SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
TÍCH HỢP CÁC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI LỚP 8
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hoằng Ngọc
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
Tiêu đề
1
Nội dung
Mở đầu
Trang
3
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
4
5
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
5
5
6
6
11
12
13
13
2
1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy và học là vấn đề thời sự cho việc nâng cao chất
lượng giáo dục, có ý nghĩa thực tiễn và khoa học trong giáo dục và đời sống.
Đổi mới dạy và học là việc làm của tất cả mọi người từ cấp quản lý cho tới từng
giáo viên. Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo vừa qua đã chỉ ra rằng: “Dạy học theo hướng tích hợp” để phát triển
năng lực của học sinh là một trong những vấn đề cần ưu tiên.
Xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của quá trình đổi mới phương pháp dạy
học, chúng ta cần phải chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, độc
lập và sáng tạo của học sinh, giúp học sinh biến kiến thức bài học thành hiểu
biết của mình. Hoà cùng phong trào thi đua đổi mới dạy học, trong quá trình
giảng dạy, tôi luôn tìm kiếm, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy qua
mỗi bài học, nhằm giúp học sinh dễ dàng phát hiện, ghi nhớ, tổng hợp kiến thức
và khắc phục những tồn tại trong giờ dạy của mình.
Đối với môn Ngữ văn, đặc biệt là trong tiết dạy và học các văn bản nghị
luận trung đại, để đạt được hiệu quả cao thì vai trò của thầy và trò trong việc
chuẩn bị và tổ chức tiết học là vô cùng quan trọng. Bởi nó giúp các em tiếp cận,
làm quen và khơi dậy trong các em năng lực cảm thụ, sự tự tin và khả năng
truyền đạt, trình bày những cảm nhận, những suy nghĩ và rung động riêng.
Trong bản sáng kiến kinh nghiệm này, tôi không có tham vọng viết về tất
cả các phương pháp đổi mới bởi nó đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu lâu dài.
Trong quá trình dạy học, tôi cố gắng kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy một
cách hợp lí giữa truyền thống và hiện đại; và mạnh dạn đưa sự chuẩn bị, tìm
hiểu trước của thầy và trò về các văn bản nghị luận trung đại lớp 8 vào tiết bổ
trợ để tiết học chính khoá đạt kết quả cao. Đó chính là lí do tôi viết sáng kiến
kinh nghiệm với đề tài: “Phát triển năng lực của học sinh trong dạy học tích
hợp các văn bản nghị luận trung đại lớp 8”.
- Mục đích nghiên cứu
Đứng trước những thực trạng khó khăn trong việc dạy-học các văn bản
nghị luận trung đại, bản thân tôi là một giáo viên trung học cơ sở, được giảng
dạy môn Ngữ văn, do vậy tôi xác định rõ mình cần phải có trách nhiệm giúp học
sinh được tự học, được tìm hiểu, được vận dụng và được trở đi trở lại những
kiến thức gần nhau, giúp các em có sự hiểu biết vừa sâu vừa rộng kích thích
hứng thú và sự tìm tòi sáng tạo, tích cực hướng tới sáng tạo. Trong môi trường
3
giáo dục, với sự hướng dẫn của người thầy giáo, học sinh hoàn toàn có khả năng
tự học, tự tìm kiếm cho mình cách thức tiếp thu kiến thức, đồng thời giúp các
em năng lực tự giải quyết vấn đề. Tất nhiên, cần phải khơi dậy trong học sinh
khả năng độc lập tích cực, sự bền bỉ và có sự hợp tác với thầy, với bạn. Nhưng
do thời lượng ở tiết học chính khoá còn ít cho nên chỉ có thể tổ chức cho các em
một số hoạt động thông qua các tiết học bổ trợ để các em được tự học, được tìm
hiểu, được vận dụng sâu sắc kiến thức: văn học trung đại có một vai trò, vị trí rất
quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam; là một bộ phận cấu
thành, văn học trung đại gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam.
Hơn nữa trong qúa trình công tác, bản thân tôi nhận thấy rằng việc tổ
chức các hoạt động ngoại khoá về việc tự chuẩn bị bài học theo cá nhân, nhóm,
tập thể sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thu hút sự tham gia của các em. Chính
vì vậy, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu và thực hiện với mong muốn giúp
các em học sinh có những nhận thức, rung cảm chân thành về các tác phẩm cổ
điển.
Thông qua các hoạt động chuẩn bị bài học trước giờ lên lớp ở tiết phụ
đạo, có thể thực hiện tốt nhất có thể được các nội dung, mục tiêu... về các văn
bản nghị luận trung đại lớp 8 nhằm giúp học sinh nắm được:
+ Hoàn cảnh ra đời, đặc biệt là hoàn cảnh văn hoá-xã hội chịu sự chi phối
mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo như thế nào?
