trực tiếp Việt Nam là vì nhân tố chính trị chứ không phải quân sự. Để khẳng định quan điểm này, tác giả còn cho rằng “…đối phương chủ yếu của Mĩ lúc đó là Trung Hoa Cộng sản” và “Mĩ không dám tính đến các cuộc hành quân trên bộ ngoài miền Nam”[21, tr.106]. Bùi Diễm (2000), Gọng kìm lịch sử, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Paris đã trình bày những vấn đề chính sách của Mĩ đối với Việt Nam. Trong đó, tác giả đề cập nhiều đến tình hình Nam Việt Nam, những quyết định của Mĩ đối với Việt Nam. Trong đó, từ trang 195 – 210, 241 – 256 trình bày về thực trạng tình hình chính trị và quân sự tại Nam Việt Nam. Tác giả đi sâu vào phân tích những mâu thuẫn gay gắt và bất ổn của chính quyền Sài Gòn. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên thái độ của Washington đối với Sài Gòn và cho rằng tình trạng khủng hoảng trầm trọng ở Nam Việt Nam là do chính sách can thiệp nửa vời của Mĩ. Tác giả còn cho rằng giữa “Mĩ và VNCH không thực sự hiểu nhau nên ít thông cảm cho nhau”[18, tr.216]. Thậm chí, Mĩ còn thái độ ngập ngừng khi can thiệp vào Việt Nam. Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mĩ và chiến tranh Việt Nam 1945 – 1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, USA trình bày về đường lối của chính phủ Mĩ khi thực thi những quyết định về chiến tranh Việt Nam. Trong đó, chương 2 từ trang 51 – 94 trình bày về nguồn gốc chiến tranh Việt Nam của Mĩ. Chương 5 từ trang 191 – 226 cũng cung cấp thêm tư liệu về những quyết định của tổng thống Mĩ như Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia của Tổng thống Johnson như NSAM 273, NSAM 288. Theo đó, NSAM 273 đã “đưa đến một sự thay đổi toàn diện của chính phủ Mĩ đối với cuộc chiến ở Việt Nam”[70, tr.192]. NSAM 288 “cho phép chính phủ Mĩ viện trợ thêm vũ khí cho 55 ngàn tân binh của VNCH, Mĩ cho VNCH một ngân khoản viện trợ khác được chấp thuận thêm để giúp VNCH ổn định thế lục chính trị ở miền Nam”[70, tr.202]. Các bị vong lục này đánh dấu sự tiếp tục chiến tranh và can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam của Mĩ. Như vậy, một số nhà khoa học Việt Nam ở hải ngoại đã không hoàn toàn thống nhất với các nhà khoa học trong nước về nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam. Họ đề cập nhiều khía cạnh của vấn đề hơn nhưng vẫn tập trung vào lý giải nguyên nhân chính trị quan trọng hơn quân sự. Do đó, chúng tôi thấy cần thiết phải làm rõ vấn đề này. Ngoài những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, chiến tranh Việt Nam cũng dành được sự quan tâm, nghiên cứu của một nhà khoa học, chính trị thế giới như: H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ: 9 L.Johnson và Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM. Đây là mộ công trình nghiên cứu khá toàn vẹn về giai đoạn cầm quyền của Tổng thống Johnson. Những quyết định điều chỉnh chiến lược của Johnson đã được thể hiện khá rõ trong công trình. Từ trang 27 – 73 lý giải về nguyên nhân quá trình Tổng thống L.Johnson ra các quyết định can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Nam Việt Nam trong năm 1964 – 1965. Tác giả đã trình bày thực trạng khủng hoảng trầm trọng của Nam Việt Nam và những chính sách của Johnson về Việt Nam như các Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia (NSAM 288, NSAM 328) và Kế hoạch OPLAN 34A về phá hoại Bắc Việt Nam. Theo đó, “giới lãnh đạo Mĩ đã bắt đầu thấy rõ thêm mà trước đây chưa thấy rằng tình hình Việt Nam đang suy sụp quá tồi tệ đến mức nỗ lực đầu tư Mĩ vào đấy từ trước đến nay không thể thay đổi được chiều hướng”[29, tr.28]. George Herring (1996), America`s Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975, Third Edition, McGraw-Hill, Inc. Đây là công trình nghiên cứu về vai trò của người Mĩ tại Việt Nam từ 1950-1975. Theo đó, nguyên nhân để Mĩ tiến hành xâm lược Việt Nam là “nếu khu vực này (Đông Dương) bị chủ nghĩa cộng sản kiểm soát, "chúng ta sẽ phải gánh chịu một thất bại thảm hại về mặt chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn trên toàn thế giới"[100, tr.15]. Từ trang 139 – 182 trình bày về tình hình miền Nam Việt Nam sau đảo chính Ngô Đình Diệm. Cuối 1963, Johnson lên làm Tổng thống và tiếp tục chính sách của Kennedy với mục tiêu cứ làm như trước nhưng hiệu quả lớn hơn. Do đó, Johnson quyết định tăng cường viện trợ kinh tế và tăng lực lượng cố vấn quân sự Mĩ ở Sài Gòn lên một mức độ mà ông cho là “đủ, nhưng không quá nhiều”. Johnson đã phê chuẩn việc đưa quân sang tham chiến trực tiếp ở miền Nam và tiến hành những cuộc không kích phá hoại Bắc Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu quá trình sa lầy kéo dài của Mĩ ở Việt Nam và cũng góp phần làm cho sự nghiệp của ông phải kết thúc vào năm 1968. Tuy nhiên, tác giả chưa tiếp cận nhiều đến tài liệu gốc từ phía Mĩ và việc nhìn nhận, đánh giá vấn đề còn nhiều hạn chế. Tác giả chưa lý giả rõ nguồn gốc của sự kiện vịnh Bắc Bộ cũng như tính chất xâm lược của Mĩ tại Việt Nam. Do đó, những vấn đề này cần tiếp tục làm rõ. Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách McNamara định không bao giờ viết ra vì đề cập đến nguyên nhân Mĩ xâm lược và thất bại tại Việt Nam. Tác giả cho rằng chiến tranh Việt Nam là “sai lầm, sai lầm khủng khiếp” của Mĩ. Từ trang 99 – 135 trình bày về thực trạng miền Nam sau khi Diệm bị lật đổ và quá trình chính quyền Johnson tiếp tục cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Tình hình đen tối ở Nam Việt Nam là một trong 10 những nguyên nhân chính để chính phủ Mĩ sâu hơn vào Việt Nam trong những tháng đầu cầm quyền của Johnson vì “Xu thế hiện nay, trừ khi có thể đảo ngược trong hai - ba tháng tới, tốt nhất thì sẽ dẫn đến trung lập hoá, hoặc có nhiều khả năng hơn là sẽ dẫn đến một quốc gia do cộng sản kiểm soát”[72, tr.116]. Hoặc trong báo cáo ngày 15-5-1965, CIA đã gửi một đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam và cho rằng “tình hình bao trùm ở Nam Việt Nam là cực kỳ mỏng manh… Nếu chiều hướng đang xấu đi này không bị chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của Nam Việt Nam sẽ không thể đứng vững”[72, tr.129]. Do đó, chính quyền Johnson tiếp tục chính sách của Kennedy và cho quân sang tham chiến trực tiếp tại Nam Việt Nam. Frances Fitzgerald (2004), Lửa trong lòng hồ, Lê Sỹ Giảng, Nguyễn Nam Sơn dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội. Đây là một trong số ít công trình của người Mĩ nghiên cứu về Việt Nam dưới nhiều góc độ chính trị, quân sự, kinh tế và đặc biệt là văn hóa của người Việt. Tác giả đã phác họa được sự khác biệt về ý thức chính trị của người Việt Nam. Tác giả lý giải về nền chính trị của Việt Nam và những ảnh hưởng của sự hiện diện quân Mĩ tại đây. Ttừ trang 338 – 408 đã trình bày khái quát tình hình miền Nam Việt Nam và quá trình Mĩ nhảy vào tham chiến. Sự hiện diện của quân Mĩ và đồng minh của Mĩ tại Nam Việt Nam đánh dấu sự “leo thang” chiến tranh của Mĩ. Theo đó, Johnson cho rằng “việc mất Việt Nam ảnh hưởng xấu đến lợi ích của Mĩ và là điều không thể chấp nhận được đối với công chúng Mĩ”[25, tr.393]. Ngoài ra, tác giả cũng cung cấp một số tư liệu về phát biểu của Johnson năm 1965, 1966, của McNamara năm 1964, M.Taylor năm 1964. Đây cũng là những tư liệu cần thiết để tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam giai đoạn này. Ép-ghê-ni Đê-ni-xốp (1972), Đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, Bản Tiếng Việt, NXB Thông tấn xã Nô-vô-xti, Mat-xcơ-va. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị vì tiếp cập được với nhiều nguồn tư liệu phong phú từ Mĩ. Tác giả đã khái quát được những mục tiêu của Mĩ ở Đông Nam Á và việc triển khai lực lượng quân sự của Mĩ ở khu vực này. Điều khác biệt nữa là tác giả cũng nêu lên được chiến lược về kinh tế và xã hội của Mĩ thực hiện ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, với dung lượng 160 trang mà tác giả nêu rất nhiều vấn như vậy nên chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát. Tác giả chưa đánh giá hết được vị trí địa chiến lược, địa chính trị, địa kinh tế của Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Joe Allen (2009), Việt Nam: Cuộc chiến thất bại của Mĩ, Đào Tuấn dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội đã đề cập đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm cho đến cuộc tiến công nổi dậy tết Mậu Thân 1968, sự ra đời của phong trào chống chiến tranh đến năm 1968…trình bày về hoàn cảnh lịch sử miền Nam, chính sách của 11 Mĩ và vai trò của phong trào phản chiến đối với chiến tranh Việt Nam. Theo đó, tác giả cho rằng nguyên nhân Johnson mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam vì “bất kì điều gì ít hơn một chiến thắng tổng thể của chủ nghĩa đế quốc Mĩ đều bị coi như là mộ thất bại” và “sự đầu hàng ở bất kỳ nơi nào đe dọa sự thất bại ở mọi nơi” [47, tr.61]. Như vậy, các nhà nghiên cứu nước ngoài phần lớn đều thống nhất quan điểm với nhau về nguyên nhân để chính phủ Johnson tiếp tục chính sách chiến tranh và mở rộng cuộc xâm lược, phá