+ Đặc trưng thi pháp của văn học trung đại qua các thể loại cụ thể và vì
sao đó là các văn bản nghị luận tiêu biểu?
+ Giá trị của văn học trung đại gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được phản ánh đậm nét trong văn học Việt
Nam như thế nào?
+ Trách nhiệm của công dân, học sinh trong việc phát huy truyền thống của
ông cha trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trên cơ sở đó mỗi học sinh cần
nhận thấy rõ trách nhiệm của mình khi còn ngồi trên ghế nhà trường là phải
chăm lo học tập, tích cực trau dồi, rèn luyện tư tưởng đạo đức để xứng đáng là
con dân đất Việt.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm các hoạt động của thầy và trò đối với các văn
bản nghị luận trung đại lớp 8 trong tiết phụ đạo.
Các văn bản văn học trung đại lớp 8 gồm:
Chiếu dời đô
Hịch tướng sĩ
4
Nước Đại Việt ta
Bàn luận về phép học
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp khảo sát
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
+ Phương pháp kiểm tra, đánh giá
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập của học sinh
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học tạo cho học sinh một nội
dung tư duy phong phú, một cách suy nghĩ vận động bằng con đường tích hợp
những nội dung từ một số môn học, từ một số khoá trình trong một môn học đưa
vào nội dung của một khoá trình hay một môn học khác, tăng cường tính tích
cực của học sinh.
Hiện nay, xu hướng đổi mới cách dạy, cách học, đổi mới cái dạy, cái học,
dạy học không đơn thuần là cung cấp kiến thức mà là dạy – tự học, với mục tiêu
cuối cùng là để người học tự phát triển toàn diện. Vận dụng phương pháp liên
môn chính là giúp người học tự biến đổi bằng cách tích hợp các kiến thức từ các
nguồn khác nhau biến nó thành cái riêng của mình. Dạy học liên môn, do đó, có
ý nghĩa rất lớn xét về quan diểm giáo dục toàn diện. Học sinh được tự học, được
tìm hiểu, được vận dụng và được trở đi trở lại những kiến thức gần nhau, giúp
người học có sự hiểu biết vừa sâu vừa rộng kích thích hứng thú và sự tìm tòi
sáng tạo, tích cực hướng tới sáng tạo. Trong môi trường giáo dục, với sự hướng
dẫn của người thầy giáo, học sinh hoàn toàn có khả năng tự học, tự tìm kiếm cho
mình cách thức tiếp thu kiến thức, đồng thời giúp các em năng lực tự giải quyết
vấn đề. Tất nhiên, cần phải khơi dậy trong học sinh khả năng độc lập tích cực,
sự bền bỉ và có sự hợp tác với thầy, với bạn. Đây cũng chính là quá trình dạy-tự
học mà nhiều nhà khoa học từng đề cập đến.
Từ quan điểm này, tôi đã vận dụng đưa vào các tiết học sự chuẩn bị, tìm
hiểu trước của thầy và trò về các văn bản nghị luận trung đại lớp 8 trong tiết
phụ đạo để tiết học chính khoá đạt kết quả cao.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Ở chương trình Ngữ văn 8, tập hai, học sinh được học các văn bản nghị
luận trung đại bao gồm: Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc
5
Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Bàn luận về phép học (La Sơn Phu
Tử Nguyễn Thiếp). Theo phân phối chương trình Ngữ văn hiện nay thì số lượng
thời gian giành cho các văn bản nghị luận trung đại lớp 8 như sau:
Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn): 45 phút (Tiết 90);
Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn): 90 phút (Tiết 93,94);
Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi): 45 phút
(Tiết 97);
Bàn luận về phép học (La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp): 45 phút (Tiết 101);
Như vậy, ta thấy việc dạy học các văn bản nghị luận trung đại lớp 8 có rất
nhiều khoảng cách: không gian, thời gian, phong cách nghệ thuật-nhất là phong
cách ngôn ngữ văn học giữa hiện đại và quá khứ...Mà số lượng thời gian giành
cho các tiết học này chỉ có giới hạn. Đứng trước thực tế như vậy, là một giáo
viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn tôi tự nhận thức cần phải có các hình thức
tổ chức, các phương pháp giáo dục liên môn linh hoạt và phong phú để việc dạyhọc các tiết học trên có hiệu quả. Tôi đã thực hiện điều này trong sự kết hợp
giữa tiết bổ trợ và chính khoá, nhằm mục đích “tái hiện khung cảnh không gian
và thời gian lịch sử”-“gây không khí lịch sử” như chúng ta thường nói để học
sinh có thể “nhập thân” vào hoàn cảnh, vào cuộc sống quá khứ cũng như số
phận và tâm lí tính cách nhân vật, tạo nền tảng cho sự lĩnh hội tác phẩm văn học
trung đại.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Căn cứ vào tình hình khảo sát nhận thức của học sinh về các văn bản nghị
luận trung đại và nắm được nguyên nhân đưa đến thực tế đó để giúp học sinh có
thêm nhận thức đúng đắn hơn. Theo điều kiện của nhà trường là trường dạy hai
buổi một ngày, ngoài các tiết chính khoá, môn Ngữ văn còn có các tiết phụ đạo,
tôi tiến hành cho học sinh chuẩn bị, tìm hiểu... trước các văn bản nghị luận trung
đại lớp 8, bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể sau:
Bước 1: Chuẩn bị nội dung bài giảng. Tôi xác định:
Chuẩn bị của giáo viên:
- Đọc kĩ nội dung bài,căn cứ vào sách giáo khoa, sách giáo viên xác định:
+ Mục tiêu chính của bài dạy?