hoại Bắc Việt Nam là xuất phát từ mục tiêu địa chính trị của Việt Nam trong chiến lược toàn cầu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản của Mĩ. Còn việc tăng viện trợ, quân sự là những giải pháp để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra của Mĩ. Tóm lại, về nguyên nhân chính quyền Johnson xâm lược Việt Nam hiện còn nhiều quan điểm và cách lý giải dưới nhiều góc độ khác nhau. Do đó, chúng tôi nhận thấy việc dựa trên những Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mĩ đã được giải mật trong thời gian quan để làm rõ vấn đề này là một việc làm cần thiết. Qua đó, chúng tôi cập nhật được những quan điểm “chính thống” của người Mĩ và hiểu hơn về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mĩ. 1.2. Chính sách của Mĩ đối với miền Nam Việt Nam Từ năm 1954-1969, các tổng thống Mĩ tiếp tục thực hiện chính sách với Việt Nam và thực hiện nhiều sự điều chỉnh chiến lược đối với Việt Nam. Do đó, việc tìm hiểu chính sách của Mĩ đối với Việt Nam cũng có nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận với những góc độ khác nhau. Ở Việt Nam, chính sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam đã được đề cập nhiều đến trong các công trình nghiên cứu như Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, tập 4: Cuộc đụng đầu lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu của những nhà khoa học có rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Các tác giả đã trình bày cuộc kháng chiến chống chiến tranh cục bộ của nhân dân hai miền Nam Bắc. Từ trang 18 – 33 (tập 4) trình bày về những nghị quyết của chính phủ Johnson trong vấn đề Việt Nam. Trong đó, đáng lưu ý là Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia (NSAM 328) về việc quyết định tăng cường lực lượng Mĩ tại Việt Nam và thay đổi mục tiêu chiến đấu của quân Mĩ ở Việt Nam và “làm thay đổi về chiến lược của Mĩ tại Việt Nam từ chỗ cố vấn, hậu thuẫn đến tham chiến trực tiếp”[11, tr.20]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nêu lên chương trình Hợp tác do Tướng Westmoreland đề xuất ngày 1-5-1965, xác định nhiệm vụ của lực lượng Mĩ ở Nam 12 Việt Nam. Từ trang 227 – 232 có nêu về phản ứng của chính phủ Mĩ sau thất bại trong Mùa khô 1965 – 1966. Theo đó, Mc Namara cho rằng “thực chất chúng ta (Mĩ) tự thấy mình không khá hơn và có lẽ tồi tệ đi” nên đã đề ra một Bị vong lục về những kiến nghị của McNamara với những giải pháp “cần thiết” để Mĩ có thể tìm một giải pháp giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Dựa vào sức mạnh về lực lượng quân sự, Mĩ tiến hành những cuộc hành quân, càn quét và tìm diệt vào những vùng giải phóng của ta. Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình bày giai đoạn từ khi Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam (7-1965) cho đến trước ngày Tổng tiến cộng nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Theo đó, từ trang 302 – 349 nói về tình hình khủng hoảng trầm trọng của chính quyền Sài Gòn trong những năm 1965 – 1967. Từ trang 5 – 38 và từ trang 151 – 202 trình bày việc Mĩ thực hiện chiến tranh cục bộ bằng lực lượng quân sự Mĩ tại Nam Việt Nam. Chương trình càn quét, tìm-diệt và bình định của Mĩ đã diễn ra ác liệt trên toàn miền Nam. Tuy nhiên, âm mưu nguy hiểm của Mĩ – Sài Gòn đã bị nhân dân miền Nam đánh bại. Đây là một công trình nghiên cứu công phu của tác giả về chương trình càn quét, bình định của Mĩ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các sự kiện vẫn còn mang tính chủ quan do mục đích ra đời của tác phẩm. Do đó, cần phải tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn từ nguồn tư liệu của Mĩ. Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thời kì 1965 – 1975,NXB Lao Động, Hà Nội là công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ 1965-1975. Tác giả dành nhiều công sức làm nổi bật lên vai trò, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta đã đưa nhân dân Việt Nam giành thắng lợi quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong đó, từ trang 5 – 15 trình bày về âm mưu và quá trình đẩy mạnh chiến tranh của Tổng thống Johnson ở Việt Nam. Theo tác giả, “chính quyền Giôn-xơn (Johnson) cho rằng áp dụng chiến lược chiến tranh cục bộ là biện pháp tốt nhất để cứu nguy chính quyền Sài Gòn… Thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, Mĩ không dám đánh ồ ạt một lúc mà buộc phải áp dụng chiến lược “leo thang” từ từ..”