+ Trọng tâm bài dạy?
+ Phần nào, kiến thức nào học sinh có thể tự học, nên lướt?
+ Kiến thức nào cần khắc sâu, thảo luận...?
- Tìm ra hướng khai thác tác phẩm sao cho thật hợp lí, hiệu quả và tổ chức giờ
học cho phù hợp vói đối tượng học sinh để tích cực hoá quá trình học tập của
học sinh, giúp các em hứng thú, hiểu nhanh và có cách cảm thụ riêng.
6
Ví dụ:
Ở văn bản “Chiếu dời đô” (Lí Công Uẩn): bám sát vào đặc trưng về
nghệ thuật và nội dung của văn bản, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản
theo trình tự:
+ Hoàn cảnh ra đời, đặc biệt là hoàn cảnh văn hoá - xã hội chịu sự chi
phối mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo trong văn bản như thế nào?
+ Đặc trưng thi pháp của văn học trung đại qua thể loại cụ thể là thể
chiếu như thế nào và vì sao đó là văn bản nghị luận tiêu biểu?
+ Giá trị của văn bản gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam như thế nào?
+ Trách nhiệm của công dân, học sinh trong việc phát huy truyền thống
của ông cha trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước như thế nào?
- Tìm tư liệu để hỗ trợ, minh hoạ cho bài dạy sinh động, có hiệu quả. Đây là
khâu chuẩn bị tương đối khó khăn, đòi hỏi thời gian, công sức và lòng yêu nghề
của người giáo viên.Tôi xác định hai loại tư liệu cơ bản để đưa vào giờ dạy:
+ Tư liệu động như băng hình, tôi đã tìm kiếm bằng nhiều cách như: Sao
chép, thu từ đĩa DVD, CD, tự quay camera; mượn, sao chép tư liệu của Bảo
tàng, Cục điện ảnh Quân đội, đài truyền hình,…; mượn băng hình của môn Mỹ
thuật, môn Nhạc,…
Trong tư liệu động này, tôi lại phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh dàn
trải, làm loãng kiến thức bài học.
+ Tư liệu tĩnh như tranh, ảnh, bảng biểu, sơ đồ, … tôi có thể tự làm (đưa
trực tiếp vào Powerpoint) hoặc hướng dẫn học sinh chuẩn bị.
Ví dụ:
Tôi đã giao bài tập về nhà cho học sinh chuẩn bị về văn bản “Chiếu dời
đô” trước đó hai tuần để:
- Tìm hiểu thời đại ra đời của “Chiếu dời đô” và chuẩn bị trình bày theo nhóm,
tổ; tìm hiểu nội dung văn bản theo câu hỏi trong sách giáo khoa;
- Tìm hiểu và chuẩn bị thi kể chuyện về thân thế, sự nghiệp vua Lý Thái Tổ theo
nhóm, tổ;
- Chuẩn bị thi đọc “Chiếu dời đô” theo nhóm, tổ;
- Vẽ tranh minh hoạ về hình ảnh vua Lý Thái Tổ, cảnh dời đô, hình ảnh về
Thăng Long - Hà Nội xưa... theo nhóm, tổ.
Chuẩn bị của học sinh:
- Nghiên cứu, soạn kỹ bài học theo hệ thống câu hỏi trong SGK để có thể tích
cực, chủ động tham gia vào giờ học.
- Chuẩn bị theo yêu cầu tổ chức, phân công của giáo viên.
7
Bước 2: Các hoạt động của thầy và trò trong tiết phụ đạo trước giờ học
chính khoá. Tôi tổ chức cho học sinh:
Tác phẩm văn học trung phản ánh lịch sử, xã hội đương đại của nó.