[79, tr.7]. Tuy nhiên, tác giả chỉ dành phần lớn nội dung nói về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ 1965 – 1968. Tường Hữu (2005), Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội đã cung cấp thêm nhiều thông tin mới về các chủ trương, chính sách và quá trình xâm lược Việt Nam của Mĩ. Torng đó, từ trang 166 – 270 cung cấp thêm tư 13 liệu về tình hình miền Nam trong những tháng đầu năm 1964. Sự bất ổn của chính quyền Sài Gòn là nhân tố quan trọng để người Mĩ nhảy vào miền Nam nhanh hơn, nhiều hơn. Tháng 6-1964, Hội nghị Honolulu đã diễn ra “để cảnh cáo các nước cộng sản là Mĩ đã sẵn sàng đi đến một hành động cương quyết hơn, mức độ can thiệp hơn hiện nay nhằm trợ giúp chế độ Sài Gòn nếu cộng sản cứ tiếp tục lấn chiếm tại Nam Việt Nam và Lào”[43, tr.183]. Từ năm 1965, số lượng quân Mĩ vào Nam Việt Nam tăng ồ ạt và chiến dịch không kích Bắc Việt Nam cũng được tiến hành vì “đó là giải pháp duy nhất để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội tại Sài Gòn”[43, tr.199]. Đặc biệt, Tường Hữu còn đặt chiến tranh Việt Nam trong sự tác động của quan hệ Mĩ – Liên Xô – Trung Quốc, sự viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam. Như vậy, các tác giả Việt Nam đã tiếp cận chính sách của Mĩ ở Nam Việt Nam chủ yếu dưới góc độ những hoạt động quân sự của Mĩ. Tuy nhiên, các tác giả cũng dành phần lớn nội dung nghiên cứu để nói về thành tựu và những chiến công hiển hách của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Do đó, chưa đề cập nhiều đến chính sách về kinh tế, chính trị của Mĩ đối với Nam Việt Nam. Mặc dù vậy, nhưng vẫn có một số ít tác giả nghiên cứu về những tác động của chính sách Mĩ đối với kinh tế, xã hội Nam Việt Nam như: Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, NXB Sự thật, Hà Nội từ trang 128 – 141 đã phân tích những tác động về kinh tế, chính trị do chính sách của Mĩ mang lại và những hoạt động quân sự của Mĩ. Theo đó, “về chính trị, sự có mặt của quân đội viễn chinh Mĩ đã phơi bày bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ…Về kinh tế, đội quân viễn chính Mĩ vào miền Nam đương gây ra một tai họa trầm trọng về nhiều mặt…phá hoại nền kinh tế què quặt của miền Nam”[23, tr.130-131]. Tuy nhiên, tác giả chỉ phân tích những tác động tiêu cực theo góc nhìn của người Việt Nam và có phần phục vụ cho mục đích chính trị lúc đó. Đồng thời, tác giả cũng chưa có những tư liệu gốc để chứng minh. Nguyễn Đình Lê (2010), Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975, NXB Giáo dục Việt Nam từ trang 79 – 124, 131 – 135 và 135 – 169 để trình bày về tình hình miền Nam trong những năm 60. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tập trung vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa-giáo dục của miền Nam và công cuộc chiến đấu chống chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ của nhân dân miền Nam. Tác giả chỉ trình bày sơ lược có tính chất minh họa về những chính sách của Mĩ ở Việt Nam. Do đó, những cơ sở và chính sách của cụ thể của chính quyền Johnson đối với Việt Nam cũng cần phải tiếp tục làm rõ hơn. Đặng Phong (2004), Kinh tế miền Nam thời kì 1955 – 1975, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện về kinh tế, guồng máy kinh 14 tế và những vận động kinh tế của cả VNCH lẫn trong vùng giải phóng ở Nam Việt Nam từ năm 1955 – 1975. Tác giả luôn đặt kinh tế và nhìn kinh tế trong khung cảnh chung của chính trị, xã hội, văn hóa. Trong đó, từ trang 150 – 424 để nói về tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân trong vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Tác giả cũng nói về quá trình viện trợ thương mại của Mĩ cho Sài Gòn. Theo đó, “chức năng của viện trợ thương mại Mĩ là: 1-tạo điều kiện để cung cấp phần lớn hàng nhập khẩu cho miền Nam Việt Nam, 2- thông qua đó, tạo ra bộ phận quan trọng nhất trong nguồn thu ngân sách của chính quyền Sài Gòn”[65, tr.158]. Ngoài ra, tác giả còn cung cấp thêm một số bản thống kê về những khoản viện trợ của Mĩ cho VNCH . Cũng đồng tình với những quan điểm trên, một số nhà khoa học Việt Nam ở hải ngoại cũng nghiên cứu về chính sách của Mĩ với Việt Nam như: Bùi Diễm (2000), Gọng kìm lịch sử, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Paris từ trang 211 – 239, 257 – 274 đã nêu lên quá trình can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Nam Việt Nam. Sau đó, Hội nghị Honnolulu giữa Mĩ và VNCH để khẳng định sự ủng hộ của Mĩ cho Sài Gòn là muốn thấy những kết quả cụ thể từ Việt Nam. Từ trang 355 – 366, tác giả nói về sự thay đổi chính sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam. Đây cũng là thời kì gọi là “xuống thang” chiến tranh của Johnson và bắt đầu hòa đàm với VNDCCH tại Paris. Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mĩ và chiến tranh Việt Nam 1945 – 1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, USA từ trang 227 – 270 trình bày khá chi tiết về cơ chế tổ chức, hoạt động và vai trò của các lực lượng quân sự Mĩ. Đặc biệt, tác giả cung cấp thêm tư liệu để hiểu rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ và sự điều hành các lực lượng Mĩ tại Việt Nam. Đây cũng là một khía cạnh ít được quan tâm khi nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam của Mĩ. Từ trang 271 – 308 trình bày về sự tham chiến quân sự trực tiếp của Mĩ ở Nam Việt Nam. Đồng thời, tác giả cung cấp thêm tư liệu về những hành động phá hoại Bắc Việt Nam bằng không quân, hải quân của Mĩ từ 1964 – 1968. Từ trang 309 – 356 đã trình bày về các quyết định quan trọng của Johnson trong năm 1968. Theo đó, ba vấn đề quan trọng được đưa ra là: 1- sự tăng viện khẩn cấp lực lượng quân sự cho Nam Việt Nam; 2-tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận cử người đến đàm phán với Bắc Việt Nam tại Paris; 3Johnson không ra tranh cử tổng thống nhiệm kì II. Những quyết định này đã làm thay đổi cục diện chiến tranh và hay được gọi là “xuống thang” chiến tranh ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ tập trung vào “sự sa lầy quân sự” của chính quyền Johnson ở Việt Nam mà chưa đề cập đến những mục tiêu khác của Mĩ đối với Việt Nam. Trên cơ sở những nhận định, đánh giá và đối chiếu với tài liệu gốc của Mĩ, chúng tôi sẽ làm rõ hơn về chính sách của chính quyền Johnson đối với Việt Nam. 15 Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hùng dịch, NXB Lao Động, Hà Nội từ trang 133 – 147 đã trình bày quá trình Mĩ đưa quân tham chiến trực tiếp tại miền Nam Việt Nam và tác động của cuộc Tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968 của lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ trang 125 – 132 đã trình bày về cuộc tiến công chiến lược phá hoại Bắc Việt Nam bằng không quân của Mĩ. Tuy nhiên, tác giả chưa lý giải được nguồn gốc và nguyên nhân của cuộc ném bom Bắc Việt Nam. Quan trọng hơn là tác giả chưa cập nhật được nguồn tư liệu gốc từ phía Mĩ về chiến dịch “Sấm Rền” cũng như sự kiện Vịnh Bắc bộ năm 1964. Nguyễn Khắc Viện (2007), Việt Nam một thiên lịch sử, Diệu Bình dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội cũng đã dành từ trang 404 – 408 và từ trang 415 – 420 để nói về sự “leo thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta chống Mĩ. Từ trang 408 – 413 trình bày về mục tiêu việc Mĩ mở rộng ném bom Bắc Việt Nam và thành quả cuộc chiến đấu chống Mĩ ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cũng đề cập đến vai trò của Liên Xô và sự thay đổi trong đường lối đối ngoại của Trung Quốc đối với VNDCCH đã tác động đến cuộc chống Mĩ của Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp sự kiện lịch sử mà chưa có nguồn tư liệu để chứng minh. Mặt khác, tác giả cũng là người “có nhiều kinh nghiệm tuyên truyền đối ngoại”. Tác giả cũng là một nhà văn, nhà báo, nhà khoa học và nghiên cứu về rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, tác giả chưa đi sâu phân tích được bản chất chính sách của Mĩ và chưa tiếp cận được tài liệu gốc về chiến tranh Việt Nam nên công trình vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Bên cạnh những công trình nghiên cứu của Việt Nam, một số tác giả nước ngoài cũng dành nhiều thời gian nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách của Mĩ ở Việt Nam như: H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ: L.Johnson và Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM những chính sách của Johnson về Việt Nam như các Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia (NSAM 288, NSAM 388) và Kế hoạch OPLAN 34A về phá hoại Bắc Việt Nam. Từ trang 75 – 141, tác giả đã trình bày quá trình đi tìm kiếm một giải pháp chiến lược cho vấn đề Việt Nam của Mĩ. Theo đó, từ 1965 – 1968, Mĩ phải tiến hành cùng lúc hai nhiệm vụ: 1- tăng cường lượng quân sự và tiến hành những cuộc hành quân tìm-diệt ở Nam Việt Nam; 2- tăng cường áp lực đối với Hà Nội bằng không quân và hải quân để ngăn chặn sự chi viện cho phong trào giải phóng dân tộc ở Nam Việt Nam. Từ trang 143 – 193 nói về những chính sách của Mĩ ở Việt Nam sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968. Mĩ đã tăng quân khẩn cấp cho Nam Việt Nam và tăng cường các hoạt động động quân sự ở Việt 16 Nam. Từ trang 411 – 416 nói về quyết định của Tổng thống Johnson về việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam và “xuống thang” chiến ở Việt Nam. Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội từ trang 173 – 209 đã nêu lên khá chi tiết quá trình “leo thang” chiến tranh của chính quyền Johnson. Từ tháng 1-1965 đến tháng 7-1965 là giai đoạn Mĩ can thiệp quân sự ồ ạt vào Nam Việt Nam. Từ trang 151 – 209 lý giải cho những quyết định can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam của Mĩ. Sự thất bại liên tiếp của quân đội Sài Gòn về quân sự và sự phá sản của chương trình Ấp chiến lược buộc Mĩ phải có những hành động mới. Sau cuộc bầu cử tổng thống 1964, Johnson đẩy mạnh quá trình “leo thang” quân sự ở Nam Việt Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam. Theo đó, “Nam Việt Nam tỏ ra suy sụp nhanh chóng, mà phương thuốc duy nhất là sự nhảy vào ồ ạt của quân Mĩ” và McNamara đã “chấp nhận đề nghị tăng thêm hai tiểu đoàn của Westmoreland và Oley, và quan trọng hơn là đã nhất trí thay đổi nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho căn cứ của quân lính thủy đánh bộ sang thường trực chiến đấu. Mặc dù chúng tôi cắt giảm triển khai quân, nhưng chúng tôi đã nới rộng đáng kể nhiệm vụ của họ. Lính bộ binh của Mĩ sẽ trực tiếp tham chiến”[72, tr.183]. Như vậy, phần lớn các công trình nghiên cứu đề tập trung vào quá trình Mĩ can thiệp vào Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra những nhận định đánh giá theo từng góc độ khác nhau và còn chưa thống nhất với nhau giữa các nhà khoa học trong nước với nước ngoài. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy cần có một cách nhìn nhận tổng thể hơn để có cách đánh giá khách quan về chính sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam. 1.3. Chính sách của Mĩ đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa 1.3.1. Về quân sự Trong thời gian cầm quyền của Johnson, song song với việc tiến hành can thiệp trực tiếp vào Nam Việt Nam, Mĩ còn mở rộng việc gây chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam. Đây là một trận tuyến vừa công khai, vừa bí mật chống lại Hà Nội của Mĩ và Sài Gòn. Do đó, hiện nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Ở Việt Nam, hiện nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu được công bố và tiêu biểu là các công trình như: Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, NXB Sự thật, Hà Nội từ trang 45 – 49 đánh giá về Kế hoạch Stalay-Taylor của Mĩ về việc lập Ấp chiến lược và đưa quân vào chiến đấu trực tiếp ở miền Nam Việt Nam. Trong diễn văn đọc ngày 2-9-1964 (trang 61 – 69), Thủ tướng Phạm Văn 17 Đồng đã nêu lên bản chất của sự kiện Vịnh Bắc Bộ và tố cáo Mĩ đã lừa bịp dư luận thế giới vì vừa cho người liên lạc với ta để thương lượng, vừa mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự (1982), Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, tập I, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội đã trình bày lại cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của Mĩ. Theo đó, từ trang 34 – 39, 45 – 49, 54 – 60, 66 – 70, 79 – 82 đã trình bày những âm mưu và quá trình tiến hành các cuộc không kích Bắc Việt Nam của đế quốc Mĩ từ năm 1964 – 1968. Theo đó, mục tiêu cụ thể của việc tiến hành chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam của Mĩ là: “1- Ngăn chặn nguồn viện trợ từ bên ngoài vào miền Bắc và sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam…2- Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc…3- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta, buộc ta phải nhân nhượng, chấm dứt chiến tranh theo điều kiện của Mĩ”[8, tr.34]. Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, Tập 3 và Tập 4 cũng đã trình bày về những chính sách của Mĩ đối với Bắc Việt Nam. Theo đó, Mĩ đã dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với kế hoạch 34A. Quá trình Mĩ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam với chiến dịch Sấm Rền (Rolling Thunder) và cho rằng “Mĩ đã chơi một ván cờ thua ở Việt Nam”. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ tập trung làm rõ cuộc đấu tranh, đánh bại Mĩ của nhân dân Bắc Việt Nam mà chưa đi sâu vào phân tích mục đích chính sách của Mĩ. Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội từ trang 39 – 62 nói về quá trình mở rộng chiến tranh ra Bắc Việt Nam của Mĩ. Đặc biệt, tác giả đã tập trung lý giải mục tiêu và đặc điểm của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân Mĩ ở Bắc Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng khái quát quá trình đánh bại chiến tranh phá hoại của Mĩ. Vũ Đình Hiếu (2011), Cuộc chiến bí mật: Hồ sơ lực lượng biệt quân Ngụy, NXB Thời đại, Hà Nội là công trình nghiên cứu về những hoạt động của một lực lượng đặc biệt trong chiến tranh Việt Nam – lực lượng biệt kích của chính quyền MĩSài Gòn. Họ là những người được đào tạo bài bản và huấn luyện tốt, nhiệm vụ trọng tâm của họ là phá hoại Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, họ hầu hết đều rơi vào tay của nhân dân ta. Do đó, đây cũng là một tư liệu chứng minh sự chống phá miền Bắc Việt Nam 18 của Mĩ. Mặc dù vậy, tác giả cũng chỉ dừng lại ở mức độ tập hợp tư liệu mà chưa đi sâu phân tích, đánh giá cũng như chưa đặt cuộc chiến tranh phá hoại này trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó. Cảnh Dương, Đông A (2007), Bí mật các chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội đã trình bày khá tỉ mĩ, chi tiết về các cuộc không kích của Mĩ vào Bắc Việt Nam từ tháng 8-1964 đến tháng 12-1972. Đây là một công trình nghiên cứu công phu về việc Mĩ sử dụng các loại phương tiện chiến tranh như Chiến hạm, máy bay…để tấn công Bắc Việt Nam. Đồng thời, các tác giả cũng làm nổi bật lên cuộc chiến đấu anh dũng của nhân đã đánh bại âm mưu của Mĩ. Nhìn chung, ở Việt Nam, các tác giả tập trung làm sáng tỏ công cuộc chiến đấu đánh bại chiến tranh phá hoại của Mĩ ở Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả Việt Nam chưa đề cập nhiều đến những mục đích, chủ trương, quyết định của Washington về việc ném bom phá hoại Bắc Việt Nam. Đặc biệt, một số công trình chưa được bổ sung, cập nhật từ những nguồn tư liệu gốc để làm rõ chính sách của Mĩ đối với Bắc Việt Nam. Đây là vấn đề cần tiếp tục bổ sung, làm rõ. Bên cạnh các công trình trong nước, các nhà khoa học nước ngoài cũng có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố như: Charles Fourniau (2007), Việt Nam như tôi đã thấy (1960 – 2000), Trần Thị Lan Anh, Vũ Thị Minh Hương, Tạ Thị Thúy dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội từ trang 122 – 180 đã phác họa lại chi tiết bức tranh đau thương của Bắc Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mĩ. Nhà báo Pháp đã ghi nhận lại Sự kiện Vịnh Bắc bộ cũng như hậu quả nặng nề và thành tựu của nhân dân miền Bắc Việt Nam từ 1964 – 1968. Theo đó, “Lợi dụng sự kiện đó (Vịnh Bắc Bộ), Tổng thống Johnson ngay lập tức đề nghị Quốc hội cho phép sử dụng các biện pháp trả đũa đối với Việt Nam”[13, tr.122]. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên tình hình đời sống chính trị của VNDCCH và lập trường 4 điểm của chính phủ VNDCCH trong cuộc đấu tranh ngoại giao với Mĩ. Tuy nhiên, tác giả chỉ tường thuật, ghi nhận lại thực tế miền Bắc mà chưa phân tích, nghiên cứu những mục tiêu, thủ đoạn của Mĩ đối với Bắc Việt Nam. H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ: L.Johnson và Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM từ trang 411 – 416 nói về quyết định của Tổng thống Johnson về việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam và “xuống thang” chiến ở Việt Nam. Từ trang 461 – 494 nói về quá trình Tổng thống Johnson đề nghị tiến hành đàm phán với Hà Nội để tìm ra một giải pháp phù hợp kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. 19 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên cũng đã làm nổi được vấn đề là công cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mĩ vào Bắc Việt Nam. Sự thắng lợi của nhân dân miền Bắc đóng vai trò quan trọng cho thắng lợi quân sự của nhân dân Nam Việt Nam. Tuy nhiên, các tác cũng tập trung nhiều vào việc phân tích những kết quả, nguyên nhân thắng lợi từ phía Việt Nam mà thôi. Do đó, bản chất và mục tiêu từ phía Mĩ vẫn cần phải được làm rõ. 1.3.2. Vấn đề “tìm kiếm một giải pháp phù hợp” để kết thúc chiến tranh Song song với việc tăng cường các hoạt động quân sự, từ năm 1965, chính phủ Johnson cũng hô hào, kêu gọi đàm phán để tìm một giải pháp phù hợp kết thúc chiến tranh. Quá trình này đã được đề cập trong những công trình nghiên cứu như: Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27 và 28-3-1964, Hồ Chí Minh đã cho rằng “chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em…kiên quyết đấu tranh chống chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mĩ, thực hiện chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau”[59, tr.265]. Đồng