Nắm được lịch sử xã hội, thời điểm ra đời của tác phẩm, ý thức hệ của tác giả,
giáo viên có thể thâu tóm được chính xác và toàn diện tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có sự tương ứng với lực lượng sáng tác và ý
thức hệ chủ đạo bấy giờ. Vốn kiến thức của giáo viên phải đáp ứng được yêu
cầu hiểu biết này. Nghiên cứu, tham khảo tài liệu bổ trợ, trong chừng mực nào
đó, ranh giới Văn - Sử không phải là rào cản nữa, bài giảng sẽ phong phú hơn,
học sinh có thêm hứng thú học tập khi vừa giải mã nội dung tác phẩm vừa được
tắm mình trong không khí thời đại của tác phẩm.
Mỗi tác phẩm đều có sự ra đời rất riêng, đôi khi rất đặc biệt, truyền đến
thế hệ sau nhiều ám ảnh, vấn vương khi được tiếp xúc.
Ví dụ:
Từ việc đã giao bài tập về nhà cho học sinh chuẩn bị về văn bản “Chiếu
dời đô” trước đó hai tuần, tôi tổ chức cuộc thi giữa các nhóm, tổ (Tôi chia lớp
thành bốn nhóm):
- Thi trình bày hiểu biết về thời đại ra đời của “Chiếu dời đô” giữa các nhóm, tổ.
Luật thi: Mỗi đội sẽ thực hiện việc trình bày kiến thức với thời gian tối đa là 2
phút; điểm tối đa cho phần trình bày là 10 điểm.
- Thi trình bày hiểu biết về kể chuyện về thân thế, sự nghiệp vua Lý Thái Tổ
giữa các nhóm, tổ. Luật thi: Mỗi đội sẽ thực hiện việc kể chuyện với thời gian
tối đa là 2 phút; điểm tối đa cho phần kể chuyện là 10 điểm.
- Thi đọc trang trọng “Chiếu dời đô” giữa các nhóm, tổ. Luật thi: Mỗi đội cử đại
diện và sẽ thực hiện việc đọc lại văn bản với thời gian tối đa là 3 phút; điểm tối
đa cho phần đọc lại là 10 điểm.
- Thi trình bày tranh vẽ minh hoạ về hình ảnh vua Lý Thái Tổ, cảnh dời đô, hình
ảnh về Thăng Long - Hà Nội xưa... giữa các nhóm, tổ. Luật thi: Mỗi đội cử đại
diện trình bày tranh vẽ của đội mình với thời gian tối đa là 2 phút; điểm tối đa
cho phần đọc lại là 10 điểm.
Bước 3: Khảo sát kết quả chuẩn bị bài học của học sinh. (Yêu cầu nhóm
trình bày bài chuẩn bị ở nhà)
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Lí Công Uẩn)
VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM (Nhóm 1 trình bày)
8
- Tác giả
Lí Công Uẩn (974 - 1028) tức Lí Thái Tổ, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc
Giang (nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông
minh, nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công.
- Thể loại
Chiếu là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ, được dùng
cho vua để ban bố các mệnh lệnh. Chiếu cũng được dùng trong khoa cử nho học
như một môn thi. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán,
gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể
gần đây).
Trong Kinh Thư, chiếu được đặt ngang với cáo. Thể này thời Xuân Thu gọi
là mệnh, thời Chiến Quốc gọi là lệnh, thời Tần đổi lệnh thành chiếu; thời Hán
lúc đầu dùng chiếu để bố cáo với quan lại, về sau mới dùng rộng ra, chiếu là lời
vua ra lệnh cho toàn dân.
Nội dung ra lệnh trong chiếu thư gồm từ các việc vua lên ngôi, vua rời ngôi,
đến các việc lập hoàng hậu, lập thái tử, phong tặng quan lại có công, truất giáng
người phạm lỗi, minh oan người chết oan; với dân gian thì có chiếu cầu hiền tài,
chiếu khuyến nông, v.v.
Về thể văn, ban đầu chiếu được viết bằng văn xuôi, về sau được kết hợp với
văn biền ngẫu và có khi cả văn vần.
Một số bài chiếu nổi tiếng ở Trung Quốc được các triều đại quân chủ Việt
Nam đưa vào hội điển làm mẫu cho văn hành chính, cho việc học và thi,
là: chiếu cầu hiền của vua Hán Cao Tổ, Chiếu sai bảo người trong nước chăm
việc nông trang của vua Hán Cảnh Đế, Chiếu ban bố lễ nhạc và Chiếu lệnh sai
các châu trong nước cử người tài giỏi của vua Đường Thái Tông.
Nền hành chính quân chủ ở Việt Nam để lại nhiều bài chiếu nổi tiếng, chủ
yếu do chúng là các văn kiện đánh dấu các sự kiện lịch sử như Thiên đô
chiếu (chiếu dời đô, 1009) của vua Lí Thái Tổ; Lâm chung di chiếu (chiếu để lại
lúc chết, 1128) của vua Lí Nhân Tông; Thiện vị chiếu (chiếu nhường ngôi, 1225)
của vua Lí Chiêu Hoàng (do một tác giả khuyết danh soạn); Chiếu cầu hiền
tài (1429) của vua Lê Thái Tổ (do Nguyễn Trãi soạn);Tức vị chiếu (chiếu lên
ngôi, 1788) của vua Quang Trung; Cần Vương chiếu (1885) của vua Hàm
Nghi; Thoái vị chiếu (1945) của vua Bảo Đại. (Theo Từ điển văn học Việt Nam
từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001).
- Hoàn cảnh ra đời tác phẩm (Nhóm 2 trình bày)
Chiếu dời đô được viết trong hoàn cảnh đất nước thái bình, nhà Lí muốn dời
kinh đô từ thành Hoa Lư nhỏ hẹp ra nơi Đại La rộng lớn, thuận tiện cho việc mở
mang và củng cố, bảo vệ đất nước.
Tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của
Lí Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã
sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khoẻ
khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình.
KIẾN THỨC CƠ BẢN (Nhóm 3, 4 trình bày)
9
- Thời trung đại, khi phải cân nhắc, xác định chí hướng để làm một việc gì,
người ta thường lấy chuyện của "Tiền nhân" ra làm căn chuẩn, xem việc đúng
đắn là phải tuân theo "mệnh trời". Những thời đại hoàng kim đã qua được nhắc
tới như những tấm gương để soi mình. Lí Thái Tổ cũng đã làm như vậy ở phần
đầu bài Chiếu dời đô. Việc dời đô của các triều đại nổi tiếng ở Trung Quốc
được biện dẫn là Lí Thái Tổ muốn bày tỏ ý nguyện làm cho đất nước vững bền,
thịnh vượng. Cũng như người trước, những việc trọng đại (dời đô) đều phải
phù hợp với điều kiện thực tiễn, khách quan (mệnh trời) và hợp với lòng người
thì mới đạt được thành quả tốt đẹp. Trong mạch lập luận, dẫn việc dời đô của
nhà Thương, Chu, Lí Công Uẩn đang chuẩn bị cho những lí lẽ sẽ thuyết trình ở
phần sau.
- Nhìn nhận hai triều Đinh, Lê trước đó với một tinh thần phê phán tích cực,
tác giả nhận định rằng việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp nữa:
"Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số
phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi". Hoa
Lư là vùng có địa thế hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp
với chiến lược phòng thủ. Nhưng đến đời Lí thì đất nước đặt ra nhu cầu phát
triển, cho nên đô thành phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác. Không chỉ có lí
lẽ, Lí Công Uẩn bày tỏ cả tấm lòng mình: "Trẫm rất đau xót về việc đó". Tình
cảm của một ông vua luôn hướng về vận mệnh, sự tồn vong của giang sơn xã tắc
khiến người đọc cảm động. Để đến đoạn cuối, tác giả cho ta thấy con mắt nhìn
xa trông rộng, thấu tình đạt lí khi quyết định lựa chọn thành Đại La làm nơi định
đô lâu dài.
- Thành Đại La có vị thế thuận lợi về nhiều mặt. Về mặt địa lí, tác giả phân
tích rõ: "Nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi", bốn hướng
đều thông thoáng lại ở thế "nhìn sông dựa núi" vững vàng, "địa thế rộng mà
bằng; đất đai cao mà thoáng". Trên địa thế ấy, dân cư sẽ tránh được lụt lội mà
"muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ
kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu: "Thật là chốn tụ hội trọng
yếu của bốn phương đất nước". Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là
đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.
- Lấy sử sách làm chỗ dựa cho lí lẽ, lại lấy lí lẽ khuôn thước ấy mà soi
vào thực tế của hai triều Đinh, Lê để thấy rằng việc dời đô là tất yếu và cuối
cùng đưa ra sự lựa chọn, khẳng định Đại La làm nơi đóng đô mới tốt nhất, tác
giả của bài chiếu đã thiết lập một lập luận chặt chẽ, sáng rõ. Hình thức văn
xuôi có đan xen những câu mang sắc thái biểu cảm và những câu văn biền
ngẫu giàu nhạc điệu, cân xứng, nhịp nhàng (cặp đoạn câu cân xứng, sóng đôi:
"Đã đúng ngôi...; lại tiện hướng...", Địa thế...; đất đai...) góp phần tích cực tạo
nên sức hấp dẫn của bài chiếu.
- Nhìn rõ thực trạng của mình để có những quyết định thay đổi đúng đắn,
cần thiết cho thấy một sự tự ý thức tích cực. Ý thức ấy một khi thể hiện được ý
nguyện của cả dân tộc sẽ trở thành tinh thần tự cường, là dấu hiệu đáng mừng
cho thấy sự lớn mạnh của một đất nước. Như ở đầu bài viết đã từng nói đến,
việc dời đô từ một nơi có địa thế hiểm trở, thuận cho phòng ngự, phù hợp với
10
tiềm lực còn đang chưa mạnh đến một nơi rộng rãi, thông lưu, thuận lợi cho phát
triển mang ý nghĩa chiến lược vĩ mô, chứng tỏ dân tộc Đại Việt đã đủ sức xây
dựng độc lập tự cường như các quốc gia khác (nhất là đối với phong kiến
phương Bắc).
Câu kết của bài chiếu: "Trẫm muốn... Các khanh nghĩ thế nào?" vừa thể hiện
tính quyết đoán của đấng minh quân lại vừa thể hiện tinh thần dân chủ. Ngay
điều này nữa cũng là một phần sức mạnh thuyết phục của Chiếu dời đô. Tương
truyền rằng, khi dời đô, thuyền vua đến dưới thành thì có rồng vàng bay lên, vua
nhân đó đổi tên là thành Thăng Long (rồng bay lên). Điềm báo này khẳng định
việc dời đô của đức Lí Thái Tổ là thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Thăng Long Hà Nội mảnh đất linh thiêng ngàn năm, hôm nay còn vang vọng lời Chiếu dời
đô.
Bước 4: Rèn luyện kĩ năng
- Cách đọc
Đọc bài văn bằng giọng điệu mạnh mẽ, ngắn gọn, ngắt câu, ngắt nhịp dứt
khoát, phù hợp với giọng điệu, sắc thái biểu đạt của tác phẩm. (Minh họa cách
đọc trên video)
- Chứng minh Chiếu dời đô có kết cấu chặt chẽ, lập luận giàu sức thuyết phục.
Gợi ý: Tham khảo đoạn văn.
… “Chiếu dời đô được chia thành hai phần lớn với hệ thống lí lẽ được triển
khai sắc sảo mà đầy thuyết phục. Ngôn từ của văn bản tuy rất kiệm lời mà ý tứ
thì thấm đượm sâu xa.
Thiên đô chiếu mở đầu bằng việc nêu ra mục đích quan trọng của việc dời
đô. Dời đô là để “ở nơi trung tâm” tiện “mưu toan việc lớn” và cũng là để “tính
kế muôn đời cho con cháu về sau”. Dời đô cũng có nghĩa là để trên thì hợp mệnh
trời, dưới thì thấu đạt ý dân. Như vậy dời đô thực là để xây dựng đất nước mạnh
giàu, đem lại hạnh phúc và nền thái bình thịnh trị đời đời. Xét về lí, việc dời đô,
đến đây, quả thực vô cùng quan trọng. Nhưng để cho chân lí được vững chãi
hơn, nhà vua đã dẫn ra những chứng nhân của lịch sử để dễ dàng thu phục nhân
tâm.”…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các hoạt động trên tôi cho một tiết học ở một bài học cụ
thể tôi thấy hiệu quả rõ rệt. Vì vậy tôi đã vận dụng ở các tiết học khác cho văn
nghị luận trung đại lớp 8. Qua việc chuẩn bị bài trong tiết phụ đạo nhận thấy tiết
học hiệu quả, nội dung bài học sâu sắc hơn. Học sinh hiểu văn bản, hiểu về lịch
sử dân tộc. Dung lượng sáng kiến kinh nghiệm không cho phép nên tôi chỉ lấy
một ví dụ ở một văn bản mà thôi. Từ việc vận dụng phương pháp dạy học tích
hợp này tôi thấy trong năm học này những nhận thức của HS mà trước đó tôi đã
khảo sát về việc dạy - học các các văn bản nghị luận trung đại được nâng lên rõ
rệt, cụ thể như sau:
- Có 10% học sinh không thích học hoặc không am hiểu văn học trung đại trong
chương trình bậc học THCS.
11
- Có 15% HS chỉ coi việc học các môn văn hóa nói chung, văn học trung đại nói
riêng là bình thường, chỉ là điều cần và đủ.
- Có 75% HS thật sự yêu thích văn học trung đại, học với sự say mê, hứng khởi,
đầy nhiệt tình.
3. Kết luận và kiến nghị
- Kết luận:
Với cách dạy này, tôi đã thu được một số kết quả.
So với những năm học trước, năm nay tôi dạy lớp 8A có hiệu quả rõ rệt:
- Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Các em mạnh dạn bày tỏ những cảm
nhận riêng của mình; kể cả những em nhút nhát, ít khi giơ tay.
- Dưới sự định hướng của thầy giáo, các em chủ động phát hiện kiến thức, nắm
bắt kiến thức. Giờ dạy thật thoải mái, nhẹ nhàng.
- Cuối giờ kiểm tra lại bài, phần lớn các em đều nắm bắt được bài ngay tại lớp.
Từ quan điểm này, tôi đã vận dụng đưa vào các tiết học sự chuẩn bị, tìm
hiểu trước của thầy và trò về các văn bản nghị luận trung đại lớp 8 trong tiết bổ
trợ để tiết học chính khoá đã đem lại kết quả cao trong việc truyền thụ và thẩm
thấu thơ văn; tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, làm các em có thể
chủ động tiếp thu kiến thức, sôi nổi học tập.
Để đạt được điều đó, giáo viên cần phải có lòng nhiệt tình, say mê với
nghề nghiệp bởi thiết kế một bài dạy như vậy, đòi hỏi phải có một quá trình
chuẩn bị về thời gian, về công sức, về tư liệu…
- Kiến nghị
Song, tôi thiết nghĩ, với lòng tâm huyết, yêu trẻ và sự quan tâm hơn nữa
của các cấp, các ngành để trang bị cho người giáo viên những tranh ảnh, tư
liệu… có sẵn thì chúng ta có thể khiến việc dạy các văn bản nghị luận trung đại
thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Trong điều kiện có thể sẽ tạo điều kiện cho học sinh
đi thực tế tại Ninh Bình và Hà Nội để các em hiểu thêm lịch sử hào hùng dân tộc
qua phần văn học trung đại.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi khi sử dụng phương tiện hiện
đại trong giảng dạy tác phẩm văn chương. Rất mong được sự đóng góp, nhận xét
của các thầy cô và đồng nghiệp để có được những bài dạy hoàn thiện hơn và tôi
có thể nâng cao được tay nghề.
Tuy có nhiều trăn trở và nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi trình bày nhưng
cũng không tránh khỏi được thiết sót. Vậy tôi kính mong được bạn bè, các đồng
chí đồng nghiệp góp ý để đề tài có chất lượng tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
12
Tài liệu tham khảo
1. Ý nghĩa của dạy học theo quan điểm tích hợp - Theo ThS. Đào Thị Hồng Viện NCSP - Trường ĐHSP Hà Nội.
2. Dạy học tích hợp – Lê Phương Trí – Báo dân trí.
3. Quan điểm về dạy học tích hợp liên môn - Nguyễn Xuân Thành, Phó Vụ
trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT).
4. Bồi dưỡng thường xuyên về dạy học – Huỳnh Thà – Sở GD&ĐT Quảng
Ngãi.
Phụ lục
1.
Đọc tham khảo: Thư gửi Đức Vua Lý Thái Tổ của học sinh. Bức thư
gửi Đức vua Lý Thái Tổ của một học sinh lớp 9 hưởng ứng cuộc thi viết
thư cho đức vua Lý Thái Tổ với nội dung “Nói lên cảm nghĩ của mình
nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội”
2.
Xem ảnh tư liệu về văn bản: Chiếu dời đô-Lí Công Uẩn. (trên máy chiếu)
Kính gửi Đức vua Lý Thái Tổ!
Thủ đô Hà Nội nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung đã trải qua bao
thăng trầm biến cố lịch sử, cùng với đó là sự phát triển và lớn mạnh của đất
nước trong quá trình tồn tại. Điều đó không thể không kể đến công lao của Đức
vua.
Cháu được biết, Hà Nội đang chuẩn bị kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà
Nội, điều đó gắn liền với việc dời đô của Đức vua – một công việc mang ý nghĩa
rất quan trọng. Trước đó, trong lịch sử ta có đến ba lần dời đô, có thể kể đến
như: Thời kì dựng nước Văn Lang – Âu Lạc, Thời kì nghìn năm chống Bắc
thuộc, Thời kì đầu độc lập vào thế kỉ X, và cuối cùng là đến việc dời đô của Đức
vua.
Kinh đô là trung tâm chính trị - hành chính, gắn liền với trung tâm quân
sự, kinh tế và văn hóa của một dân tộc. Không một triều đại, thể chế chính trị
nào khi nắm quyền hành trong tay không nghĩ tới việc xác định vị trí đóng đô, vì
nó quyết định nhiều tới vận mệnh quốc gia. Đất nước ta đã có từ lâu đời, và để
tồn tại đến ngày nay quả là một quá trình lâu dài và bền bỉ.
Đức vua quả là một bậc hiền tài hiếm có, có tầm nhìn xa trông rộng và lo
lắng đến đời sống nhân dân hết mức. Khi lên ngôi, Đức vua đã nhìn ra ở kinh
đô Hoa Lư những mặt hạn chế không còn phù hợp với nhu cầu xây dựng đất
nước trên quy mô lớn và đẩy mạnh phát triển kinh tế, mở mang đời sống văn
hóa.
13
Và rồi “xem khắp nước Việt” chỉ có khu vực Thành Đại La mới là “nơi
thắng địa thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô
kinh sư mãi muôn đời”. Trước khi dời Đô, Đức vua đã hỏi ý kiến của nhân dân,
quần thần trong triều, điều đó cũng thể hiện Đức vua là người muốn nghe ý
kiến, tôn trọng mong muốn nhân dân, yêu thương và luôn lo lắng đến đời sống
của họ.
Đức vua là người có tầm nhìn rộng, xuyên suốt không gian cũng như thời
gian khi chọn thành Đại La là kinh đô: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của
Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng
ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà
bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn
vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là
thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi
kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Vào mùa Thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Đức vua đã đích thân việc
dời đô từ Hoa Lư về Đại La, nhân đó Đức vua đã đổi tên gọi Thành Đại La
thành Thành Thăng Long. Cháu thấy rằng việc quyết định đổi tên là Thành
Thăng Long chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. “Thăng Long” là biểu tượng của Rồng
Bay, vừa mang khí thế vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, vừa chứa đựng ý niệm
thiêng liêng về cội nguồn Rồng Tiên và ước mơ về nguồn nước, mưa thuận gió
hoà của cư dân Văn minh nông nghiệp trồng lúa nước.
Cũng kể từ đó, việc làm ăn của nhân dân Thăng Long thuận hòa hơn,
nhân dân không phải chịu cảnh lụt lội, đời sống kinh tế phần nào đã tốt hơn, đất
nước ổn định, phát triển. Và đến ngày nay, con cháu Rồng Tiên vẫn nối tiếp
thành quả của Đức Vua trong sự nghiệp giữ gìn đất nước.
Đã gần tròn 1000 năm trôi qua, cuộc sống của nhân dân càng ngày càng phát
triển: nhiều khu dân cư, nhà cao tầng, xí nghiệp... mọc lên. Trong sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như ngày nay không thể không kể đến
công lao của Đức vua trong việc dời đô. Về các mặt trong đời sống, như y tế,
giáo dục, kinh tế, văn hóa - xã hội... rất ổn định và phát triển. Con em được học
hành tử tế, kinh tế luôn mở mang ra đa ngành nghề, Việt Nam gia nhập nhiều tổ
chức quốc tế... . Việt Nam đang ngày càng mở cửa, tiếp xúc rộng rãi và khẳng
định mình trên trường quốc tế với bạn bè năm châu.
Và Hà Nội - Trung tâm hành chính quốc gia, vẫn luôn sẵn sàng chuẩn bị cho
các cuộc hội họp, hội nghị quốc tế. Hà Nội cũng là bộ mặt của đất nước, luôn
luôn thể hiện mình, để có thể xứng tầm với thủ đô khác của thế giới. Cùng với
14
đó, nhân dân Hà Nội đang nô nức đón chào Đại lễ Kỷ niệm 1.000 năm Thăng
Long – Hà Nội, gắn liền với việc dời đô của Đức vua.
Có thể nói việc chọn Thành Đại La là một việc vô cùng sáng suốt, nó thể
hiện sự lớn mạnh, niềm tự hào sâu sắc của dân tộc Việt Nam quật cường. Quả
thực, Đức vua là con người khéo biết đúc kết và kế thừa toàn bộ tri thức, kinh
nghiệm của cha ông, vươn tới nhãn quan chính trị rộng lớn và tầm nhìn thiên
niên kỷ. Đức vua còn tác giả đầu tiên, vĩ đại nhất của kinh đô Thăng Long Kinh đô, Thủ đô của quốc gia Đại Việt, của đất nước Việt Nam nghìn năm qua
và mãi mãi về sau.
Cuối thư cháu xin thay mặt những người dân Việt Nam gửi đến Đức vua
sự biết ơn thành kính, sâu sắc về những công lao mà Đức vua đã cố gắng dựng
nên vì cuộc sống của người dân Đất Việt xưa, và cả Việt Nam sau này. Cháu
cũng hi vọng rằng dân tộc Việt Nam luôn quật cường, đứng vững dù có khó
khăn xảy ra, biến cố nào đi chăng nữa, để luôn xứng đáng là Con Rồng Cháu
Tiên, tiếp nối công lao của Đức vua.
Cháu – Người con Đất Việt
15
Ảnh minh họa Cảnh dời đô
16
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng – Ninh Bình
17
“Chiếu dời đô” trên đường Bắc Sơn – Hà Nội (Áp píc nhân dịp ngàn năm
Thăng Long – Hà Nội)
18
Thiên đô chiếu được khắc tại Tiêu Sơn tự, tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã
Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (ảnh: Báo Thái Bình)
19
Hoằng Hóa ngày 12 tháng 05 năm 2016
Người viết sáng kiến kinh nghiệm
Nguyễn Thị Thanh
Ý kiến nhận xét đánh giá của Hội đồng khoa học cấp trường
20
- Xem thêm -