thời, Hồ Chí Minh (1976), Kế hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, NXB Sự thật, Hà Nội đã phân tích tính chất cuộc chiến tranh chống Mĩ của Việt Nam. Người cũng nêu lên bản chất của Mĩ là “vừa tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, vừa rêu rao “thiện chí hòa bình”, “sẵn sàng thương lượng không điều kiện” hòng lừa bịp dư luận thế giới và dư luận nhân dân Mĩ”[58, tr.179]. Hồ Chí Minh cũng kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân các nước anh em và thế giới ủng hộ, giúp đỡ cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Mai Văn Bộ (1986), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, NXB TP.HCM đã ghi nhận lại tình hình miền Nam Việt Nam trong những năm 60 và vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn của Mĩ ở Việt Nam. Đồng thời, ông cũng trình bày tỉ mĩ về các cuộc tiếp xúc bí mật với đại diện của chính phủ Johnson tại Pháp. Tập hồi ký là một tài liệu giúp ta hiểu hơn về cuộc đấu tranh bí mật trên mặt trận ngoại giao của Việt Nam từ năm 1967 đến trước khi Hiệp định Paris được ký kết (1973). Tuy nhiên, hai tác phẩm trên đây cũng chỉ là hồi ký của tác giả và như tác giả đã nói “chỉ xin cố gắng ghi lại những gì mà tôi đã sống, với những phân tích, nhận định và đánh giá cần thiết về những nhân vật và sự kiện quan trọng mà tôi (Mai Văn Bộ) đã từng chứng kiến”[6, tr.8]. Do đó, cần phải có những tư liệu từ phía Mĩ và phía Việt Nam để có cách nhìn nhận bản chất sự kiện khách quan hơn. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kì trước Hội nghị Pa-ri, Viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội đã trình bày lại những sự kiện liên 20 quan đến chủ trương thương lượng của chính quyền Johnson về vấn đề Việt Nam. Các sự kiện trong sách giúp người đọc có cái nhìn khái quát về các hoạt động ngoại giao của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam và lập trường của Việt Nam trong cuộc thương lượng với Mĩ. Theo đó, Hồ Chí Minh đã nói “sẵn sàng đi bất cứ đâu, gặp bất cứ ai..."[55, tr.104] để thương lượng, tìm giải pháp kết thúc chiến tranh trong những điều kiện có thể. Ngược lại, Tổng thống Johnson lại cho rằng "Hà Nội không quan tâm gì đến một giải pháp hoà bình hay một sự thoả hiệp nào. Họ đã đóng sầm cánh cửa đối với đề nghị hoà bình của Hoa Kỳ"[55, tr.30]. Rõ ràng, quan điểm hai bên khác xa nhau. Do đó, tác phẩm góp phần làm rõ hơn cuộc đấu trí cam go giữa Việt Nam và Mĩ. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ mới liệt kê lại các sự kiện lịch sử mà chưa có những văn kiện, tư liệu chính thức từ phía Mĩ. Do đó, cần phải được tiếp tục bổ sung để làm sáng tỏ vấn đề hơn. Như vậy, những công trình trên tập trung phản ánh quan điểm, lập trường của VNDCCH trong hoạt động đối ngoại với Mĩ từ 1965-1968. Các tác giả nhấn mạnh đến tinh thần yêu hòa bình của Việt Nam và “sự thiếu trung thực” của Mĩ trong việc kêu gọi hòa đàm với Việt Nam. Vậy thực chất vấn đề này như thế nào? Phía Mĩ có phản ứng ra sao? Do đó, chúng tôi nhận thấy cần làm rõ thái độ của Mĩ dựa trên những văn kiện, tài liệu gốc vừa được giải mật của Mĩ là điều cần thiết. Tóm lại, hiện nay còn nhiều nhận định, đánh giá chưa thống nhất nhau về chính sách của chính phủ Mĩ đối với Việt Nam từ 1954-1969. Vì vậy, việc dựa vào những tài liệu gốc của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và những tài liệu nghiên cứu từ phía Mĩ để tìm hiểu, lý giải toàn diện hơn quá trình can thiệp, “leo thang” và “xuống thang” chiến tranh Việt Nam của Mĩ là phù hợp, cần thiết. 2. Tính cấp thiết của đề tài Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh dài ngày nhất và hao người tốn của nhất trong lịch sử nước Mĩ. Trải qua sáu đời tổng thống Mĩ với thiệt hại về người và của gấp hai lần so với chiến tranh Triều Tiên. Đặc biệt, dưới thời kì cầm quyền của Tổng thống Lyndon B.Johnson, người Mĩ đã tham chiến trực tiếp vào Việt Nam với số lượng lớn về quân đội viễn chinh Mĩ. Người Mĩ dựa vào ưu thế tuyệt đối về vũ khí, phương tiện chiến tranh để đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Nhưng cuối cùng, Mĩ đã phải kí Hiệp định Paris (1973) và rút quân về nước. Do đó, chiến tranh Việt Nam của Mĩ đã thu hút rất nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học ở Việt Nam, Mĩ và trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay cũng nhiều quan điểm không thống nhất với nhau về cuộc chiến tranh Việt Nam của Mĩ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan